Quản trị marketing quốc tế Philip Kotler



tải về 4.83 Mb.
trang9/45
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.83 Mb.
#37906
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   45

Quan sát tình trạng chính trị và mối nguy hiểm

Các nhà thị trường cần phải nhạy cảm trước biến động chính trị. Nên sẵn sàng đối phó với những kế hoạch bất ngờ khi môi trường chính trị chuyển sang thù địch khi đó cần có những biện pháp để giảm nguy hiểm. Một vài ngân hàng lớn và MNCs có những biện pháp làm giảm nguy hiểm đối phó với nỗi sợ hãi Liên minh đảng Cộng Sản sẽ lên nắm quyền trong cuộc bầu cử 1978 ở Pháp. Mối lo sợ của họ cũng dễ hiểu, bởi vì hầu hết các công ty này nằm trong danh sách quốc hữu hoá của phái tả. Chiến lược bảo vệ của họ bao gồm tiền vốn ra , chuyển giao bằng sáng chế, và các tài sản khác tới các các chi nhánh ở nước ngoài và bàn cổ phiếu củ công ty cho người nước ngoài và công dân Pháp sống ở nước ngoài.Những hoạt động này một khi được thực hiện sẽ làm cho chính phủ Pháp khó khăn để quốc hữu hoá tài sản của công ty. Để tránh sự trả đũa những hoạt động này phải đựoc giữ yên lặng. Khi những sự kiện đã được sang tỏ, những sợ hãi cũng đúng một phần, Mặc dù đảng Liên minh thắng cử, chính phủ mới rất thực tế và không theo đuổi tích cực sung công trong phạm vi rộng

Các biện pháp khác

một vài bước mà MNCs có thể thực hiện nhằm giảm thiểu rủi ro chính trị. Một chiến lược co thể làm là giữ lợi nhuận hấp. Bởi vì rất khó để chiều lòng khách hàng tất cả mọi lúc. Điều này đặc biệt khó đối với các công ty tương đối không mấy tên tuổi. Ví dụ, trong thập kỷ 80 Texas instrrucment đã thay đổi logo và biển hiệu ở El Salvador.

Một chiến lược khác là cố gắng chấp nhận Nội địa hoá. Trong thực tế, để tiếp cận, đòi hỏi công ty phải thích nghi với môi trường nước chủ nhà. Không ty không giành được nhiều thành công nếu cho dân tộc mình là hơn cả và cố gắng Mỹ hoá các công dân nước chủ nhà. Một người có thâm niên lâu năm trong Kinh doanh quốc tế chỉ ra rằng, Công ty sẽ tốt hơn nhiều nếu nó dễ thích nghi và linh hoạt. Một công ty như vậy sẽ biết rằng nó nên sử sự như một người mề dẻo, và thích nghi với môi trường. Một lý do tại sao McDonaldlại sử dụng những nhân viên nước chủ nhà, nó có vẻ giống như công ty nước chủ nhà . Đó cũng là một mục tiêu cu tập đoàn Hăley. Công ty này được xem như là công ty Mỹ trong lòng nước của Mỹ , Công ty Anh ở nước Anh và công ty úc ở nước úc.

Cuối cùng, cần thận trọng đề phòng, bảo vệ Những lái xe motô nên được huấn luyện để chống lại bắt cóc, những người quản lý cần được hướng dẫn cách giải quyết những tình huống không lường trước và đặc biệt được dạy tránh đi theo những lối mòn. Nên phòng ngừa ngay cả những việc rất đơn giản. Chẳng hạn ở El Savador. Texass Instrucment đã dựng lên những bức tường bảo vệ cho các phương tiện của nó và thuê thêm nhân viên an ninh. Tốt hơn nên lo trước mọi chuyện khi đã quá muộn.

Bảo hiểm chính trị


Trong các chiến lược nhằm tránh rủi ro và giảm rủi ro. Các MNCs có thể sử dụngmột chiến lược để chuyển giao rủi ro. Mức độ bảo hiểm có thể có được từ một số nguồn . Đối với các công ty của Mỹ 3 nguồn chủ yếu là bảo hiểm cá nhân, OPIC, và FCIA

Bảo hiểm tư nhân

Một số lớn các công ty tự bảo hiểm cho mình. Một kế hoạch tốt hơn là nên làm theo ví dụ của CluB Med bằng cách chuyển rủi ro chính trị cho một bên thứ 3 thông qua mua bảo hiểm chính trị. NBC đã được một nhà bảo hiểm bồi thường khoản tiền hậu hĩnh khi nó phải trì hoãn chương trình truyền hình Olimpic Games tại Matxcova năm 1980 vì tổng thống Cater đã cấm không cho các vận động viên Mỹ tham dự Olimpic để phản đối việcc Xô Viết đem quân vào Afghanistan .

Mặc dù sung công tài sản chiếm như là lý do phổ biến nhất cho các công ty mua bảo hiểm chính trị. Chính sách bảo hiểm nên bao gồm cả bảo hiểm bắt cóc, khủng bố, và sung công từ từ. Thông tin về hầu hết các công ty bảo hiểm đều rất khan hiếm, bởi vì các công ty rất thận trọng và không thể cho phép tiết lộ tin tức họ đang tiến hành một việc như là bảo hiểm bắt cóc chản hạn.Vì việc tiết lộ những tin tức này chỉ càng làm khuyến khích các hoạt động đó. Tỉ lệ phí bảo hiểm cho bảo hiểm không thảm khốc điển hình cao hơn gấp 5- 10 lần bảo hiểm thương mại thường. Mức giá cao phản ánh, chỉ có một lượng nhỏ các nhà bảo hiểm tư nhân ỏ Mỹ cũng như là sự thiếu kinh nghiệm thực tế trong tính toán các tỷ lệ đòi hỏi cần có tính kỹ thuật cao trong bảo hiểm. Chỉ có một ít công thức cơ bản . Đối với một nhà thầu xây dựng một bệnh viện ở nước ngoài trị giá 200USD, tỉ lệ phí bảo hiểm sẽ phụ thuộc vào địa điểm xây dựng. Nếu dự án ở Tây Ban Nha , phí bảo bảo hiểm có thể chỉ 1.6 triệu USD. nhưng nếu dự án ở A Rập- quốc gia có độ rủi ro trung bình thì phí bảo hiểm sẽ gấp đôi và gấp 4 lần nếu ở Libia- quốc gia có độ rủi ro cao.

Phí bảo hiểm có thể được chiết khấu hoặc giảm xuống gần 50% nếu công ty mua bảo hiểm của cùng một công ty bảo hiểm cho hoạt động kinh doanh của mình trên toàn thế giới.

OPIC


MNCs không phải chỉ dựa vào duy nhất các công ty bảo hiểm tư nhân t. Có nhiều cơ quan nhà nước, phi lợi nhuận có thể cung cấp những loại bảo hiểm tương tự cần thiết. Một trong những tổ chức đó là OPIC (Tổ chức Hợp tác Đầu tư tư nhân hải ngoại ) OPIC là cơ quan của Mỹ hỗ trợ phát triển kinh tế thông qua bảo hiểm dầu tư và chương trình tài chính tín dụng. Không giống như AID (cơ quan phát triển quốc tế ) cung cấp sự hỗ trợ giưã 2 chính phủ với nhau. OPIC là một cơ quan theo hướng về hoạt động kinh doanh , Mục dích của nó là hỗ trợ đầu tư tư nhân của Mỹ. Đã được quốc hội thông qua năm 1981. OPIC là một tổ chức độc lập, tự lực về tài chính . Tuy nhiên những hợp đồng của nó hoàn toàn được sự giúp đỡ từ chính phủ Mỹ- một người chủ duy nhất. Bộ bảo hiểm và tài chính là 2 bộ chính điều hành hành cơ quan này.

Các chương trình của OPIC đưa ra :

  • Dự án của nhà đầu tư là một dự án kinh doanh mới hoặc mở rộng doanh nghiệp đang hoạt động và

  • Dự án đặt tại một quốc gia đang phát triển ở đó OPIC hoạt động và

  • Dự án sẽ hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của nước chủ nhà

  • Dự án phải được nước chủ nhà thông qua và

  • Dự án phù hợp với lợi ích kinh tế của mỹ và không có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể tới nền kinh tế nước mỹ và nhân công Mỹ

OPIC sẽ không hỗ trợ dự án “Runaway Plant ” ( ví dụ một công ty bị phá sản tại Mỹ thiết lập một công ty ở nước ngoài ở đó sản xuất những sản phẩm hoặc dịch vụ tương tự và những sản phẩm hoặc dịch vụ này được bán ở thị trường tương tương tự trước đó) .OPIC cũng không hỗ trợ cho những dự án : Hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nhà máy sản xuất rượi, dự án quân sự, dự án gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường.

Chương trình cụ thể


Các tiêu chí đưa ra của OPIC và các chương trình cụ thể của OPIC

Bảo hiểm


  • OPIC chỉ có thể phát hành bảo OPIC hiểm cho những nhà đầu tư có đủ tiêu chuẩn dưới đây

+ Là công dân nước Mỹ hoặc

+ Là các công ty của Mỹ, Các đối tác hoặc các tổ chức kinh doanh khác mà Mỹ sở hữu ít nhất 50% hoặc

+ Các công ty nước ngoài, các đối tác hoặc các tổ chức kinh doanh khác

các nhà đầu tư có đủ khả năng trên chiếm sở hữu 95 %



  • OPIC sẽ bảo hiểm không quá 90% Dự án cộng với thu nhập của dự án. Bởi vậy các nhà đầu tư phải chịu ruỉu ro ít nhất 10% của dự án được OPIC bảo hiểm.

  • OPIC chỉ bảo hiểm chỉ khi mua bảo hiểm do vậy Các nhà đầu tư phải mua bảo hiểm trước dự án kinh doanh được thực hiện và cam kết không huỷ ngang. Chính vì thế các nhà đầu tư được khuyến khích liên hệ với OPIC ngay từ khi lập dự án kinh doanh.

  • Không có một Form cố định cho Bảo hiểm của OPIC.


Tài trợ


  • Chỉ cho vay vốn trực tiếp đối với những dự án được tài trợ bởi, hoặc những dự án kinh doanh nhỏ của Mỹ

  • Vốn vay được cấp cho

+ Nhà đi vay người Mỹ cổ phần chiếm trên 50%.

+ Các cơ quan nước ngoài mà Mỹ chiếm trên 95%cổ phần



  • OPIC sẽ không mua cổ phiếu của dự án, nhưng có thể mua đồng tiền chuyển đổi và các công cụ vay nợ .

OPIC hoạt động đa mục tiêu, một trong những mục tiêu xúc tiến đầu tư ở nước ngoài sẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của các nước thế giới thứ Ba. Những mục tiêu này đòi hỏi OPIC phải xem xet từng mục tiêu kỹ lưỡng đẻ đảm bảo mục tiêu lâu dài nước chủ nhà (ví dụ Việc làm, tiết kiệm nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu , đào tạo, thu nhập thuế.vvv ). Các dự án được phê duyệt phải phục vụ lợi ích của Mỹ : mở rộng ngoại thương , bảo vệ thị trường nội địa, việc làm, tiếp cận nguồn nguyên vật liệu, thu nhập các nhà đầu tư và hỗ trợ cho các quốc gia thân với Mỹ. Bởi vậy, Luật pháp của chính phủ ngăn cấm không cho OPIC giúp đỡ các dự án đầu tư tư nhân của Mỹ mà có thể làm phương hại tới nền kinh tế Mỹ. Trong năm tài chính 1985, OPIC đã từ chói 20 trong số 147 dự án bởi vì chúng có tác động tiêu cực tới Mỹ. Hầu hết các dự án bị từ chối đềuliên quan đến các lĩnh vực kinh tế nhay cẩm như là dệt may, dày dép, điện tử, hoa trag trí. Một trong những dự án như vậy liên quan đến sản xuất giầy dép mà được làm khung ở Mỹ sau đó chuyển sang nước ngoài để khâu và làm đế bằng vật liệu tổng hợp rồi xuất trở lại Mỹ. Các nhà đầu tư đã tranh luận rằng, Với phương pháp này ssẽ cho phép họ đứng vững trong kinh doanh hkhi cạnh tranh với giầy nhập khẩu và anh ta có thể sử dụng nhân công Mỹ.

Tuy nhiên OPIc lại nghĩ khác. OPIC kết luận dự án đó sẽ là thiệt hại tới nhà máy sản xuất giầy dép của Mỹ., do vậy OPIC từ chối loì yêu cầu hỗ trợ.

OPIc đưa ra một vài loại hình hỗ trợ trong đó bảo hiểm rủi ro về chính trị là hoạt động chủ yếu. Các loại hình là

hỗ trợ khác bao gồm bảo đảm vồn vay, cho vay trực tiếp, cho vay bằng đồng tiền địa phương, tài trợ dụ ấn đặc biệt và tiến hành khảo sát và nghiên cứu khả thi ccá quỹ cho vay. OPIC đã cho vay gần 1 tỉ USD vay trực tiếp và vay có đảm bảo.

2 dịch vụ hữu ích của OPIC trong lĩnh vực thông tin là dịch vụ thông tin những nhà đầu tư và ngân hàng các cơ hội kinh doanh (IIS) Ngân hàng các cơ hội là một hệ thống được vi tính hoá . Nó được sử dụng như một kênh thông tin về đầu tư nhằm tạo thuận lợi cho trao đổi các dòng thôn tin giữa các công ty Mỹ và các nhà tài trợ của cá dự án đầu tưở LDCs. Cả hai bên đều phải đăng kí những mục đích đầu tư và những yêu cầu đầu tư của mình ( chẳng hạn một công ty Mỹđăng kí loại hình kinh doanh, quốc gia sẽ đầu tư ). Không phải mất phí đăng kí này. Hệ thống thông tin này sẽ xử lý các thông tin để những lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài và và các cơ hội đầu tư nước ngoài gặp nhau. (Thông tin này do các dự án kinh doanh nước ngoài cung cấp để tìm các nhà đầu tư Mỹ). Phí trả cho việc này rất ít.

ISS là một ngân hàng xuất bản các thông tin cơ bản khi một công ty quan muốn quan tâm đến đầu tư ở nước ngoài. các tài liệu được thu thập thành Kit với nhiều Kit khác nhau cho hơn 100 LDCs và 10 khu vực. Những Kít này bao gồm, những vấn đề vè kinh tế, phát luật thương mại, điều luật kinh doanh, tình hình chính trị, các ưu đãi về đầu tư của các nước và khu vực đang phát triển.

OPIC có ba loại bảo hiểm bao gồm bảo hiểm rủi ro về đồng tiền không chuyển đổi, Quốc hữu hoá tài sản ( kẻ cả quốc hữu hoá một phần) và rủi ro hoặc thiệt hại bởi chiến tranh, khởi nghĩa hoặc bạo động, Hình 4-6, 4-7, và 4-8 chỉ các loại hình bảo hiểm của OPIC. Hình 4-9 miêu tả những rủi ro và phí bảo hiểm . Một hợp đồng bảo hiểm thường kéo dài 20 năm. với phí bảo hiểm hàng năm là 1,5 % cho 3 loại bảo hiểm trên. Bảo hiểm của OPIc rõ ràng hơn bảo hiểm tư nhân.

Hầu hết tất cả các phương tiện đầu tư đề có thể được bảo hiểm. chúng bao gồm cổ phiếu, tiền đi vay,tiền gốc và tiền lãi, bảo đảm thanh toán tiền vay của người vay khác, thu nhập trong các doanh nghiệp nước ngoài, bản quyền tác giả, tiền bồi thường cho các nhà đầu tư với những hợp đôngf hợp tác với chính phủ nướcngoài., tát cả các hình thức thu nhập chính thức hoặc được chấp nhận của các hoạt động đầu tư khác. Đối với các coong ty xây dựng và cơ khí, OPIC bảo hiểm khi hợp đồng bị phá bỏ và cung cấp bảo hiểm đảm bảo cho đấu thầu và hoạt động băng thư tín dụng khi các quốc gia nước ngoài yêu cầu các công ty Mỹ .

Từ khi OPIC thành lập, cơ quan này đã chi hơn 28 tỉ USD bảo hiểm chính trị. Hình 4-10 chỉ rõ số lượng bảo hiểm hang năm. Dịch vụ của OPIC rất có giá trị. Nhiều quốc gai có thu nhập thấp hoặc các quốc gia kém phát triển đề kí hiệp định sử dụng các dichj vụ của OPIC. cho đến nay có hơn 87 quốc gia và 2000dự án đầu tư sử dụng các dịch vụ của OPIC. Chẳng hạn, OPIC đã cấp 225 ttriệu USD cho bảo hiểm quốc hữu hoá và bạo động chính trị cho 20 côngty Mỹ đang hoạt động ở Trung quốc.

Rất nhiều các nghành công nghiệp thu được lợi từcác chương trìn cảu OPIC từ sản xuất nông sản và hoá chất đến ngân hàng và xây dựng lớn. Các công ty thành công trong kinh doanh mạo hiển đều được sự hỗ trợ từ OPIC bao gồm Ford ở ấn Độ (bảo hiểm ), Hormel ở Philipin (bảo Hiểm ), Black and Decker ở Namtư (bảo hiểm),Dresser ở Trung Quốc (bảo hiểm), Owen-Illinois ở Ai cập (bảo Hiểm), Union carbide ở SuĐăng (bảo hiểm ), Squibls ở Pakítan (bảo hiểm đồngvà tiền địa phương, Agro-Tech international ở Đôminica (Vay trực tiếp ).

Theo Douglas và Craig , rủi ro chính trị bao gồm 4 yếu tố : (1) Sự bất ổn định trong nước (e.g ., sự bạo loạn , thanh trừng , ám sát …) , (2) xung đột với nước ngoàI (e.g ., trục xuất cán bộ ngoại giao , bạo lực vũ trang …) , (3) Tình hình chính trị (e.g .,vị trí của Đảng cộng sản , số ghế của các nhà xã hội học trong cơ quan lập pháp ) và (4) Tình hình kinh tế (e.g ., GNP, mức nợ nước ngoàI và những khó khăn khác ).

Đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ , thì tự họ phải phân tích rủi ro chính trị của một nước là không thể được do những yêu cầu về kinh phí , chuyên gia và một số nguồn lực khác. Tuy vậy vẫn có một số giải pháp có thể cung cấp những đánh giá có ích về rủi ro chính trị . Một là phỏng vấn những người hiểu biết hay có kinh nghiệm ở đất nước đó , bao gồm những nhà kinh doanh , chủ ngân hàng hay các quan chức chính phủ. Có thể có sự lựa chọn khác là sưu tập những bàI viết về vấn đề này. Bài viết có thể tham khảo là về tỷ xuất cho vay của một nước được cấp bởi tạp chí Institutional Invester. Dựa trên cuộc nghiên cứu 100 ngân hàng đứng đầu các quốc gia vế số vốn đI vay của nước đó, về nguy cơ không trả được nợ và xếp hạng 100 quốc gia đó cứ 6 tháng một lần .Những ngân hàng lớn ,có hệ thống phân tích tinh vi phảI đảm nhiệm nhiều phần việc hơn . Về các khoản nợ của ngân hàng Mỹ hay Continental Banks thì phân tích rủi ro đương nhiên là phảI sử dụng hệ thống của các ngân hàng lớn nhất thế giới.

Một giảI pháp khác tương đối đơn giản là căn cứ vào LIBOR(tỉ suất cho vay của hệ thống liên ngân hàng của Luân Đôn ) . Tỷ suất LIBOR là tương đồi an toàn vì nó là lãI xuất trả cho các khoản vay giữa các ngân hàng. Người muốn vay không phảI là một ngân hàng tất nhiên sẽ phải trả mức phí cao hơn LIBOR, mức chênh lệch đó (chênh lệch giữa tỷ suất vay và LIBOR) cho biết mức độ rủi ro bao gồm.Nếu người vay từ nước có rủi ro không trả được nợ cao phải chịu một mức phí cao hơn. Vì vậy mức phí này có thể là dấu hiệu để nhận biết rủi ro vì nó phản ánh đánh giá của người cho vay về nước đó về các mặt mức nợ nước ngoài ,tình hình trả nợ. Vì các khoản nợ là không thích hợp để so sánh , sự điều chỉnh là về số lượng và mức bão hoà.Do đó tạp chí Euromoney đã đưa ra một công thức cho phép tính sự đIều chỉnh này và công thức để tính Chỉ số lãI suất kinh doanh ngoạI tệ của một nước (spread index) là :

[ (volume  spread ) + Euromoney index] + (volume  maturity)

Bằng cách đơn giản xem xét chỉ số kinh doanh ngoạI tệ của một nước và so sánh với chỉ số của nước khác , kết hợp với mức lãi suất , một nhà đầu tư có thể rút ra kết luận về độ rủi ro của nước đó. Khi các phương pháp để đánh giá rủi ro chính trị trở nên tinh vi hơn, đã có có sự thay đổi trong cách tiếp cận từ những khái niệm ban đầu và định tính sang cách tiếp cận về dịnh lượng và các yếu tố phát sinh trong nghiên cứu ứng dụng. Tuy nhiên cần có sự kết hợp giữa hai cách này. Ông Simon giảI thích trong điều kiện tăng áp lực lên kết quả ứng dụng , không có gì là ngạc nhiên nếu cả hai lý thuyết trên đều không cho kết quả. Ngoài lý thuyết , mỗi tình huống rủi ro mới xuất hiện có xu hướng được xem là chỉ liên quan tới một nước , sẽ không có một nỗ lực nào để sửa chữa và nó sẽ lan tới khắp các nước . Vì moõi nước là một phần của hệ thống quốc gia và toàn cầu phụ thuộc lẫn nhau, những nước phụ thuộc nhiều thường mất cơ hội để đánh giá rủi ro chính trị .Vì vậy , cần có một khung đánh giá chung cho 4 yếu tố môI trường cơ bản (nước nhận đầu tư, nước đầu tư, trường quốc gia , trường quốc tế ) mà một MNCs phảI hoạt động.

Nói chung trong khi các nhà đầu tư tư nhân có khả năng tiếp cận các mặt thương mại của hoạt động kinh doanh ở nước ngoài thì họ lại có vẻ khá dè dặt trong việc tiến hành các hoạt động đầu tư ra nước ngoài vốn là do sự không ổn định về chính trị của các quốc gia đang phát triển. Để làm giảm bớt sự không chắc chắn này, OPIC đã bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư của Mĩ đối với 3 loại rủi ro chính trị chính sau:




tải về 4.83 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   45




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương