Quản trị marketing quốc tế Philip Kotler



tải về 4.83 Mb.
trang8/45
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.83 Mb.
#37906
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   45

Rối loạn xã hội


Sự bất ổn xã hội do những điều kiện cơ bản gây ra như sự khó khăn về kinh tế, sự chia rẽ và khởi nghĩa nổi dậy trong nước và sự khác nhau về lý tưởng,tôn giáo, dân tộc và văn hóa. Lebanon đã trải qua cuộc xung đột giữa những người Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo và nhiều nhóm tôn giáo khác. Cuộc xung đột giữa phái Hindu phái Hồi giáo ở ấn Độ tiếp tục căng thẳng. Một công ty có thể không trực tiếp dính líu vào những cuộc xung đột ở địa phương nhưng công việc kinh doanh của nó vẫn bị phá vỡ nghiêm trọng bởi những vụ xung đột như vậy. Một ví dụ điển hình là Philippine chỉ trước khi đế chế Marcos sụp đổ. Vào năm 1984, có 274 cuộc bãi công và mất 1,8 triệu giờ làm việc, gấp hai lần so với năm 1981. Sự rối loạn thị trường lao động gia tăng, mà các nhóm cánh tả ủng hộ, lớn đến mức các quốc gia đã quyết định dời bỏ đất nước này. Baxter Travenol dừng hoạt động và mất khoản đầu tư gần 10 triệu đô la. Ford đã đóng cửa các hoạt động lắp ráp, và ngân hàng Mỹ đã rời trung tâm xử lí dữ liệu khu vực đến Hồng Kông.

Thái độ của các dân tộc


Đánh gía về môi trường chính trị không hoàn chỉnh nếu không có sự kiểm tra về thái độ của các công dân và chính quyền nước sở tại. Thái độ của nhân dân đối với các doanh nghiệp và các công dân nước ngoài có thể không thiện cảm. Nhân dân nước sở tại thường quan tâm tới những ý định của người nước ngoài khai thác, bóc lột và chủ nghĩa thực dân, và những quan tâm này thường gắn với những băn khoăn, và lo lắng về những hành động của chính phủ nước ngoài mà có thể được xem là không đúng. Những thái độ như vậy có thể nảy sinh từ những triết lí dân tộc hay xã hội chủ nghĩa ở nước sở tại cuẩ công ty. Bất cứ thái độ thù địch cố hữu nào như vậy chắc chắn là những trở ngại lớn bởi vì sự tồn tại khá dai dẳng của nó. Các chính phủ có thể đến và đi, nhưng thái độ thù địch của nhân dân có thể vẫn còn. Vấn đề này có thể giải thích lí do tại sao 12 công ty Mỹ quyết định dời bỏ El Salvador vào những năm 80. Sự ra đi của họ có nghĩa là sự ra đi của 20% vốn đầu tư của Mỹ ở nước đó.

Các chính sách của nước sở tại


Không giống như thái độ thù địch cố hữu của nhân dân, thái độ của chính phủ đối với người nước ngoài thường không kéo dài lâu. Thái độ có thể thay đổi hoặc theo thời gian hoặc theo sự thay đổi trong giới lãnh đạo và nó có thể thay đổi vì sự tốt hơn hoặc tồi tệ hơn. Tác động của sự thay đổi thái độ có thể khá kịch tính, đặc biệt trong thời gian ngắn.

Mô hình chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hoặc bên trong hoặc bên ngoài sự ảnh hưởng là bên ngoài khi chính sách điều chỉnh các hoạt động của công ty trong một nước khác. một ví dụ về chính sách bên trong là đạo luật 101 của Quebec. Đạo luật yêu cầu tất cả các họat động kinh doanh được thực hiện hoàn toàn ở Pháp và ra lệnh các công ty bảo hiểm và tín thác sẽ đầu tư vào đâu. Khi đạo luật này được thông qua , phản ứng là một dòng vốn lớn rút khỏi là 57 tỷ USD. Một công ty đầu ty lớn đã di chuyển 19,2 tỷ USD đầu tư gián tiếp từ Montreal đến Ottawa.

Mặc dù chính sách đối ngoại của chính phủ không liên quan đến các công ty đang làm ăn chỉ ở một nước, một chính sách như vậy có thể tạo ra những vấn đề phức tạp cho các công ty đang kinh doanh ở những nước mà xung đột với nhau. Những bất đồng giữa các nước thường lan sang các hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn một công ty ở một nước có thể bị cấm kinh doanh với các nước khác mà được coi là thù địch. Xung đột về biên giới giữa Chile và Argentina.

Một công ty nên đặc biệt chú ý đến thời gian bầu cử. Những cuộc bầu cử đặt ra một vấn đề đặc biệt bởi vì khuynh hướng bản năng của nhiều ứng cử viên sử dụng phương pháp mị dân để tập hợp sự ủng hộ ( phiếu bầu). Các hoạt động và các chiến thuật của các ứng cử viên có thể dễ dàng tạo ra một bầu không khí ngột ngạt cho các công ty nước ngoài. Khi các chính khách của Pháp rút ra sự thật rằng cứ 5 đến 10 ô tô Nhật được nhập khẩu thì một người công nhân Pháp bị thât nghiệp, vì vậy chính phủ ngừng nhập khẩu ô tô khi cuộc bầu cử diễn ra trong vài tuần. Bộ trưởng bộ công nghiệp sử dụng mọi biện minh có thể chấp nhận đẻ từ chối những chứng nhận yêu cầu.

Việc sử dụng thuật hùng biện không thiện cảm trước cuộc bầu cử có thể không là gì nhưng đã tạo ra một bức màn, và “tiếng chó sủa” sẽ không nhất thiết được tiếp nối là “vết cắn”. trong trường hợp như vậy, một công ty không cần phả ứng quyết liệt nếu nó có thể cầm cự qua cuộc bầu cử. Ronald Reagan, một người từ lâu đã ủng hộ thương mại tư do, đã trở thành một nhà bảo vệ thực sự chỉ trước cuộc tái bầu cử của ông vào năm 1984. Sau cuộc bầu cử, một chính sách thương mại tự do đã được thiết lập lại. Do đó, một công ty phải quyết định sớm những đe dọa chỉ là như vậy và không hơn hay những nguy cơ như vậy tạo ra ý đinh và thái độ thực sự đối với tương lai của các ứng cử viên.

Phân tích rủi ro chính trị hay rủi ro đất nước

Mặc dù các nhà khoa học chính trị, kinh tế học, các doanh nhân, và học giả kiinh doanh có một vài ý kiến về rủi ro chính trị, nhưng họ dường như có nhiều khó khăn để đồng ý về định nghĩa của nó và các phương pháp để dự đoán các rủi ro. Có lẽ , bởi vì không có sự thống nhất về định nghĩa, nhiều phương pháp khác nhau đã được áp dụng để tính toán, phân tích và dự đoán rủi ro chính trị. Simon đưa ra một tổng kết về đánh giá rủi ro chính trị tốt về các mặt : định nghĩa, cách tiếp cận, cơ sở dữ liệu và những biến thể.

Một vài phương pháp đánh giá là cụ thể cho từng nước mà một thông báo rủi ro được dựa trên những hoàn cảnh đặc biệt đuy nhất, chính trị và kinh tế. Như vậy thiếu một khuôn khổ nhất quán cho phép so sánh giữa các nước. Vì một công ty đa quốc gia phải quyết định phân bổ các nguồn lực dựa trên các cơ hội tiềm năng và những rủi ro gắn liền với mỗi quốc gia, một phương pháp chung là cần thiết.

Thậm chí khi có một nỗ lực mang tính hệ thống để so sánh giữa các quốc gia, các phương pháp được sử dụng rất khác nhau. Một vài phương pháp chẳng có gì hơn là những danh sách kiểm tra bao gồm một số lượng lớn các vấn đề có liên quan mà có thể áp dụng cho mỗi nước. Một danh sách kiểm tra khá toàn diện là một bảng do Nagy xây dựng. Các hệ thống khác dựa vào những câu hỏi được gửi tới các chuyên gia hay nhân dân địa phương để đánh giá thái độ chính trị. Những hệ thống tính điểm như vậy cho phép đánh giá sắp xếp các nước theo số đã được chấp nhận. Một vài viện đã chuyển thành viện nghiên cứu kinh tế vì mục đích này. Ví dụ ngân hàng Marine Midland sử dụng ecometrics để đánh giá nhiều nước khác nhau về mặt rủi ro kinh tế.

Tuy nhiên, phương pháp nay không hoàn hảo. “Phương pháp này có bất lợi nó chỉ giải quyết với dữ liệu kinh tế, những mối quan hệ đó là đúng đối với nhiều nước nói chung từng dự đoán những kết quả các nước riêng lẻ, vầ vai trò của thống kê không cao như mong muốn.”

Simon đã chỉ ra rằng những biến thể được sử dụng để đánh giá rủi ro chính trị, có thể được phân loại theo nhiều phạm vi. Do vậy những biến thể có thể hoặc là có liên quan đến xã hội hoặc có liên quan đến chính phủ, hoặc bên ngoài hoặc bên trong( được dựa trên nguồn gốc của rủi ro ), và hoặc vĩ mô hoặc vi mô( được dựa trên hoạt động của chính phủ trực tiếp hướng vào tất cả các công ty hay chỉ một số ngành công nghiệp được lựa chọn ở nước sở tại.)

Mức độ phát triển kinh tế và hình thức hệ thống chính trị có thể được sử dụng như là những mảng phạm vi bổ sung. Các nước có thể hoặc là công nghiệp hóa hoặc đang phát triển. Và nhiều nước có thể có hệ thống chính trị mở hoặc hệ thống chính trị đóng. Một xã hội mở khi các tổ chức phi chính phủ có thể tổ chức những sự kiện bằng thể hiện sự thông qua( đồng ý ) hay bất mãn dưới hình thức: bỏ phiếu, chống đối, tẩy chay…Trong những xã hội khép kín một chính phủ không cho phép những hình thức tự do ngôn luận của công chúng và trấn áp nhân dân có thể dẫn tới những cuộc bạo động đối đầu. Bảng 4-1 một khung rủi ro chính trị.

Kiểm soát rủi ro chính trị

Để kiểm soát rủi ro chính trị , có 4 cách mà một MNCs có thể theo đuổi : tránh rủi ro, bảo hiểm rủi ro, thương lượng về môi trường và cơ cấu đầu tư.

Tránh rủi ro có nghĩa là không đầu tư kinh doanh ở những nước có sự bất ổn chính trị cao.Trong trường hợp này phân tích rủi ro chính trị là có ý nghiã rất lớn . Ngược lại, bảo hiểm rủi ro lại là một chiến lược chuyển rủi ro sang người khác(eg.,người bảo hiểm tư nhân, FCIA, và OPIC). Chiến lược này sẽ được đề cập đến chi tiết hơn ở phần sau.

Thương lượng môi trường là giải pháp để hướng tới sự thoả thuận nhượng bộ thẳng thắn trước khi cho phép công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Sự thoả thuận như vậy là để xác định quyền và nghĩa vụ của MNCs, của các đối tác nước ngoài của MNCs và chính phủ nước nhận đầu tư.

Về cơ cấu đầu tư, mục đích là để giảm tối đa những nguy cơ tiềm tàng do sự điều chỉnh hoạt động của công ty hay do các chính sách tài chính. Khi việc đầu tư đã được thực hiện , sẽ có một số chính sách để đồi phó với sự bất ổn định. Đó là chính sách như chuyển từ mục tiêu tạo chỗ đứng ở nước đầu tư và có lợi nhuận sang mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và thay đổi tỷ lệ lợi nhuận / chi phí. Chính sách tài chính bao gồm các kỹ thuật :

+Giữ các công ty liên doanh hay chi nhánh phụ thuộc vào công ty mẹ về thị trường, nhà phân phối hay cả hai.

+Tập trung nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất và công nghệ độc quyền ở nước mình.

+Tạo dựng một thương hiệu riêng mang tính toàn cầu để nước chủ nhà cùng lắm cũng chỉ lấy đi được phần tài sản hữu hình chứ không lấy đi được tài sản vô hình của công ty.

+Làm chủ về giao thông, vận tải

+Sản xuất sản phẩm ở nhiều nhà máy.

+Thúc đẩy sự hợp tác với bên ngoài.

Rủi ro chính trị còn bị ảnh hưởng bởi khả năng độc lập của công ty. Một chi nhánh sẽ có ít khả năng đó khi yêu cầu về công nghệ, điều hành,quản trị lại nằm trong tầm kiển soát của nước chủ nhà. Trong trường hợp chính phủ có xu hướng can thiệp sâu vào công việc của công ty ,khi đó để tăng tính độc lập công ty có thể phải thực hiện một số hoạt động nhất định. Khi doanh số của chi nhánh lớn hơn của công ty liên doanh thì MNCs phải dùng việc kiểm soát bán hàng và để giảm sự can thiệp. Một cách đơn giản , khi các chi nhánh ngày càng tăng cường việc xuất khẩu thì cũng đạt được một kết quả tương tự.

Một nghiên cứu được thực hiện bởi Fagre và wells gần như khẳng định rằng mức độ sở hữu của các chi nhánh nước ngoài tại một nước phản ánh trình độ công nghệ của các nước, phản ánh mức độ mà một MNCs cố gắng cá biệt hoá sản phẩm của mình, phản ánh mức độ xuất khẩu của chi nhánh sang các chi nhánh ở nước khác của MNCs, phản ánh mức độ đa dạng hoá sản phẩm của MNCs và mức độ cạnh tranh của các MNCs khác. Khối lượng đầu tư không ảnh hưởng nhiều đến chính sách sở hữu của chính phủ.

Để đối phó với sự bất ổn định, Mascarenhas đề nghị áp dụng chiến lược nỗ lực và linh động. Chiến lược để tăng sự kiểm soát được sử dụng để giữ môi trường trước những thay đổi bất lợi. Chiến lược này gồm các kỹ thuật:

+Sử dụng sự hợp tác đã có để kiểm soát việc cung cấp các nguồn lực và sử dụng sự hợp tác sắp tới để kiểm soát thị trường ,đặc biệt một số hay hầu hết các nguồn lực cung cấp và thị trường là ở bên ngoài nước đầu tư.

+Vận động chính phủ có những chính sách ưu đãi.

+Đặt câu hỏi về thanh toán.

+Sử dụng xúc tiến thương mại để tác động đến người tiêu dùng.

+Tham gia các hợp đồng với người cung cấp đầu vào và người mua các sản phẩm đầu ra.

+Thành lập cacten với đối thủ cạnh tranh.

Cần phải chú ý rằng một số trong những chiến lược này bị coi là phi pháp ở một số nước.

Tăng tính chủ động , nhất là với kinh phí sẽ tăng khả năng thích nghi của công ty với những biến động của môi trường. Chiến lược này bao gồm:

+Sử dụng một thiết bị để sản xuất nhiều sản phẩm vì vậy giảm được sự phụ thuộc vào một sản phẩm duy nhất.

+Một sản phẩm được bán ở nhiều thị trường.

+Tăng cường xuất khẩu , xin giấy phép kinh doanh,quyền kinh doanh và các hợp đồng phụ để giảm các nguồn lực vào chi phí cố định và để kéo dài sử dụng tài sản ở nước ngoài.

+Phân quyền quyết định để đạt quyết định nhanh chóng.

+Tránh những cam kết dài hạn bằng cách có chú ý về việc kết thúc trong ngắn hạn.

+Duy trì sự bảo toàn với những tài sản vay đột xuất và chứng khoán phát hành để đối phó tạm thời trước sự biến động của môi trường.

+Thiết lập một hệ thống thông minh để tiếp cận với sự phát triển của môi trường.

Bảng 4-2 đưa ra một số giải pháp để giảm bớt sự bất ổn và những điều kiện thích hợp với từng giải pháp.


Bảng 4-2

Giải pháp Điều kiện Ví dụ


Dự đoán a. Khi thị trường lớn và chi phí Dự đoán sự tiêu dùng hàng

đầu tư được trừ dần với khối hoá thiết yếu dựa vào nhân

lượng lớn khẩu học. Dự báo trước về

b. khi dữ liệu là có sẵn và tin cậy rủi ro chính trị và địa lý

c. khi vốn góp nhiều và có thể thu trước khi đầu tư vào việc

hút vốn một cách dễ dàng khai thác dầu khí

d. khi giám đốc hiểu và thông

thạo kỹ thuật dự báo

Kiểm soát a. khi không có sự bắt buộc của Người bán lẻ với nhiều nhà

chính phủ cấm những thanh toán cung cấp và nhiều khách

có nghi ngờ. hàng không thể hội nhập

b. khi không có hạn chế về quảng theo xu hướng một cách dễ

cáo dàng.Một công ty sản xuất

c. khi sự liên kết không bị ngăn quần áo của Mêxico không

chặn bởi hành động mua chịu biết chính xác về doanh thu

bán chịu và lợi nhuận của mình thì

d. Khi sự liên kết không bị loại không thể tận dụng được

bỏ do tồn tại quá nhiều sản phẩm các hợp đồng sau này.

đầu vào và đầu ra.

e. khi vẫn còn hợp đồng trong thời

gian tới


f. khi các hợp đồng được cam kết trả

đúng hẹn


Bảo hiểm a. trên lý thuyết, chỉ bảo hiểm chỉ bảo Bảo hiểm rủi ro chính trị

hiểm những vụ có thể xảy ra và kết chỉ có ở một số nước, một

quả phải rõ ràng. Đó phải là những số ngành và chỉ cho một

mối nguy không cố ý. vài loại rủi ro

b. Khi mức khấu trừ và phí là hợp lý

linh động a. khi công nghệ của công ty cho một công ty dệt may có

phép việc đầu tư đước chia thành thể ký hợp đồng phụ về

những phần nhỏ hơn, những phần quần jeans bởi vì những

có thể làm được. yêu cầu về chuyên môn

b. Có đối tượng giúp hoàn thành là sẵn có

những hợp đồng phụ bắt buộc

c. khi có nhiều nguồn cung cấp và có

nhiều người mua sản phẩm của hãng

d. khi hợp đồng phụ không có đối thủ

cạnh tranh

e. khiviệc xin giấy phép , xin quyền

kinh doanh và xuất khẩu là khả thi

Tránh rui ro a. khi không được phép chuyển rủi ro chỉ chấp nhận thanh toan

cho người khác bằng đồng tiền mạnh

Biện pháp để tối thiểu hoá rủi ro chính trị

Rủi ro chính trị không thể dự báo trước nhưng ít nhất cũng làm giảm được rủi ro chính trị. Có một số biện pháp mà MNCs có thể thực hiện để thuyết phục nước nhận đầu tư không kiểm soát tài sản của họ:

Thúc đẩy kinh tế

Một chiến lược bảo vệ đầu tư kêu gọi các công ty gắn lợi ích kinh doanh của mình với lợi ích nền kinh tế quốc dân của nước nhận đầ tư. Brazil đã trục xuất ngân hàng Mellon vì ngân hàng này từ chồi hợp tác để tham gia đàm phán lại về khoản nợ nước ngoại khổng lồ của nước này.

Có thể thúc đẩy kinh tế nước nhận đầu tư bằng một số cách khác nhau. Một cách là công ty mua sản phẩm hay nguyên vật liệu của nước đó để phục vụ cho sản xuất và hoạt động của công ty. Bằng việc trợ giúp các hãng trong nước công ty có thể phát triển mối liên kết với những người có thể đem lại nhiều mối quan hệ chính trị. Có thể kết hợp với chiến lược này việc sử dụng công ty nhận thực hiện hợp đồng phụ. Chẳng hạn,một số nhà sản xuất xe tăng quân đội cố gắng thực hiện hợp đồng từ Nethelands bằng việc kí hợp đồng phụ sản xuất xe tăng mới với những công ty của Hà Lan.

Đôi khi sử dụng nguồn lực trong nước là bắt buộc. Chính phủ có thể yêu cầu sản phẩm phải chứa linh kiện sản xuất trong nước, điều này có thể thúc đẩy kinh tế trong nước do : (1)nó làm tăng nhu cầu về linh kiện sản xuất trong nước, (2) Tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Đầu tư nhiều hơn nữa vào cơ sở vật chất con làm chính phủ hài lòng hơn nữa. IBM là công ty nước ngoài duy nhất được phép bán tổng đài ở Pháp vì PBXs của hãng được sản xuất tại đây.

Tóm lại , các công ty nên cố gắng giúp nước nhận đầu tư bằng cách theo hướng xuất khẩu.Exhibit 4-3 chỉ ra Marubeni,một hãng của Nhật nhấn mạnh chiến lược này khi quảng cáo nhằm vào thị trường Mỹ. Cả United Brands và Castle và cooke đều có thể phục vụ cuộc cách mạng ở Nicaragua theo chién lược này. Lượng USD họ thu được qua xuất khẩu đã trở thành thu nhập chính của chính phủ Nicaragua. Vì vậy bảo đảm cho những hoạt động kiểu Mỹ latinh của họ không bị mất đi. AT&T cũng vào được thị trường viẽn thông Pháp bằng cách giúp CGN, nhà sản xuất công tắc bán công tắc kĩ thuật số tại Mỹ.

Tạo thêm việc làm

Các công ty nước ngoài sẽ mắc một sai lầm phải trả giá đắt khi cho rằng công dân của các nước kém phát triển là không lựa chọn được. Công ty không thu được lợi ích gì nếu cho rằng dân của nước nhận đầu tư là lười biếng, không thông minh, không năng động và không có giáo dục,những thái độ như vậy làm công ty sẽ phải lo hết mọi việc. Vì vậy sử dụng lao động trong nước công ty nên dựa vào vị trí lao động.Chẳng hạn, chính sách của United Brands là chỉ thuê người địa phương vào vị trí quản lý.

Các hãng cũng nên cân nhắc cẩn thận về mức độ ảnh hưởng của tự động hoá ở khu vực có lao động rẻ với tỷ lệ thất nghiệp cao. Tự động hoá là không phù hợp ở ấn độ nơi mà mục tiêu của chính sách của quốc gia là tạo thêm công ăn việc làm chứ không phải là rút bớt lao động. Chính phủ ấn độ đẵ yêu cầu Lux và lifebouy tự rút khỏi ÂĐ, còn Colgate và Beecham phải cắt giảm hoạt động. Để có thể tạo thêm 15.000 đến 250.000 việc làm mới ,Wimco bị yêu cầu buộc phải từ bỏ việc xây mới 2,700 ngôi nhà. Như vậy là công nghệ cao không phải luc nào cũng được chào đón hay là sự mong đợi của nước nhận đầu tư.

Việc không đủ khả năng để tự động hoá hoàn toàn cũng không gây nhiều bất lợi cho MNCs, như cho thấy cuộc nghiên cứu tại các nhà máy sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc lá, đồ uống ở Đông Nam á nó lại đem lại một số lợi ích. MNCs có thể thu được nhiều lợi ích hơn ở các nước kém phát triển khi sử dụng công nghệ ở mức trung bình hơn là thiết bị công nghệ cao.Một nhà máy tự động hoá hoàn toàn có thể dễ điều hành hơn cho giám đốc công ty vì họ đã quen với công nghệ cao và là người có khả năng kiểm soát về chất lượng và số lượng sao cho đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu. Nhưng bù lại công nghệ trung bình và bổ xung thêm lao động lại đỡ tốn kém và nâng cao thiện cảm do tạo thêm nhiều việc làm.

Chia sẻ quyền sở hữu

Thay vì một mình kinh doanh, công ty nên cố gắng chia sẻ trách nhiệm với công ty khác, đặc biệt là những công ty trong nước. Biện pháp có thể là chuyển từ công ty tư nhân sang công ty cổ phần, hay từ công ty nước ngoài thành công ty trong nước. Dragon Airline, được xem là một công ty thực sự của Trung Quốc đã yêu cầu cần phải giảm bớt quyền hạ cánh của hãng hàng không Cathay Pacific với lý do đây là một hãng của Anh hơn là của Trung quốc. Lời đe doạ đó đã buộc Cathay Pacific phải phát hành những chứng khoán mới cho các nhà đầu tư Trung Quốc có cổ phần trong công ty. Động thái này là để thuyết phục Hongkong và Trung Quốc rằng hãng có nguồn gốc của Trung Quốc.

Một trong những kỹ thuật quan trọng nhất để chia sẻ bớt trách nhiệm là thành lập một công ty liên doanh. TRong hầu hết các trường hợp, kết quả là sự mất đi một phần quyền kiểm soát nhưng bù lại là lợi ích thu được. Chính sách của United Brands ở Nam á là không chia sẻ bất cứ công việc gì trừ khi liên doanh để giảm bớt rủi ro.

ở một số liên doanh với nước ngoài, không nhất thiết lúc nào đối tác cũng là của nước nhận đẩu tư. Việc hợp tác có thể với một nước khác. Nhiều quốc gia cùng tham gia một công việc không chỉ giảm bớt được khó khăn mà còn làm cho nước nhận đầu tư không thể kiểm soát việc kinh doanh mà không làm ảnh hưởng đến quan hệ với nhiều nước cùng một lúc.Chính sách tình huống ở Nam á là một trong những lý do để Forse chọn việc sản xuất kinh doanh mô tô ở đây với Anglo American. Việc hợp tác này làm giảm phạm vi của Forse ít nhất là 40%.

Đôi khi sự hợp tác đa quốc gia lại đem lại một kết quả trái ngược. Điều này đặc biệt đúng khi một trong những quốc gia đó không có quan hệ tốt với nước chủ nhà.

Một chiến lược khác là viếc tự nguyện nội địa hoá. Chứng minh cho trường hợp này là một đạo luật về quy chế trao đổi với nước ngoài cuả Ân Độ được thông qua năm 1973 để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước. Luật này giới hạn một công ty chỉ đước phép có số vốn nước ngoài chiếm tối đa lầ 40%, ngoại lệ là những công ty có công nghệ cao và theo hướng xuất khẩu . Cả IBM và Coca-Cola vì thế mà đã ra khỏi Ân Độ năm 1978. Ngược lại,các hãng sản xuất thuốc như Warner lambert và Parke Davis chấp nhận cắt giảm tỷ lệ của họ.

Nội địa hoá trong hầu hết các trường hợp không phải là mong muốn của các nhà đầu tư vì vậy nó thường là một qui định bắt buộc. Do đó công ty nên có kế hoạch nội địa hoá trước hơn là đợi đến khi nước nhận đầu tư yêu cầu vì đến lúc đó công ty ty sẽ không có động lực và mất đi tính độc lập của mình. Việc làm này được hiểu là một hành động để tỏ thiện chí.Với một chiến lược không ngoan công ty sẽ vẫn giữ được thị trường và công nghệ trong khi cũng chỉ góp vốn theo tỷ lệ.

Quan tâm đến dân chúng

MNCs của Mỹ thường khuyến khích đưa ra nước ngoài những sản phẩm sấu, nhưng điều này là không nên. Một công ty nếu chỉ đơn giản là kinh doanh ở nước ngoài là không đủ mà còn phải có sự hợp tác tốt với công dân nước đó. Để đạt được điều này các MNCs của nên kết hợp dự án đầu tư với dự àn về con người. Điều này ban đầu có thể làm tăng tổng chi phí, nhưng lại có ý nghĩa kinh tế trong dài hạn. ở nhiều nước nhân dân vẫn phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Vì thế tốt nhất nên trợ giúp họ xây dựng trường học, đường xá, bệnh viện và hệ thống cấp nước bởi vì những dự án như vậy làm lợi cho cả nước nhận đầu tư và công ty, đặc biệt là về mặt thiện cảm trong thời gian dài.Theo một nghiên cứu của Conference Boards, gần một nửa trong số 200 công ty của Mỹ đã nghiên cứu hoạt động phòng khám chữa bệnh ở nước nhận đầu tư. Union Carbide đã xây một trường kỹ thuật ở Zimbabue trị giá $4_5m, và United Brands theo chính sách này như việc xây dựng nhiều trường học mới. ở nhiều nước kém phát triển thì một số tiền ít cũng có thể đi một chặng đường dài.

Trung lập về chính trị

Vì lợi ích lâu dài tốt nhất cho công ty, là không khôn ngoan nếu công ty để liên quan đến tranh chấp về mặt chính trị giữa các công ty trong nước hay giữa các công ty nước ngoài. Một công ty nên tuyên bố rõ ràng rằng nó không phải là kinh doanh chính trị mà mối quan tâm của nó là về kinh tế theo lẽ tự nhiên.

Đằng sau quang cảnh hành lang

Giống như những biến đổi tác động đến hoạt động kinh doanh, rủi ro về chính trị có thể được giả quyết một cách hợp lý. Các công ty cũng như các tập đoàn có những lợi ích khác nhau và mỗi bên muốn đưa ra ý kiến của mình. Khi nghành công nghiệp nấm của Mỹ yêu cầu hạn nghạch chống lại nhập khẩu từ Trung Quốc, Pizza Hut đã đứng ra bảo vệ Trung Quốc bằng cách yêu cầu cho các nhà cung cấp trong nước và nhà cung cấp nước ngoài sẽ không gặp phải tiêu chuẩn kỹ thuật., là một trong những khách hàng lớn nhất của Trung Quốc và là một nhà tiêu thụ 9 triệu tấn nấm để sản xuất bánh Pizza, do vậy thương vụ mua lớn này Pizza Hut đang gặp nguy cơ . Hơn thế nữa, công ty mẹ của nó PepsiCo hy vọng mở một nhà máy tại ở phía Nam Trung Quốc. Do Chính phủ Mỹ xũng muốn củng cố mối quan hệ với Trung Quốc nên lời yêu cầu của nghành công nghiệp nấm Mỹ đã bị từ chối.

Trong thực tế các công ty nên cố gắng tác động đến các quyết định chính trị. Các cuộc triển lãm để Mobil cố gắng tác động đến quyết định là nó sẽ làm lợi cho đối tác của nó. ả Rập. Mặc dù hoạt động của công tybị ảnh hưởng bởi môi trường chính trị. Tác động này không nhất thiết chỉ theo một hướng. Các hoạt động vận động hành lang có thể được thực hiện và sé khôn ngoan nếu vận động hành lang yên lặng đằng sau để không gây ra ồn ào chính trị khôngt cần thiết. Các nhà nhập khẩu phải cho chính phủ của mình biết tại sao hàng nhập khẩu đang chống lại họ và khách hàng của họ, Ví dụ, nhiều đại lý bán lẻ quần áo đã phàn nàn mạnh mẽ khi hàng rào thương mại được dựng lên để chống lại nhập khẩu quần áo. Tương tự, những nhà sản xuất máy tính của Mỹ lên tiếng phản đối hành động của chính phủ nhằm bảo vệ giá của chất bán dẫn sản xuất ở Mỹ bởi vì các công ty này phải chịu bất cứ sự tăng giá nào.

Các công ty không những phải vận động hành lang ở nước của mình mà có lẽ phải vận động hanhg lang ở nước xuất khẩu. Các công ty có lẽ muốn tự đi vận động hoặc để chính phủ làm hộ. Đối với các công ty của Mỹ, chính phủ có thể được yêu cầu gây sức ép tới chính phủ nước ngoài. Khi vấn đề liên quan đòi hỏi sự sung công, các công ty Mỹ có thể dùng luật sửa đổi Hickenlôpẻ 1963. Luật sửa đổi yêu cầu chính phủ mỹ cắt sự trợ giúp của tất cả các quốc gia mà chuyển quyền sở hữu của các công ty Mỹ mà không có sự bồi thường thoả đáng.


Bán tên lủa cho ả Rập mang lại cho Mỹ nhiều lợi nhất.

Thậm chí trước khi Tổng thống Reagân phủ quyết cách giải quyết của quốc hội ngăn không bán tên lửa phòng thủ cho ả Rập Xéut, các nhà bình luận đã tán thành nên bán tên lửa . Họ lập luận rằng bán tên lửa sẽ không chỉ mang lại lợi ích không chỉ cho A Rập mà diều quan trọng hơn cả là lợi ích sống còn của Mỹ trong chiến lược Trung Đông của Mỹ.

Ví dụ , tờ New York Times, chắc chắn sẽ không ủng hộ quyết định của chính phủ, đã có bài xã luận phát hành ngày 7 tháng 5 “ quốc hội đã sai lầm khi ngăn không bán vũ khí với trị giá 354 triệu USD cho ả Rập, mà phần lớn là tên lửa phòng không. Một tác giả bài xã luận đăng trên tờ Times đã cho rằng “....chống lại ảnh hưởng của Iran và Syria bằng cách hỗ trợ cho Irắc và Jorrdan

.Và các nước này đã đầu tư của cải của họ vào phương Tây mà đáng kể là Mỹ. Họ không phải là những đồng minh đáng chú ý nhưng họ là bạn và là những người bạn tốt”. Một bài xã luận tương tự cũng cho rằng Nếu Mỹ không bán vũ khí cho ả Rập thì họ sẽ mua vũ khí từ các quốc gia khác. Tờ Times cũng nói rằng “ A Rập trung thành bảo vệ vũ khí của Mỹ chống lại chuyển nhượng bất hợp pháp” Sự bảo vệ này sẽ mất nếu chúng ta để họ mua vũ khí từ các quốc gia khác

.Tờ times kết luận “ Một thương vụ mới là mong muốn có tính chất ngoại giao đối với Mỹ “.

John M.Poindexter_ trợ lý của tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia đã chỉ ra vai trò chiến lược của A Rập trong một bài báo được đăng trên tạp chí The Washington Post, nêu lên những biến động trong khu vực “ đó là một cuộc chiến tranh kéo dài của những người theo chủ nghĩa cuồng tín. Xô Viết ủng hộ những kẻ quá khích có quan điểm cực đoan ở Bắc Yêmen và các nơi khác”. Sự can thiệp của Xô Viết vào Afghanistan mà Poindexter gọi nó là tốt

“ Nước Mỹ có nhiều bạn bè trong khu vực họ đang gúp đỡ nhằm duy trì sự ổnn định an ninh trong khu vực và Sự an ninh của họ củng cố lợi ích của chúng ta. ARập là một trong các quốc gia quan trọng đó.. Poindexter viết “ Hoàn thành bán vũ khí thời điểm này, thậm chí tên lửa sẽ không giao hết trong vài năm là một sự minh chứng rõ ràng và quan trọng cam kết của mỹ tới sự phong thủ của ả Rập. Nó sẽ giúp Iran tránh khỏi cuộc chiến tranh vùng vịnh mở rộng, giúp đỡ giải quyết các nước ả Rập khác giảm bớt khả năng là Các binh đoàn Mỹ có thể được phải sử dụng để bảo vệ lợi ích của chúng ta ở vịnh Percian . Bản thân Tờ Post đã bị thuyết phục. Trong một bài xã luận 9 tháng 3, hai ngày sau khi bài báo của Poindexter đưa ra, tờ Post viết “ đối với A Rập

Đứng trước một loạt hiểm nguy thì bảo vệ đất nước là nhiệm vụ trung tâm

Sự ủng hộ của Mỹ với nền quốc phòng của ả Rập được thể hiện bằng sự trung thành và cung cấp vũ khí. Có một lưu ý là bây giờ Mỹ đã phá vỡ điều này một cách ngẫu nhiên.

Tổng thống Reagân đã nhấn mạnh quan điểm của ông ta trong bản thông điệp phủ quyết là ả Rập đã chứng tỏ thiện chí và tình bạn của họ và làm việc không phô trương để cải thiện bầu không chính trị trong khu vực.

Tuần này, thượng nghị viện sẽ cố gắng phủ quyết ý kiến của Tổng Thống Reagân, khi các thành viên bỏ phiếu bầu họ nên nhớ một thực tế đơn giản là Họ không chỉ đang bỏ phiếu cho dự luật vũ khí cho ả Rập mà họ đang bỏ phiếu cho dự Luật vũ khí cho chính nước Mỹ và nhữnglợi ích của họ .Dựa vào những so sánh chúng tôi tin sự phủ quyết của tổng thống chấp nhận.

Mobill






tải về 4.83 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   45




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương