QUÁn thế Âm bồ TÁt phổ MÔn phẩm giảng ký 觀世音菩薩普門品講記 演培老法師講述 釋寬嚴記



tải về 1.41 Mb.
trang5/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích1.41 Mb.
#35398
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

II. Chánh thích kinh văn (Phần giải thích chính vào kinh văn)

1. Trường hàng biệt thị (Giảng riêng về phần kinh văn trường hàng)

1.1. Vấn đáp đắc danh sở dĩ (Thưa hỏi duyên do [vì sao Bồ Tát] được danh hiệu [là Quán Thế Âm])

1.1.1. Đương cơ cử danh thỉnh vấn (Vị đương cơ của pháp hội thưa hỏi)

     


      Chánh kinh:

      Nhĩ thời, Vô Tận Ý Bồ Tát tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn:

      - Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?

爾時無盡意菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而作是言。世尊。觀世音菩薩。以何因緣。名觀世音。

(Lúc bấy giờ, Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, chắp tay, hướng về đức Phật, bạch như thế này:

      - Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?)

       Kinh văn toàn phẩm chia thành hai phần lớn: một là Trường Hàng, tức là thể văn xuôi ghi lại những ý nghĩa được tuyên nói trong kinh; hai là Kệ Tụng, tức là thể văn vần ghi chép những nghĩa lý được tuyên nói trong kinh. Trường Hàng và Kệ Tụng nội dung không khác biệt nhau nhiều lắm, chẳng qua là sử dụng thể tài văn tự bất đồng mà thôi. Trong hai phân đoạn lớn này, trước hết giảng phần Trường Hàng, sau đó mới giảng Kệ Tụng.

      Hai chữ “nhĩ thời” có nhiều cách giải thích khác nhau. Phần trước, tôi đã từng nói, phẩm này là phẩm thứ hai mươi lăm trong kinh Pháp Hoa, trước phẩm này là phẩm hai mươi bốn, tên là Diệu Âm Bồ Tát Phẩm. Nói “nhĩ thời” nghĩa là lúc vừa mới nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, bèn nói ngay phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này.

      Trong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, cuối cùng là mấy câu: “Thuyết thị Diệu Âm Bồ Tát lai vãng phẩm thời, tứ vạn nhị thiên thiên tử đắc Vô Sanh Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội” (Lúc nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát lai vãng này, bốn vạn hai ngàn thiên tử đắc Vô Sanh Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội). Do đây biết là khi đức Phật nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát, có rất nhiều người được hưởng pháp ích (lợi ích nơi pháp). Do đại chúng nghe pháp được lợi ích, bởi thế lại mong cầu Phật tiếp tục giảng thêm diệu pháp; như vậy có thể hiểu “nhĩ thời” là lúc rất nhiều chúng sanh mong mỏi Như Lai thuyết pháp.

      Theo như kinh Pháp Hoa giới thiệu, Diệu Âm Bồ Tát (Mañju-ghosha Boddhisattva) là một đại Bồ Tát trong cõi nước Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm ở phương Đông. Quán Âm Bồ Tát như mọi người đều biết rõ là một đại Bồ Tát thuộc Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đông phương Diệu Âm Bồ Tát đã đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội, bởi thế có thể tự tại hiện thân theo từng loại để giáo hóa chúng sanh trong đời, tức là cần phải biến hiện thân tướng nào để giáo hóa chúng sanh, Ngài liền có thể biến hiện thân tướng ấy. Tây phương Quán Âm Bồ Tát như trong phần sau phẩm này sẽ giới thiệu: “Ưng dĩ hà thân đắc độ giả, tức hiện hà thân nhi vị thuyết pháp” (Nên dùng thân nào để đắc độ, liền hiện thân ấy để thuyết pháp); có thể nói là Quán Âm Bồ Tát cũng đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội giống hệt như thế. Bởi thế, cổ đức gọi hai phẩm kinh này là “những phẩm chị em”, hàm ý chúng có ý nghĩa và giá trị gần giống nhau.

      Hoặc có thể nói là đại chúng nghe những công đức thù thắng của Diệu Âm Bồ Tát ở phương Đông xong, nghĩ đến Bồ Tát Quán Âm ở phương Tây cũng là một vị đại Bồ Tát rất phi thường, nhưng công đức tự chứng, sự hóa độ người khác của Ngài rốt cuộc ra sao, đại chúng trong pháp hội vẫn chưa biết; bởi vậy, họ ngưỡng vọng đức Thế Tôn giảng cho hành trạng của đức Quán Âm. Chính ngay lúc đại chúng ngưỡng vọng đức Thế Tôn tuyên thuyết như thế, bèn gọi là “nhĩ thời”.

      “Vô Tận Ý Bồ Tát” là vị đại biểu vấn pháp trong phẩm này. Ngay khi đức Phật giảng xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, có vị Vô Tận Ý Bồ Tát (Aksaya-mati Boddhisattva) bèn đứng ra thỉnh pháp. Vô Tận Ý là vị đại Bồ Tát ở thế giới Bất Thuấn nơi phương Đông, giáo chủ của thế giới Bất Thuất là Phổ Hiền Như Lai. Trong tương lai, Quán Âm Bồ Tát kế thừa A Di Đà Phật thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cần biết rằng ngài Vô Tận Ý trong tương lai sẽ kế thừa Phổ Hiền Như Lai làm Phật trong thế giới Bất Thuấn ở phương Đông.

      Vô Tận Ý là vị đại Bồ Tát ở phương Đông, vì sao lại đến thế giới Sa Bà nghe Phật Thích Ca thuyết pháp? Là do tuân lệnh đức Phổ Hiền Như Lai (Samantabhadra Tathāgata) mà đến. Lúc đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa, chính là diễn bày trực tiếp bản hoài, bởi thế mười phương chư Phật đều phái những bậc thượng thủ Bồ Tát của mình đến nghe đức Phật nói diệu pháp. Kể từ lúc Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa cho đến lúc này, Vô Tận Ý Bồ Tát ngồi tại chỗ lặng lẽ nghe giảng; đến lúc Phật nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, vì muốn thỉnh pháp, Ngài bèn “tức tùng tòa khởi” (từ tòa ngồi đứng dậy).

      Thánh hiệu của Phật và Bồ Tát đều được an lập từ tất cả công đức. Sở dĩ Vô Tận Ý mang tên Vô Tận Ý là do dựa theo công đức nào mà an lập? Ở đây, có thể dựa theo ba phương diện thế giới, chúng sanh, bi nguyện mà thuyết minh. Trên phương diện thế giới, trước hết phải hiểu rõ: Có nhiều vô cùng vô tận, vô lượng, vô biên những thế giới to như thế giới Sa Bà, kinh Phật gọi là “vô lượng vô biên thế giới”. Trong những thế giới nhiều như thế ấy, chỉ nói riêng người trong Nam Thiệm Bộ Châu của thế giới Sa Bà này đã nhiều vô kể; nếu nói gộp tất cả số người trong bốn đại châu lẽ đương nhiên càng nhiều hơn. Ngoài nhân loại còn có những chúng sanh khác, chúng sanh thật là nhiều chẳng thể tính đếm nổi. Chẳng riêng gì chúng sanh trong một thế giới này là như thế, chúng sanh trong mỗi một thế giới đều như thế; bởi thế nói “chúng sanh vô tận”. Lúc vị Bồ Tát này vận dụng trí huệ quán sát thế giới, nhận thấy có vô tận thế giới. Trong vô tận thế giới, có vô tận chúng sanh hoạt động. Đúng là mỗi chỗ có một thế giới, mỗi thế giới có một thế giới chúng sanh, nhưng các chúng sanh đều bị phiền não sai khiến, trôi nổi, đọa lạc trong biển nghiệp, chìm đắm luân hồi, bị các thứ khổ bức bách, trọn không có lúc nào giải thoát! Vô Tận Ý Bồ Tát chẳng nỡ thấy vô cùng vô tận chúng sanh chịu các khổ não lâu dài, bèn từ tận đáy lòng sâu thẳm, phát khởi bi nguyện vô tận, nguyện độ vô tận chúng sanh trong vô tận thế giới, khiến cho vô tận chúng sanh thành Phật, sau đó chính mình mới thành Phật; bởi thế hiệu là Vô Tận Ý.

      Giải thích danh hiệu Vô Tận Ý, cổ đức dùng bốn câu kệ để hình dung:

      Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu,

      Chúng sanh vô tận nghiệp mang mang,

      Ái hà vô để lãng thao thao,

      Thị cố hiệu vi Vô Tận Ý.

      (Thế giới vô biên mờ mịt bụi,

      Chúng sanh vô tận nghiệp bời bời,

      Sông ái không đáy sóng cuồn cuộn,

      Bởi thế hiệu là Vô Tận Ý)

      Ý nói: Thế giới là vô tận, chẳng sai! Nhưng trong vô tận thế giới lại có thế giới thanh tịnh, có thế giới uế ác. Thế giới uế ác nhiều hơn thế giới thanh tịnh. Bởi thế, vô cùng vô tận thế giới nói chung là dơ bẩn bị trần cảnh khuất lấp khó kham, uế ác bất tịnh! Những chúng sanh trong các thế giới ấy bất luận nhiều đến đâu, đại đa số ở trong biển nghiệp mênh mông, bị nghiệp lực lôi kéo! Nghiệp lực lôi quý vị lên thiên đường, quý vị sẽ lên thiên đường; nghiệp lực lôi quý vị xuống địa ngục, quý vị sẽ đọa địa ngục, tự mình chẳng tự chủ được mảy may gì! Sở dĩ chúng sanh ở trong biển nghiệp mênh mông không chỗ nương về, căn bản là do vì chìm đắm trong sông ái dục không đáy, sóng vỗ cuồn cuộn bất tuyệt. Bởi thế, biển khổ vô biên; chúng sanh tuần hoàn chẳng ngơi trong Hoặc nghiệp như thế. Vì vậy, tâm Bồ Tát suy tưởng: Chúng sanh chịu khổ như thế, nếu ta chẳng phát tâm cứu độ, giáo hóa, còn đợi ai làm chuyện này nữa đây? Bởi thế, liền phát vô tận bi nguyện, muốn độ vô tận chúng sanh. Do vậy hiệu là Vô Tận Ý.

      Vô Tận Ý và các đại chúng vì muốn hiểu rõ công đức của Quán Âm Bồ Tát, thấy không có ai khác thỉnh vấn, nên Ngài bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, thay mặt đại chúng thỉnh vấn đức Phật. Câu “tức tùng tòa khởi” (từ tòa ngồi đứng dậy) nếu giải thích theo mặt chữ sẽ rất đơn giản, nhưng nếu dùng quán tâm để giải thích như ngài Thiên Thai thì lại mang những ý nghĩa sâu sắc. Chữ “tòa” ở đây chẳng phải là chỗ ngồi thông thường, mà có nghĩa là Pháp Không Tòa, cũng như kinh Pháp Hoa đã chép: “Chư pháp Không vi tòa” (lấy các pháp Không làm tòa). Lấy “các pháp Không” làm tòa, không chỉ là chẳng chấp trước vào các pháp, mà ngay cả các “pháp Không” cũng chẳng chấp trước. Nếu chấp trước nơi Không, sẽ không thể thật sự liễu giải Không.

Ngài Vô Tận Ý từ tòa đứng dậy, biểu thị Ngài chẳng nhiễm trước nơi Không, bởi thế mới nói “lấy các pháp Không làm tòa”. Tuy chẳng nhiễm Không, nhưng chẳng phải là chẳng có cái gì; Bồ Tát từ tòa “pháp không” đứng dậy vấn pháp là một minh chứng. Nếu như thật sự chẳng có cái gì hết cả, cần gì phải đứng lên hỏi nữa? Cần gì phải giảng kinh thuyết pháp? Do bởi Không nhưng Bất Không, cho nên mới từ tòa Pháp Không đứng dậy, thỉnh Phật khai thị. Như vậy, câu “tức tùng tòa khởi” hàm nghĩa: Chẳng chấp vào Không hay Hữu, vượt khỏi cả Không lẫn Hữu, chánh thức chứng đắc thâm nghĩa diệu pháp Thật Tướng.

      “Thiên đản hữu kiên” (trật áo vai phải) là nghi thức nhất định phải dùng của hàng Phật tử xuất gia đứng dậy vấn pháp. Lúc Phật tại thế, tỳ-kheo mặc ca-sa giống như cách tăng đoàn Phật giáo Nam Truyền mặc. Theo quy củ nhà Phật, lúc bình thường, tỳ-kheo không lễ Phật, không thuyết pháp, cả hai vai áo đều phủ kín, chẳng lộ ra ngoài. Lúc thấy Phật, lễ Phật, nhằm biểu thị lòng cung kính, bèn đặc biệt lộ vai phải ra. Vô Tận Ý Bồ Tát muốn vấn pháp, nhằm tỏ lòng tôn trọng đức Phật, nên buông vạt ca-sa mặc trên thân xuống, để lộ vai phải của mình ra.

      Nếu giải thích theo quán tâm thì lộ vai phải, che giấu vai trái cũng có ý nghĩa sâu xa. Người tu học Phật pháp đạt đến trình độ khá, sẽ có hai thứ trí huệ:

- Một là Chân Thật Trí chứng ngộ chân lý “tánh các pháp là Không”, chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được nổi, bởi thế che vai trái chẳng để lộ ra ngoài.

- Hai là Phương Tiện Trí phát xuất từ Chân Thật Trí, có thể quán sát hết thảy thế tục, có thể vì các chúng sanh thuyết pháp, có thể chỉ ra một con đường tu hành. Trí này còn gọi là Quyền Xảo Trí. Bởi thế để lộ vai hữu ra cho mọi người được thấy rõ ràng.

Phương Tiện Trí như vai phải, Chân Thật Trí như vai trái. Một bên che giấu, một bên hiển lộ, rất thích hợp để biểu thị hai trí Quyền và Thật. Vô Tận Ý là một vị đại Bồ Tát, che kín vai trái biểu thị Ngài có Chân Thật Trí chứng ngộ Thật Tướng các pháp, để lộ vai phải biểu thị Ngài có thể vận dụng Phương Tiện Trí quyền xảo. Phương Tiện Trí hóa độ cõi tục, Chân Thật Trí khế hợp Chân Đế. Vận dụng cả hai trí hiển thị Chân chính là Tục, Tục chính là Chân, đạt đến cảnh giới “Chân Tục viên dung” tối cao.

Hợp chưởng hướng Phật” (chắp tay hướng về Phật): Chắp hai bàn tay lại, mặt hướng về đức Phật, đây là một lễ nghi thông thường để chào hỏi người trên và chào hỏi nhau của người Ấn Độ. Nếu giải thích theo quán tâm thì: Hai bàn tay có mười ngón, nếu tách riêng từng ngón sẽ tượng trưng cho mười pháp giới đã nói ở phần trên. Nay đem mười ngón áp lại, đặt trước ngực, biểu thị mười pháp giới trong một niệm tâm của chúng ta, chẳng thể lìa một niệm tâm mà có.

Nhi tác thị ngôn” (bèn nói như sau): Sau khi ngài Vô Tận Ý thể hiện các lễ nghi cần phải có xong, Ngài bèn nói những lời như dưới đây, thỉnh Phật khai thị về hành trạng của đức Quán Âm Bồ Tát.

Những câu trên đây thật ra biểu thị các hoạt động thân, ngữ, ý. “Từ chỗ ngồi đứng dậy” là thân nghiệp; “bèn nói như sau” là khẩu nghiệp; “chắp tay hướng Phật” là ý nghiệp. Trong lúc ấy, chuyên tâm nhất ý, bề ngoài tưởng chừng là thân nghiệp, nhưng thật ra thuộc về ý nghiệp. Mỗi cá nhân đều có hoạt động nơi ba nghiệp, vấn đề là hướng theo phương diện hoạt động nào thì mới là hoạt động hợp lý chánh đáng. Về đại thể, ba nghiệp của chúng sanh là hướng theo phương diện hoạt động ác, dẫu có lúc hướng thiện cũng vẫn thuộc hữu lậu. Ba nghiệp hoạt động của ngài Vô Tận Ý, bất luận là đến mười phương thế giới gặp Phật nghe pháp, bất luận là vì tùy từng loài chúng sanh hóa hiện thuyết pháp, đều là thanh tịnh vô nhiễm, thuần thiện vô lậu.

Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?” (Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?): Vô Tận Ý chánh thức nêu vấn đề. Vấn đề này ngay cả người bình thường mới học Phật cũng có thể hỏi được. Chẳng hạn như những kẻ mới tin Phật, khuyên họ phát tâm niệm nhiều thánh hiệu Quán Âm, họ thường hay hỏi: “Bảo tôi niệm nhiều thánh hiệu đương nhiên là rất hay, nhưng sao lại kêu tôi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát?” Vô Tận Ý là bậc Bổ Xứ Đại Sĩ, chẳng lâu sau sẽ thành Phật, lẽ đâu chẳng hiểu thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát? Sở dĩ Ngài nêu lên câu hỏi này là thay mặt những người chưa hiểu rõ công đức của Quán Âm Bồ Tát, đặc biệt là hỏi thay cho chúng sanh trong thời đại Mạt Pháp. Như chúng ta hiện tại hiểu rõ sự vĩ đại và bi nguyện sâu rộng của Quán Âm Bồ Tát là do Vô Tận Ý ngay khi đó đã thỉnh vấn.

Thế Tôn” là một trong các đức hiệu của Phật Đà, có nghĩa là đức đại thánh Phật Đà được thế gian lẫn xuất thế gian cùng tôn trọng, bởi thế gọi là Thế Tôn. Vì thỉnh đại pháp, trước hết xưng một tiếng “Thế Tôn”. Đại danh Quán Âm Bồ Tát chúng con thường nghe qua, nhưng vị Quán Thế Âm Bồ Tát rốt ráo là do nhân duyên gì mà gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát? Hiện tại đại chúng trong pháp hội đối với điều này vẫn còn chưa biết, kính thỉnh Phật Đà vì đại chúng khai thị sơ lược!

 

1.1.2. Như Lai bị thị cảm ứng (Như Lai chỉ dạy đầy đủ về sự cảm ứng)

1.1.2.1. Chánh đáp đắc danh sở dĩ (Giải đáp nguyên do được danh hiệu ấy)

1.1.2.1.1. Tổng tiêu tầm thanh cứu khổ (nói tổng quát về công hạnh tầm thanh cứu khổ)

Chánh kinh:

Phật cáo Vô Tận Ý Bồ Tát:

- Thiện nam tử! Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư khổ não, văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát.

佛告無盡意菩薩。善男子。若有無量百千萬億眾生。受諸苦惱聞是觀世音菩薩。一心稱名。觀世音菩薩。即時觀其音聲,皆得解脫。

(Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát:

- Này thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não, nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này, một lòng xưng danh thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được giải thoát)

 

Phần trước là Vô Tận Ý thỉnh vấn, phần này là Phật Thích Ca giải đáp. Lời đáp tổng quát trong phần này chính là phần trọng yếu nhất trong toàn phẩm, có thể nói là cương yếu của toàn phẩm, hoặc có thể nói là trung tâm của toàn phẩm; bởi lẽ nó liên quan đến hoằng nguyện từ bi sâu xa của đức Quán Âm, hoàn toàn phô bày hoằng nguyện ấy trong đoạn kinh văn này.



Quán Âm Bồ Tát sở dĩ có tên là Quán Âm Bồ Tát, nguyên do của danh hiệu ấy cũng đã được biểu lộ trong đoạn kinh văn này. Phương pháp xưng niệm danh hiệu và những lợi ích đạt được cũng đều nhờ mấy câu này mà tỏ rõ. Bởi thế đây chính là cương yếu hoặc trung tâm của toàn phẩm. Trong đoạn này lại có ba câu tối trọng yếu, là: “nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này”, “nhất tâm xưng danh” và “đều được giải thoát”, có thể nói là cương yếu của toàn bộ đoạn kinh này.

Phật cáo Vô Tận Ý Bồ Tát” (Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát): “Thiện nam tử!” Đây là cách xưng hô của Phật đối với Vô Tận Ý. Nam tử là đối ứng với nữ nhân mà nói, có đủ nam tánh thì gọi là nam tử; có đủ nữ tánh thì gọi là nữ tử. “Thiện nam tử” ở đây chẳng phải là nam tử hiểu theo nghĩa thông thường, mà là kẻ có thiện căn sâu dày. Kẻ nam tử có đủ thiện căn sâu dày mới gọi là “thiện nam tử”. Nữ nhân có đủ thiện căn sâu dày gọi là “thiện nữ nhân”. Thiện căn do vun bồi mà có, nào phải do trời sanh. Như nghe kinh, nghe pháp, bố thí, trì giới đều là những phương tiện lớn nhất để vun bồi thiện căn. Có thể học Phật là đã có thiện căn, nhưng càng phải vun bồi hơn nữa.

Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư khổ não” (Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não): Đây là đối tượng cần được Quán Âm cứu giúp. Câu “vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh” hình dung chúng sanh rất nhiều. Chúng sanh nhiều như thế sống trong thế giới này, trọn chẳng phải là hưởng thọ khoái lạc mà luôn phải chịu các nỗi khổ não bức bách, như các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không loài nào chẳng có các thứ khổ não. Những nỗi khổ não đó nếu nói chi tiết chẳng thể kể hết nổi. Nói riêng nhân loại không thôi đã có đủ loại, đủ dạng khổ não; như thông thường nói là tám khổ, nghĩa là những thứ nhân loại không sao tránh khỏi.

Tám khổ có thể chia thành ba loại, như sanh, lão, bệnh, tử là thống khổ thuộc về phương diện thân tâm; còn ái biệt ly khổ (yêu thương xa lìa), oán tắng hội khổ (oán ghét phải gặp gỡ) là thống khổ về mặt xã hội; cầu bất đắc khổ (cầu chẳng được) là thống khổ thuộc về mặt [hoàn cảnh] tự nhiên. Nếu xét từ căn bản để luận, thì đức Thích Tôn tổng kết bảy nỗi khổ bằng cách nói đại lược là “nỗi khổ vì năm ấm lừng lẫy” (ngũ ấm xí thịnh khổ). Có nghĩa là: Có các nỗi khổ phát sanh nơi hữu tình do chính bản thân hữu tình (Ngũ Uẩn là các nguyên tố cấu tạo nên hữu tình). Có năm Uẩn đó nhưng năm Uẩn hừng hực như lửa cháy, bởi thế biển khổ vô biên. Thống khổ công kích, thân tâm phiền não, ai chẳng mong được giải trừ ngay lập tức? Bất luận là ai, khi bị thống khổ miệng phải kêu rên không ngừng thì trong tâm mới cảm thấy đỡ khổ đôi chút.

Giờ đây, đức Phật bảo chúng ta: Lúc chúng sanh bị thống khổ bức bách, chớ có kêu rên vô ích, tốt nhất là chuyên tâm nhất ý xưng niệm thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát. Vì thế, Ngài mới nói: “Văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát” (Nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này, một lòng xưng danh thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được giải thoát): Câu này chỉ rõ lý do Quán Âm có được danh hiệu ấy. Quán Thế Âm sở dĩ có hiệu là Quán Thế Âm do Ngài nghe âm thanh xưng danh của chúng sanh bèn tầm thanh cứu khổ. Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, đúng là “không khổ nào chẳng cứu, không chúng sanh nào chẳng độ”. Là vì chúng sanh khi thọ khổ, nghe đến thánh hiệu Quán Thế Âm, nếu có thể chuyên tâm nhất ý xưng danh Ngài thì Quán Thế Âm Bồ Tát xem xét âm thanh xưng danh của chúng sanh ấy, tức thời giải trừ nỗi đau khổ cho người đó, khiến cho người đó giải thoát chẳng còn bị đau khổ buộc ràng!

Ở đây, chữ “Văn” (nghe) rất trọng yếu. Bởi lẽ, chúng sanh nghe âm thanh thánh hiệu Quán Âm; Quán Âm cũng nghe âm thanh của chúng sanh mà tầm thanh cứu khổ. Nghe lẫn nhau như thế thì mới có thể tương ứng, tương cảm; tức là chúng sanh nghe thánh hiệu bèn xưng dương, Bồ Tát nghe tiếng xưng danh bèn cứu tế. Đấy gọi là “chúng sanh nghe Quán Âm, Quán Âm nghe chúng sanh”. Chúng sanh nghe Quán Âm là “hữu sở cầu”, Quán Âm nghe chúng sanh là “hữu sở ứng”. Cảm ứng đạo giao như thế chúng sanh liền được giải thoát. Vì Quán Âm là tận hư không khắp pháp giới, bất luận thời gian nào, bất luận địa phương nào, chỉ cần nghe thấy âm thanh cầu được thoát khổ của chúng sanh, Bồ Tát lập tức đại từ đại bi thị hiện trước mặt người đó, giải cứu nỗi thống khổ, khiến cho người đó đắc đại giải thoát. Bởi thế, chữ Văn ở đây có tánh chất đặc biệt trọng yếu.

Chúng sanh nghe Quán Âm, Quán Âm nghe chúng sanh, đều là dùng tai nghe, vì sao chẳng đặt tên là Văn Thế Âm mà lại là Quán Thế Âm? Chúng sanh chẳng thể dùng lẫn lộn sáu căn, nên chỉ có thể dùng mắt thấy, tai nghe, Bồ Tát có thể dùng lẫn lộn sáu căn nên mắt chẳng những có thể thấy mà còn có thể nghe nữa, tai chẳng những có thể nghe mà cũng có thể thấy. Sở dĩ Quán Âm được gọi là Quán Thế Âm là vì Ngài có thể quán sát âm thanh để tầm thanh cứu khổ. Hoặc có thể hiểu là: Chữ Quán ở trên là trí huệ quán sát, chữ Thế Âm ở dưới là cảnh giới được đức Quán Âm quan sát. Bồ Tát dùng trí huệ năng quán để quán sát hết thảy âm thanh khổ não cầu cứu của hữu tình trong thế gian, rồi sau đó lập tức dùng bi nguyện hoằng thệ giải trừ thống khổ, ban sự an vui cho quý vị; tiêu trừ, cứu thoát tai nạn cho quý vị, ban cho quý vị sự tốt lành, không nỗi khổ nào chẳng dẹp, không nạn nào chẳng cứu; bởi thế xưng là Quán Thế Âm. Chẳng phải chỉ có thế, ngay trong lúc dùng trí năng quán để quán cảnh là những âm thanh cầu cứu giải trừ khổ nạn của chúng sanh trong thế giới, thì cảnh và trí đều chỉ là nhất tâm, bởi vậy gọi là Quán Thế Âm.

Nếu dựa theo lời kinh Bi Hoa giới thiệu về nhân địa của Quán Âm thì quá trình phát tâm của Ngài như sau: Trong vô lượng kiếp trước, Bồ Tát là phàm phu, từng làm thái tử thứ nhất của Chuyển Luân Thánh Vương. Đương thời, có Bảo Tạng Phật xuất hiện trong đời, đệ nhất thái tử vô cùng tin kính Tam Bảo, đặc biệt phát tâm cúng dường Phật, Tăng ba tháng; lại còn đối trước Phật Bảo Tạng phát Đại Bồ Đề tâm, lập đại thệ nguyện: “Giả sử có chúng sanh khổ não trong thế giới, vì cầu giải cứu nỗi thống khổ bèn xưng niệm danh hiệu con, con dùng thiên nhãn thấy được, thiên nhĩ nghe được, nếu con chẳng thể cứu thoát nỗi khổ ấy, con thề quyết định chẳng thành Phật”. Bảo Tạng Phật thấy Ngài phát đại nguyện như thế, biết là thật khó có, bởi thế, đối với hoằng nguyện dẹp khổ ban vui ấy, bèn hết sức tán thán, lại còn đặt hiệu là Quán Thế Âm. Từ lời giới thiệu của kinh Bi Hoa, ta biết Quán Thế Âm Bồ Tát được danh hiệu ấy là do sự phát tâm khi còn tu nhân, danh hiệu ấy là do Bảo Tạng Phật đặt.

Kinh này giải thích danh hiệu Quán Thế Âm ước theo mặt lợi tha. Kinh Lăng Nghiêm giải thích danh hiệu Quán Thế Âm ước trên mặt tự lợi. Tự lợi là Trí, lợi tha là Bi. Bởi vậy danh hiệu Quán Thế Âm thật sự bao gồm những ý nghĩa tự lợi, lợi tha, Bi Trí song vận (vận dụng cả Bi lẫn Trí). Còn như kinh Lăng Nghiêm giải thích danh hiệu Quán Âm như thế nào, xin đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ biết.

Nghe danh, xưng niệm, được giải thoát, nay xin nêu một câu chuyện cảm ứng để chứng minh:

Trong quá khứ, tại đất Thượng Ngu thuộc tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, có một người buôn gạo chân thành phụng trì thánh hiệu Quán Âm, trong nhà chỉ có hai vợ chồng. Chàng buôn gạo là người lương thiện, không việc gì cũng thường niệm thánh hiệu Quán Âm, thậm chí trong mộng cũng còn nhớ niệm Quán Âm Bồ Tát. Có bữa tối kia, vừa mới đi ngủ, Bồ Tát đặc biệt báo mộng, bảo anh ta sắp gặp đại nạn:

- Để giải cứu đại nạn, ta có bốn câu dành cho anh, anh phải nhớ kỹ nhé!



Gặp cầu đừng dừng thuyền,

Gặp dầu liền bôi đầu,

Đấu thóc ba thưng gạo,

Nhặng xanh nâng đầu bút.

Bốn câu nghe trong mộng ấy, đến hôm sau anh ta nhớ kỹ bởi lẽ giấc mộng ấy khác với những giấc mộng bình thường. Chàng buôn gạo cảm thấy rất kỳ quái, chẳng biết là điềm báo gì, nhưng bởi tin tưởng đức Quán Thế Âm nên chân thành ghi nhớ kỹ càng.

Đến một ngày nọ, chèo thuyền qua xứ khác mua gạo kiếm lời, thuyền đi chưa mấy chốc, chợt cuồng phong, mưa dữ nổi lên. Thuyền phu trông thấy đằng xa có một cây cầu lớn liền muốn neo thuyền dưới chân cầu để tạm tránh mưa gió. Lúc thuyền đến gần dưới cầu, chàng buôn gạo chợt nhớ đến câu “gặp cầu đừng dừng thuyền”, lập tức bắt thuyền phu bơi thuyền tách ra. Khéo sao, thuyền vừa tách khỏi cầu, cầu liền gẫy sụp xuống. Nếu thuyền chẳng tách khỏi cầu, ai nấy quyết định phải chết. Chàng buôn gạo thấy tình hình đó, biết là Bồ Tát cứu độ, bởi thế ý niệm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm càng thêm kiền thành, tinh tấn.

Về sau, có một chiều nọ, chàng lễ bái Quán Âm ở nhà, trong lúc vừa lễ xuống, chưa kịp đứng lên, đột nhiên chiếc đèn lưu ly treo trong Phật đường rớt xuống, cả mặt đất ngập ngụa dầu. Chàng buôn gạo nghĩ câu thứ nhất đã linh nghiệm, chắc chắn câu thứ hai cũng phải có lý do; vì vậy, thấy dầu đầy đất bèn cứ chất phác bôi dầu lên đầu mình. Một lúc sau đi ngủ, vô tình nửa đêm thức dậy, nghe thấy trong phòng có mùi máu tanh tưởi, bèn đứng dậy thắp đèn tìm xem, thấy vợ mình đã bị kẻ khác giết. Tuy cảm thấy lạ lùng quá, nhưng không biết làm sao, chỉ còn cách báo tin cho bố vợ biết. Bố vợ hỏi đến nguyên nhân, chàng nói không được một câu nào, bèn tra vặn người trong nhà, phát hiện chàng rể tin Phật, con gái mình không tin Phật. Do đó, ông bố hoài nghi tình cảm vợ chồng không tốt, quyết đoán con gái mình bị chàng rể giết chết, bèn đi báo quan.

Viên quan nhận thấy sanh mạng rất quan trọng, bèn truyền gọi chàng buôn gạo đến thẩm vấn, chỉ thấy chàng rất thành thực, chẳng giống phạm nhân giết người, liền hỏi: “Trong buổi tối vợ ngươi bị giết đó, tài vật trong nhà có mất mát gì không?” Chàng buôn gạo thưa không, chứng minh chẳng phải là bị giặc cướp giết. Lại hỏi xóm giềng có ai thù hằn không? Chàng lái buôn cũng đáp là không. Nhân viên thẩm án hỏi đến đây thấy vụ án sát nhân này rất kỳ quái, đã chẳng phải bị kẻ thù giết, lại cũng chẳng phải do trộm giết, việc lại xảy vào lúc đêm khuya, chẳng phải chính chàng lái buôn giết vợ còn ai vào đây nữa? Bởi thế, phán quan (nhân viên phán án) muốn cất bút ghép anh chàng buôn gạo vào tội tử hình!

      Chính trong lúc khẩn yếu đó, chợt có một đoàn nhặng xanh lớn bay đến bám đầy ngọn bút. Trong lúc viên phán quan cảm thấy rất kỳ quái, chàng buôn gạo đột nhiên vui sướng như phát cuồng, hét ầm lên: “Hay quá xá! Hay quá xá! Nhặng xanh nâng đầu bút lại thật sự ứng nghiệm rồi!” Viên phán quan nghe kêu như thế, biết bên trong ắt có sự tình, bèn hỏi chàng buôn gạo vì sao vui sướng quá vậy? Chàng buôn gạo nghĩ trong bốn câu đã có ba câu ứng nghiệm, Bồ Tát nhất định gia bị mình; nhân đó, đem hết những sự tình đã thấy trong mộng kể cho viên phán quan nghe. Viên phán quan là người có học vấn, suy nghĩ trong bốn câu này, mấu chốt nằm trong câu thứ ba, bèn cùng mọi người nghiên cứu, hiểu ra câu “đấu cốc, tam thăng mễ” (đấu thóc, ba thưng gạo) có nghĩa như thế này: Một đấu thóc chỉ có ba thưng gạo, tự nhiên những thưng kia phải là cám (khang), như vậy hung phạm nếu chẳng phải là Khang Thất thì phải là Thất Khang7. Ngầm đi điều tra, quả nhiên trong địa phương có người tên là Khang Thất, bắt về hỏi mấy câu, Khang Thất chẳng thể không thừa nhận mình là phạm nhân giết người.

      Vì sao Khang Thất phải giết người? Khang Thất vốn gian díu với vợ chàng buôn gạo, toan giết chàng buôn gạo, do trong bóng tối mò phải cái đầu dính dầu của chàng, tưởng là người vợ, nên bèn giết kẻ đầu không có dầu, nào hay khéo thay đã giết lầm người! Chân tướng của hung án tự nhiên sáng tỏ. Phán quan liền phán Khang Thất tội tử hình, chàng buôn gạo vô tội được thả về nhà. Chàng buôn gạo trải qua biến cố này, nhận biết Bồ Tát từ bi quảng đại, lại thấy nhân sanh hư huyễn chẳng thật, bèn phát tâm xuất gia cầu đắc đạo quả! Phán quan cũng nhận thấy Bồ Tát linh cảm rộng lớn, từ đấy tin sâu Phật pháp. Bởi vậy, xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có thể được giải thoát và cứu tế!

      Ở đây, có lẽ có người hỏi: “Quán Âm là đại từ đại bi, người niệm Quán Âm cũng rất nhiều, cớ sao được giải thoát rất ít?” Mấu chốt là cách niệm như thế nào! Kinh văn dạy “nhất tâm xưng niệm” là một điều tối trọng yếu! Nếu chẳng thể nhất tâm nhất ý xưng niệm, chẳng cần biết là niệm nhiều hay ít, hiệu quả đều rất nhỏ. Cổ đức nói:

      Khẩu niệm Di Đà tâm tán loạn,

      Hãm phá hầu lung dã đồ nhiên!

      (Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn,

      Toạc hầu rách họng uổng công thôi!)

      Niệm Di Đà như thế thì niệm Quán Âm cũng giống như vậy. Chúng ta chẳng cần phải từ sáng đến tối niệm Quán Âm, cũng chẳng cần phải cùng rất nhiều người niệm Quán Âm; nếu như miệng niệm mà tâm tán loạn, tâm miệng chẳng ứng với nhau, dù niệm cũng khó được giải thoát! Nói “nhất tâm xưng danh” nghĩa là chuyên nhất ý niệm, tập trung toàn bộ tinh thần vào thánh hiệu Quán Âm, chẳng để cho ý niệm nào khác xen tạp vào, câu này gối lên câu kia, tiếp nối nhau, quên sạch hết thảy những gì bên ngoài, khiến cho ta là người niệm cùng đức Quán Âm được ta niệm hợp thành một thì mới có thể nói là “nhất tâm xưng danh”. Nhất tâm xưng danh như vậy, niệm một thời gian lâu sau sẽ tự nhiên đạt được lợi ích, tự nhiên đạt được giải thoát!

Chúng sanh trầm luân trong sanh tử, bị các sự khổ bức bách, nói chung là chẳng được tự do, tự tại. Nếu muốn thoát luân hồi, chẳng bị các nỗi khổ bức bách, thân tâm mình được tự do, thì trong thời đại Mạt Pháp này, phương tiện tối thù thắng nhất không chi hơn là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, tin tưởng Bồ Tát đại từ đại bi, sẽ tầm thanh cứu khổ khiến ta được giải thoát!

 



tải về 1.41 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương