Quản lý bộ nhớ trong dos


Tiếp đến, bạn cần làm cho chương trình Tray Shortcut chạy mỗi lúc Windows khởi động



tải về 0.84 Mb.
trang7/12
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích0.84 Mb.
#1925
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Tiếp đến, bạn cần làm cho chương trình Tray Shortcut chạy mỗi lúc Windows khởi động


Hãy right click lên file Tscuts.exe chọn Create Shortcut, cũng chọn No khi được hỏi.

Sau đó hãy right click lên shortcut vừa tạo chọn Properties, đặt lại tên, vào chọn StartUp Folder để cho chương trình Setup chép shortcut này vào nhóm StartUp của Windows.




Cuối cùng hãy vào menu File chọn Build Installer để tạo bộ Setup, sau khi cài đặt phần mềm xong, cho khởi động lại máy, chờ chút sẽ thấy ngay tác phẩm của mình trong System Tray.



Quá đã phải không ? Do phải nhờ cậy chương trình Tray Shortcut nên muốn khởi động bạn phải double click lên shortcut, đây cũng là điểm yếu & hơi bị mất tự nhiên của cách làm này. Muốn loại bỏ shortcut trong System Tray, hãy right click chọn Tray Shortcuts / Exit.




Open để mở chương trình, Properties tương tự như khi nhấn phải mouse trong Explorer.




THOáT WINDOWS 98 BằNG


1 CáI CLICK CHUộT

Muốn thoát khỏi Windows 98 và tắt máy, theo đúng bài bản, bạn phải làm một loạt động tác :



  • Click vào nút Start.

  • Chọn lệnh Shut Down...

  • Trả lời trong hộp thoại Shut Down Windows

  • Click OK.




Trong khi đó, Windows 98 lại cung cấp cho bạn một chức năng tiện lợi là ra lệnh bằng các phím tắt (shortcut). Cớ sao ta không sử dụng shortcut để thoát Windows và tắt cho nó tiện lợi, chỉ bằng 1 cái click chuột ?

Đ
ể tạo shortcut này, bạn làm như sau :

Click chuột phải lên màn hình desktop và chọn lệnh New -> Shortcut.



Điền vào text box của hộp thoại Create Shortcut dòng lệnh Command line :


c:\windows\rundll32.exe user.exe,exitwindows

Click nút Next.

Điền vào text box của hộp thoại Select a Title for the Program một cái tên nào ủó cho cái shortcut này. Thí dụ ở đây là tên Exit Windows

Click nút Finish để kết thúc.

Bây giờ, trên màn hình desktop của bạn đã xuất hiện icon cho lệnh Exit Windows. Mỗi lầná muốn tắt máy, bạn chỉ cần click chuột lên icon này là xong.

T
ối ưu hóa Windows 98

Với một số thủ thuật này, bạn có thể làm cho Windows 98 chạy ngon hơn, ngọt hơn một chút.

Trước tiên, bạn vào Control Panel, mở icon System ra.

Mở tab Performance trong bộ hộp thoại System Properties :



Có ba nút ở mục Advanced settings (các thiết đặt tiên tiến) cho bạn hiệu chỉnh.



1. File System (Hệ thống file ) :

Click chuột lên nút File System. Bộ hộp thoại File System Properties xuất hiện với 5 tab.



  • Hard Disk : Mặc định, Windows sẽ được cấu hình với chuẩn của một máy... Desktop computer. Hãy kích nó phát huy nội lực ở mức cao nhất, khỏe như lực sĩ, bằng cách giả định máy vi tính của bạn là một máy chủ Network server.





  • Floppy Disk : Do ổ đĩa mềm bây giờ không còn được sử dụng thường xuyên như ..."Ngày xưa Hoàng Thị", bạn chẳng cần phải cho Windows tối ưu hóa chi hoạt động của ổ đĩa mềm. Bỏ dấu chọn trước hàng option "Search for new floppy disk drives each time your computer starts" để Windows không mất công sức và thời gian tìm kiếm các ổ đĩa mềm mới mỗi lần máy vi tính khởi động.

  • CD-ROM : Hãy giữ nguyên các setting mặc định để Windows có thể tối ưu hóa hoạt động của ổ CD-ROM. Đó là :

- Supplemental cache size (kích thước cache bổ sung) :áá Large

- Optimize access pattern for (tối ưu hóa khuôn mẫu truy cập cho ổ CD-ROM có tốc độ) : Quad-speedá or higher (4x hoặc cao hơn)



Windows sẽ sử dụng 1.238 kilobytes bộ nhớ vật lý để tối ưu hóa hoạt động của ổ CD-ROM trong khi nó truy cập dữ liệu.



2. Graphics (Đồ họa) :

Click chuột lên nút Graphics để mở hộp thoại Advanced Graphics Settings ra.

Các thiết đặt này kiềm soát cách thức Windows sử dụng phần cứng đồ họa (card màn hình) của máy. Bằng cách hiệu chỉnh thiết đặt tăng tốc phần cứng đồ họa, bạn có thể giải quyết được một số vấn đề có liên quan tới phần display.

Có 4 nấc :



  • Nấc 4 (full) : Nấc mặc định được khuyến cáo. Windows sẽ huy động tất cả các chức năng tăng tốc đồ họa. Hãy giữ nguyên, nếu như máy của bạn hoạt động bình thường về phần display. Nấc này sẽ bảo đảm chất lượng cao nhất cho multimedia và các game.

  • Nấc 3 : Windows sử dụng phần lớn chức năng tăng tốc đồ họa. Hãy dùng thiết đặt này nếu như xảy ra vấn đề với con trỏ chuột. Ơở nấc này, bạn cũng có thể khắc phục được tình trạng chữ tiếng Việt bị đứt khúc, nhất là với các nguyên âm có hai dấu thanh (như ộ, ệ,...).





  • Nấc 2 : Các chức năng tăng tốc đồ họa cơ bản. Dùng setting này nếu như bạn hay gặp các sự cố (error) không mong đợi trong các chương trình ứng dụng.

  • Nấc 1 (None) : Không sử dụng các chức năng tăng tốc đồ họa. Chỉ dùng nếu như máy bạn thường bị treo hay gặp những vấn đề nghiêm trọng.

3. Virtual Memory (Bộ nhớ ảo) :

Click chuột vào nút Virtual Memory. Hộp thoại Virtual Memory xuất hiện.



Hãy giữ thiết đặt mặc định là "Let Windows manage my virtual memory settings", cho phép Windows quản lý các thiết đặt bộ nhớ ảo.


Ngăn chặn hệ thống sụp đổ

Mẹo: Luôn tắt máy theo đúng cách thức (được Windows 95 khuyến cáo)

Windows tạo ra rất nhiều tệp tạm thời và cần thiết phải được đóng lại trước khi hệ thống ngừng hoạt động. Nếu bạn không tuân thủ nguyên tắc này, các tệp tạm thời sẽ giữ mãi trong hệ thống. Điều đó không chỉ gây ra "rác" cho hệ thống mà chúng còn gây nên tình trạng hoạt động không ổn định của một số phần mềm.



Dial-Up Networking treo khi cố gắng tái kết nối với ISP của bạn

Lỗi này xảy ra khi bạn sử dụng Windows 95 OSR2 với IE4. Lý do sự xung đột giữa tuỳ chọn View Detail của Dial-Up Networking với IE4 khi chạy như một chương trình của Windows. Song bạn chớ lo đây là giải pháp cho vấn đề:

Chỉ có hai cách để sửa lỗi này, hoặc là bạn làm mất hiệu lực tuỳ chọn View Detail của DUN hoặc dỡ bỏ cấu thành của Windows Desktop Update. Thứ nhất, tạo một biểu tượng tắt cho kết nối sử dụng DUN và thêm một biểu tượng ra ngoài desktop. Bạn sẽ tìm thấy kết nối trong thư mục DUN nằm ở My Computer. Cuối cùng hãy "dạo chơi" trên Internet với kết nối mới được tạo ra này.

Di chuyển tới Start | Programs | Accessories | Dial-Up Networking, vào thực đơn View, tắt chức năng này bằng việc lựa chọn một kiểu hiển thị khác (Large Icon chẳng hạn).

Bạn còn có một phương pháp khác để khắc phục lỗi này. Hãy sử dụng trình cài đặt của IE4 và bỏ lựa chọn Active Desktop Update nhưng đừng bỏ cả Web browser.

Phòng chống sự cố và sức phá huỷ của sự cố

Cho dù khả năng gặp sự cố là không thể tránh khỏi, một vài thủ thuật hữu ích sẽ giúp bạn tránh được hầu hết các trường hợp sự cố xảy ra với hệ thống của bạn. Một sự cố hay gặp nhất đối với hệ thống đó chính là máy tính nhận được những kết quả mà nó không hề mong đợi. Chẳng hạn chương trình cố đọc dữ liệu từ máy tính hay ổ đĩa mềm khi bạn đã rút đĩa ra khỏi ổ...Sau đây là một số mẹo giúp bạn khai thác và phòng chống sự cố máy tính hữu hiệu hơn:



1. Luôn tắt máy tính theo đúng cách. Windows tạo ra rất nhiều tệp tạm thời trên hệ thống. Khi bạn tắt máy không đúng cách, các tệp này sẽ tồn tại trên máy tính. Điều đó không chỉ đem lại "rác" cho hệ thống mà còn gây ra tình trạng hoạt động bất thường của các phần mềm được cài đặt trên máy tính.

2. Khi sử dụng Dial-Up Networking (DUN), chớ nên rút đường dây điện thoại ra khỏi máy tính trước khi bạn chấm dứt kết nối Internet. Điều này đôi khi sẽ dẫn đến tình trạng "treo" máy tính.

3. Hãy để cho ScanDisk "hoàn thành" công việc của nó nếu hệ thống phát hiện có sự bất ổn đối với hệ thống tệp.

4. Hãy lưu trữ dữ liệu cá nhân trên một phân hoạch độc lập với hệ điều hành (tốt nhất là trên một ổ đĩa khác). Nếu có sự cố với Windows đòi hỏi phải cài đặt lại toàn bộ hệ điều hành thì cũng không ảnh hưởng gì tới dữ liệu của bạn.

Giải quyết xung đột giữa các ứng dụng

Mẹo: Làm gì đối với các chương trình không có phần dỡ bỏ (Uninstall)

Nếu bạn muốn dỡ bỏ một chương trình không có trình dỡ bỏ (vì một lý do không thể lý giải nổi) đừng vội vàng xoá bỏ toàn bộ thư mục chứa chương trình. Bạn hãy cân nhắc sử dụng các phần mềm chuyên dỡ bỏ của các hãng thứ ba như CleanSweep của Symantec chẳng hạn...



Cố gắng dỡ bỏ chương trình theo đúng cách

1. Rất nhiều chương trình được bán kèm với trình dỡ bỏ của riêng nó. Thông thường bạn tìm thấy trình này trong Add/Remove Programs của Control Panel. Hãy sử dụng các trình dỡ bỏ này nếu bạn không muốn "đau đầu" thêm mỗi khi không cần một phần mềm nào đó nữa.

2. Khi dỡ bỏ thông thường Windows không xoá bỏ các tệp cấu hình do người dùng tạo ra và thường thông báo bằng một câu chung chung đại loại: "Some elements could not be removed."Lúc này tự bạn sẽ là người quyết định có để cho chúng tồn tại trên hệ thống hay không?

3. Sau khi việc dỡ bỏ hoàn tất, hãy mở Explorer, xem xét thư mục chương trình được cài đặt lên hệ thống, sao lưu các tệp bạn cần lưu trữ và xoá toàn bộ thư mục. Nếu muốn biết thư mục chứa chương trình bạn hãy bấm phím phải chuột vào biểu tượng chương trình và mở Properties của nó.

4. Một lỗi khá phổ biến đối với Windows, cho dù bạn đã dỡ bỏ toàn bộ chương trình nhưng tên của nó vẫn tồn tại trong danh sách của Add/Remove Program. Muốn xoá bỏ chúng bạn phải vào đăng ký (Registry) của Windows. Bấm vào núm Start, mở Run và gõ Regedit. Vào khoá Hkey_local_machine\Software\Microsoft\ Windows\CurrentVersion\ Uninstall, bạn sẽ thấy một loạt các giá trị, đó chính là những mục sẽ được Add/Remove Programs liệt kê. Hãy xoá bỏ các mục tham chiếu tới ứng dụng bạn dỡ bỏ hoàn toàn khỏi hệ thống.

Thay đổi trình duyệt mặc định

Đặt trình duyệt mặc định cho hệ thống đôi khi gây ra sự khó chịu cho bạn, đặc biệt khi bạn chuyển sang sử dụng các trình duyệt khác nhau trong bối cảnh cuộc chiến trình duyệt vẫn chưa có "người thắng, kẻ bại". Nháy chuột vào tệp HTML mà lại mở một trình duyệt bạn không hề mong đợi. Vâng chúng tôi hiểu sự khó chịu của bạn. Cả IE và Netscape đều có khả năng phát hiện và yêu cầu bạn chọn chúng làm trình duyệt mặc định của hệ thống. Song cả hai cũng kèm theo chức năng tắt thông báo này khi khởi động. Vậy sau một thời gian sử dụng một loại trình duyệt nay bạn muốn đặt một trình duyệt khác làm mặc định. Bạn phải làm gì?



Netscape

Hãy tắt Netscape Communicator 4.x và tất cả các ứng dụng thành phần của nó. Mở thư mục cá nhân của bạn (Ví dụ: C:\Program files\Netscape \Users\Profilename - với Profilename chính là tên bạn dùng đăng nhập hệ thống). Mở tệp Prefs.js và thay đổi dòng lệnh kiểm tra user_pref ("browser.wfe.ignore_def_check", true) từ "true" sang "false". Ghi lại tất cả những thay đổi này và thoát khỏi Notepad. Lần tiếp theo bạn khởi động Communicator hay một trong các ứng dụng thành phần của nó, bạn sẽ được hỏi có muốn thiết lập Netscape trở thành trình duyệt mặc định hay không?



Internet Explorer

Mọi việc còn dễ dàng hơn nhiều đối với IE. Mở Internet Options hoặc Options (tuỳ thuộc vào phiên bản IE bạn đang sử dụng) trong menu View (đối với IE 5 bạn phải vào Tools/Internet Options). Vào bảng Programs, nhấn vào hộp kiểm tra "Internet Explorer should check to see if it is the default browser." Kể từ giờ trở đi IE sẽ hỏi bạn thiết lập nó trở thành trình duyệt mặc định hay không nếu nó nhận thấy mình không phải là trình duyệt mặc định?



Ngăn chặn xung đột phần cứng

Mẹo: Khởi động trong chế độ Safe Mode

Đôi khi vì lý do sửa chữa, bạn cần thiết phải khởi động máy tính ở một chế độ đặc biệt. Với Windows 95 bạn chỉ cần bấm phím F8 mỗi khi nhận được dòng thông báo "Starting Windows 95..." trên màn hình khởi động. Với Windows 98 điều này có khác biệt đôi chút, bạn phải nhấn phím Ctrl từ khi máy tính kêu tiếng "beep" sau khi POST (Power-On Self Test) xong cho tới khi thực đơn xuất hiện trên màn hình.



Phát hiện xung đột phần cứng

Yêu cầu ngắt giống hệt như các đường điện thoại vào gia đình bạn, chúng được kích hoạt mỗi khi có yêu cầu từ các thiết bị phần cứng nối với hệ thống. Có 16 ngắt (từ 0-15) chính được đánh địa chỉ.

Bạn có thể theo dõi việc gán ngắt cho hệ thống trong Windows theo một vài cách. Cách phổ biến nhất đối với cả Windows 95, 98 đó là mở Control Panel/System và vào bảng Device Manager. Nháy kép vào biểu tượng Computer trong danh sách liệt kê. Với Windows 98 bạn có một cách nữa để xem được danh sách các ngắt hệ thống bằng tiện ích System Information.

Sau đây là một vài điểm cần lưu ý khi xem xét tài nguyên ngắt hệ thống:



  1. Một vài ngắt được thiết kế sẵn cho các thiết bị hệ thống (như đồng hồ hệ thống, ổ đĩa, và bàn phím) và không thể sử dụng vào mục đích khác.

  2. Một số ngắt đặc biệt thường được sử dụng cho cổng vào/ra như cổng nối tiếp, cổng sau lưng, ngắt 4, 3 và 7 lần lượt được thiết kế cho COM1, COM2, và cổng song song LPT1. Tất cả các ngắt còn lại được dành cho các thiết bị mới thêm vào hệ thống.

  3. Các bus hệ thống theo chuẩn PCI được thiết kế thêm chức năng đánh địa chỉ khi khởi động hệ thống. Thay thế card ISA không có tính năng cắm-và-chạy (plug-and-play) bằng một card PCI là lựa chọn đúng đắn.

  4. Cài đặt các thiết bị theo tiêu chuẩn cắm-và-chạy có thể làm giảm khả năng xung đột ngắt giữa các thiết bị. Trong quá trình khởi động, Windows sẽ tự động kiểm tra những ngắt chưa sử dụng và gán cho các ngắt "rỗi" cho các thiết bị phần cứng này. Cuối cùng giải pháp hay hơn cả là bạn hãy mua các thiết bị hỗ trợ chuẩn USB. Chuẩn này cho phép bạn giải quyết vấn đề khan hiếm cổng nối tiếp, cổng song song và các vấn đề liên quan tới địa chỉ ngắt...

Khi một thiết bị không hoạt động đúng đắn

Đôi khi một thiết bị nào đó như máy quét hay card mạng chẳng hạn không chịu hoạt động dưới Windows. Sau một hồi kiểm tra tất cả các trường hợp như quên cắm dây nguồn, phích cắm lỏng...Bạn hãy ghi lại tất cả các thông số liên quan tới thiết bị (ví dụ: điạ chỉ IP, tên vùng đối với card mạng), đảm bảo bạn có trong tay trình điều khiển thiết bị đúng đắn và mới được cập nhật (nếu không bạn có thể dễ dàng tìm thấy chúng tại Web site của nhà sản xuất). Sau đó bạn hãy theo chỉ dẫn để xoá thiết bị khỏi Windows và cài lại chúng theo đúng cách hướng dẫn trong tài liệu.

1. Mở mục System trong Control Panel và lựa Device Manager. Bạn sẽ thấy một danh sách các thiết bị được cài đặt vào hệ thống.

2. Định vị thiết bị hoạt động không bình thường, nháy chuột vào nó và nháy chuột vào núm Remove để xoá thiết bị đó khỏi hệ thống. Bạn hãy đảm bảo dỡ bỏ tất cả mục khác liên quan tới thiết bị vừa mới được xoá ra khỏi danh sách thiết bị của hệ thống.

3. Sau đó bạn hãy khởi động lại Windows (tốt nhất là bạn hãy tắt hẳn nguồn và khởi động cứng toàn bộ hệ thống).

Nếu mọi việc suôn sẻ Windows sẽ tự động phát hiện thiết bị như một thiết bị mới được cài đặt và cài trình điều khiển cho thiết bị. Do Windows sẽ kiểm tra tài nguyên hệ thống tại thời điểm phát hiện thiết bị mới nên Windows sẽ gán cho thiết bị mới tài nguyên khác với lần cài đặt trước đó. Vì vậy trong hầu hết các trường hợp lỗi sẽ được Windows tự khắc phục.

Nếu Windows không hề phát hiện ra thiết bị mới, một hộp thoại sẽ xuất hiện yêu cầu bạn chỉ định đĩa cài đặt dành riêng cho thiết bị đó. Nếu nó không tìm thấy trình điều khiển thiết bị, bạn hãy chạy lại chương trình cài đặt thiết bị một lần nữa.
Quản lý font chữ trong Windows

Cài đặt và quản lý font chữ trong Windows đòi hỏi nhiều tính kiên nhẫn của bạn, nhưng không phải là không chế ngự được.

Nếu bạn là một người hâm mộ Windows bổng nhiên phải đối đầu với một số lượng lớn font chữ thì có lẽ sẽ gặp không ít rắc rối trong việc cài đặt và quản lý chúng. Những việc này vẫn còn gây khó chịu cho chủ nhân các máy PC và làm cho những kẻ sùng bái máy Mac càng thêm tự mãn. Trong khi đối với máy Mac chỉ có một cách dễ dàng quản lý font và một font duy nhất (PostScript Type 1) thì với PC có đến vài kiểu duy trì font và hai dạng font thông dụng (Type 1 và TrueType).

Để có một hiểu biết tốt nhất về việc quản lý font trong các máy PC, trước tiên phải xác định rõ ba lĩnh vực khác nhau: cài đặt, quản lý và in. Mỗi lĩnh vực đều có vấn đề của nó. Tuy nhiên chỉ cần chịu khó một chút và với vài trình tiện ích, bạn có thể làm chủ được công việc của mình và dễ dàng truy cập đến các kiểu chữ bạn cần.

Cài đặt và lưu trữ font

Cũng may mắn là font TrueType và Type 1 được đưa vào PC cũng như người ta thực hiện điều đó với Mac - địch thủ nặng ký của PC trong lĩnh vực chế bản điện tử.

Tuy nhiên, không như máy Mac tự động lưu các font khi bạn đưa font System Folder, cài đặt font trên PC chưa được chuẩn hóa và font có thể nằm ở các thư mục khác nhau, không chỉ làm nhầm lẫn khi tìm font mà còn gây trở ngại trong việc quản lý chúng.

Từ khi hãng Adobe đưa ra việc cài đặt font Type 1 và ATM (Adobe Type Manager - trình quản lý font) để lưu các font PostScript Type 1 trong thư mục PSFONTS thì hầu như tất cả đều lựa chọn cách giải quyết như vậy. Nhưng do font Type 1 có vài thành phần, và không phải tất cả đều được lưu trong thư mục chính PSFONTS nên cách giải quyết này vẫn chưa trọn vẹn.

Ví dụ, thành phần PFB (PostScript Font Binary) là font đường viền được lưu trong thư mục PSFONTS; PFM (Printer Font Metric) được lưu trong PSFONTS\PFM; AFM (Adobe Font Metric) được dùng để tạo HPPCL (Hewlett - Packard Printer font), được lưu trong PSFONTS\PFM; và INF (infomation) được dùng với AFM thì trong PSFONTS\INF.

TrueType thậm chí còn ít được chuẩn hóa hơn. Chương trình cài đặt của Windows tự động đưa các font vào thư mục Windows\System. Thư mục con này cũng chứa các file cần thiết cho Windows làm việc chuẩn xác và nếu số lượng font cài vào nhiều thì chúng có thể gây xáo trộn bừa bãi thư mục. Tuy nhiên, thư mục chứa nhiều file không ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất hoạt động, nó chỉ gây trở ngại khi bạn cần vào thư mục SYSTEM để tìm một file nào đó.

Theo lý thuyết, các tệp TrueType font (TTF) có thể được lưu trữ ở bất kỳ đâu, vì vậy để có được sự quản lý tốt nhất nhiều người dùng thường cài TTF trong thự mục con WINDOWS\TTF. Tuy nhiên, sau đó Windows lại tạo ra tệp FOT (tệp này thông báo cho Windows biết tên của font và tệp TTF được lưu ở đâu) cho mỗi font được cài. Các tệp FOT được lưu trong thư mục con Windows\SYSTEM và cũng chiếm dụng nhiều nếu nhiều font được cài.

Một số chương trình cài đặt khác nhau như CorelDraw 4 cho phép bạn chọn nơi lưu trữ TTF. Nhưng dù sao, các loại font cùng kiểu nên được lưu tại một nơi chung.



Quản lý font

3 trình tiện ích cần thiết để quản lý font trong Windows là ATM cho font Type 1, chương trình font trong Windows Control Pannel cho TrueType font và FontMinder cho cả hai TTF và Type 1 (FontMinder của QualiType).

Để có một công cụ quản lý font hoàn chỉnh, các trình ứng dụng phải đạt được hai yếu tố: truy cập và xóa font.

Nếu bạn có hàng trăm font được cài đặt, có lẽ bạn không muốn tất cả đều luôn luôn hiện hữu. Tại sao? Bởi càng nhiều font được tải vào thì chương trình khởi động càng chậm và nói chung, Windows chạy càng chậm. Vì vậy, bạn cần có cách để dễ dàng tải và loại bỏ font cho từng công việc cụ thể.

Yếu tố thứ hai trong quản lý font là xóa bỏ luôn font khỏi đĩa cứng. Với tên file và các phần mở rộng PFB, INF và FOT ở nhiều chổ, làm sao bạn có thể dễ dàng xóa đúng file cần thiết?

Chỉ có FontMinder thực hiện được điều này. Với FontMinder bạn có thể tạo một vùng gọi là FontPacks cho TTF và Type 1 chỉ chứa các font bạn cần. Bạn dễ dàng tạo một FontPacks bổ sung của một nhóm font mới. Khi bạn yêu cầu FontMinder xóa các font cụ thể khỏi đĩa cứng, chương trình sẽ tìm kiếm và loại bỏ các thành phần font mà bạn muốn xóa chỉ trong một bước thực hiện.



Tối ưu hóa ATM

Mặc dù trong Windows đã có sẵn một số loại font Type 1, việc sử dụng ATM cũng khá hữu ích. Phần mềm ATM được bạn kèm với nhiều hệ phần mềm khác nên nhiều nhà thiết kế không quan tâm đến việc đăng ký dùng phần mềm này. Đó là một sai lầm vì không đăng ký sẽ không được cập nhật ưu đãi khi có phiên bản mới.

Phiên bản mới nhất của ATM (2.5) nhanh khoảng hai lần so với phiên bản trước. Tốc độ tăng của ATM thể hiện rõ khi in ra các máy in không thuộc loại PostScript, nhanh hơn nhiều so với loại font Type 1. Một ưu điểm khác nữa của ATM 2.5 là không cần phải khởi động lại Windows khi bổ sung font mới.

Cả 2 loại font ATM và TrueType đều tạo chữ trực tiếp trên màn hình ở dạng bitmap. Để tăng tốc độ hiển thị khi cuộn màn hình, ATM dùng font cache - một kiểu bộ nhớ tiềm ẩn trên RAM. Dung lượng cache được gán mặc định là 96 KB, tuy nhiên hãng Adobe khuyên nên đặt là 256 KB. Nếu số lượng font dùng trong một tài liệu nhiều hoặc dùng chương trình Adobe Photoshop thì nên đặt tối thiểu là 256 KB. Bộ nhớ cache sẽ giảm thời gian vẽ lại màn hình bằng cách lưu các bitmap của font vào RAM để khỏi phải tạo lại.



TrueType và PostScript

Hiện tại loại font PostScript Type 1 vẫn giữ vị trí thống soái trong lĩnh vực chế bản điện tử. Đa số các văn phòng chế bản (nước ngoài - ND) đều dùng máy Macintosh để tạo mẫu. Khi chế bản trên PC, nếu muốn có kết quả chất lượng cao thì có thể chuyển tệp in ra đĩa hoặc chuyển đổi tệp PC sang cho phiên bản phần mềm tương ứng chạy trên Macintosh (chẳng hạn như PageMaker hoặc QuarkXPress). Tình trạng hiện nay là Windows được dùng khắp nơi, do đó số lượng các tệp cần chuyển từ PC sang Macintosh sẽ được quan tâm đến nhiều.

Bộ font TrueType Master Set của hãng Microsoft dành cho Macintosh có 102 font - tương ứng với số font hiện có đi theo Windows (với Microsoft FontPack 1 là FontPack 2). Font trên cả 2 môi trường PC và Macintosh có cùng một tên gọi, rất tiện lợi cho việc chuyển đổi tệp từ môi trường này sang môi trường khác.

Mặc dù loại font TrueType đã được cài đặt cho Macintosh, việc in chất lượng cao hiện nay vẫn có vấn đề. Đa số các loại máy in PostScript không in được loại font này. Để giải quyết vấn đề trên, có thể chuyển đổi các font TrueType sang font PostScript. Trong hộp đối thoại của Windows PostScript driver TrueType Fonts có chức năng tùy chọn cho phép tổng hợp TrueType font thành loại Type 1 (outline) hoặc Type 3 (resolution - dependent bitmap). Driver PostScript Level 2 còn có khả năng chuyển TrueType thành Type 42.

Các chuyên viên của Adobe, Microsoft và các phòng chế bản đều thấy rằng với các cố gắng đảm bảo tính tương thích trong font chữ giữa 2 môi trường, khi in thử từ Windows có thể chỉ cần máy in vừa phải. Nếu chọn driver độ phân gải thấp (trên dưới 300 dpi) và chuyển tệp cho phòng chế bản để in ở độ phân giải cao thì việc chuyển sang loại font Type 3 chỉ cho kết quả ở độ phân giải thấp, còn nếu dùng Type 1 (outline) thì việc xuất kết quả độc lập với độ phân giải của thiết bị in ấn.

Để kết quả in ra có chất lượng cao, các chuyên gia khuyên nên đặt các chức năng Windows ở chế độ sau: đặt Send TrueType là Type 1, mở Conform to Adobe Document Structuring Convention và tắt Substitution Table. Do còn nhiều vấn đề với các font trên PC nên sự xuất hiện các công cụ quản lý font như FontMinder là điều đáng khích lệ. Các văn phòng chế bản cũng như các chuyên viên thiết kế đang tích lũy kinh nghiệm với dạng font do hãng Microsoft và Apple sản xuất trên quan điểm "phổ cập font co dãn được (scalable)". Và nếu cơ quan bạn đang dùng PostScript thì đầu tư cho thư viện Type 1 là một việc làm hữu ích.


Tham số khởi động Windows 9x

Theo tôi được biết thì có nhiều cách để khởi động Windows 95 hay nói cách khác có thể khởi động Windows với các tham số khác nhau. Tôi đã dùng lệnh Win /? để xem nhưng không hiểu, mong quý báo giải thích dùm tác dụng của mỗi lệnh, xin cám ơn.

Các tham số khi khởi động Windows 95 có thể được dùng khi có trục trặc trong lúc khởỉ động. Vậy nếu bạn gặp phải lỗi khi khởi động, theo các thông báo lỗi hiện ra bạn dự đoán bệnh và khởi động cùng các tham số thích hợp.

Dòng lệnh có dạng: Win [/D:[F] [M] [S] [N] [U] [X] ]

/D: là tuỳ chọn đầu của các tham số sau .

F: Bỏ chế độ truy cập đĩa fomat dạng 32 bit.

M: Khởi động Windows ở chế độ đơn giản nhất, loại bỏ không kiểm tra các thiết bị.

N: Khởi động Windows bỏ qua chế độ kiểm tra và kết nối mạng.

S: Khởi động Windows chỉ sử dụng bộ nhớ tối thiểu 640 hoặc 1 MB

U: Loại bỏ tất cả tranh chấp về địa chỉ ngắt của các thiết bị.

X: Loại bỏ tất cả tranh chấp về địa chỉ bộ nhớ của các thiết bị, các chương trình ứng dụng.

Với cách này bạn có thể thu hẹp phạm vi nguyên nhân lỗi, nhưng khi không còn cách nào khác bạn sẽ phải cài lại Windows 95.
Thủ thuật trong Windows

Có một cách thuận tiện để khởi động lại Windows mà không Reboot lại toàn bộ. Đó là ngay sau khi chọn ShutDown từ Start Menu và chọn Restart the Computer, giữ phím Shiff trong khi nháy chuột vào OK hoặc nhấn Enter. Nó sẽ khởi động lại máy tính nhưng không phải là toàn bộ. Nhả phím Shiff ngay sau khi Click, nếu không Windows đôi khi sẽ nhắc nhở sự sao nhãng này của bạn bằng thông báo "wish with fingertip".

Giữ phím Shifff trong khi nháy trogn Windows 95 thường đưa ra nhiều kết quả thú vị. Ví dụ Shiff-right-Click lên một file trong Explorer đưa ra cho bạn một chọn lựa thêm vào của việc mở file đó với bất kỳ một chương trình nào bạn đã đăng ký. Giữ Shiff trong khi nháy vào nút Delete của Explorer hay vào lệnh Delete của Menu lúc nháy chuột phải sẽ bỏ qua Recycle Bin và gửi thẳng file của bạn vào "niết bàn". Nói chung khi bạn giữ phím Shiff để khởi động Windows 95 (ngược lại với Reboot) bạn nên giữ nó tận khi dòng chữ "Windows is now restarting" xuất hiện trên màn hình. Bằng cách đó bạn sẽ chắc chắn được kết quả mong muốn.

Khi bạn Shiff-Right-Click một file trong Explorer, các item của menu không chỉ bao gồm những item được định nghĩa cho những kiểu file thông thường mà còn thêm những gì menu cho các file lạ là Open With xuất hiện. Nhưng nếu bạn đã thêm những mục menu khác cho những kiểu file lạ bằng Windows 95 Registry những mục này sẽ xuất hiện khi bạn Shiff-Right-Click.

Và sau đây là một vài mách nước khác với Shiff-Click: Nếu bạn mở một loạt folder để tới một file riêng biệt, bạn có thể muốn kết thúc một vài cửa sổ folder trên desktop. Tất nhiên bạn có thể đóng từng cái một nhưng nếu bạn giữ phím Shiff trong khi đóng một folder sâu nhất, tất cả những cái còn lại cũng sẽ đóng ngay. Phím Shiff cũng có thể thay đổi cách đối xử trong một vài ứng dụng Windows 95. Ví dụ, trong Microsoft Word 7.0, nếu bạn nháy chuột vào Menu File, lựa chọn thứ 3 của menu sẽ là Close, nhưng nếu bạn Shiff Click thì lựa chọn này lại là Close All, để đóng tất cả các văn bản đang mở. Tất nhiên bạn có thể tìm nhiều ví dụ khác nữa!
Thủ thuật trong Windows (2)

Cá biệt hoá Desktop của bạn

Mẹo: Hãy sử dụng tối đa khả năng kéo - nhả của Windows

Bạn hãy giữ phím phải chuột thay vì bấm vào phím trái chuột. Khi bạn nhả chuột, hành động mặc định sẽ được nhấn mạnh bằng chữ đậm, nhưng bạn sẽ có khả năng di chuyển, sao lưu, hay tạo một tham chiếu tắt tới biểu tượng.

Tuỳ biến thực đơn Start

Để tinh chỉnh thực đơn Start, bạn hãy bấm phím phải chuột lên thanh tác vụ và chọn Properties | Start Menu Programs | Advanced. Windows quản lý các biểu tượng tắt trên hệ thống giống hệt như cách thức quản lý tệp hệ thống nên bạn hoàn toàn tuỳ biến những biểu tượng, tham chiếu tới các chương trình giống như cấu trúc phân cấp thư mục quen thuộc. Bạn hãy chú ý chỉ có một thư mục duy nhất được phép đặt trên thực đơn Start đó là thư mục Programs. Hãy đặt tất cả những biểu tượng tắt tới các chương trình hay sử dụng vào thư mục này, chúng sẽ hiển thị phía trên thư mục Programs, cho phép bạn khả năng truy cập dễ dàng vào các chương trình. Nếu bạn sử dụng IE4 hay Windows 98, bạn có thể tái cấu trúc lại các biểu tượng tham chiếu tới chương trình nhờ khả năng phân nhóm, kéo-và-thả các biểu tượng này. Một điều bạn luôn luôn ghi nhớ đó là không đưa bất cứ chương trình nào vào thư mục Start trừ các biểu tượng tắt tham chiếu tới chúng vào thư mục này.



Tuỳ biến thực đơn Send To (Gửi tới)

Microsoft cung cấp cho bạn khá nhiều tiện ích bên trong Windows Explorer. Phần này chúng ta sẽ cùng khám phá thế giới của thư mục Send. Bạn hãy nhấn phím phải chuột, thực đơn ngữ cảnh chứa tuỳ chọn Send sẽ hiện ra. Dưới tuỳ chọn này là một loạt các kết nối tới các chương trình và thao tác được định nghĩa sẵn. Mặc định bạn có thể gửi tài liệu tới ổ đĩa mềm, chương trình gửi thư của Microsoft và có thể cả tiện ích Briefcase của bạn nữa. Song không chỉ có vậy bạn nên thêm các chương trình bạn hay sử dụng để tạo cảm giác thoải mái trên hệ thống của bạn. Đây là những kỹ thuật đơn giản để thực hiện điều đó:

Mở thư mục C:\Windows\SendTo. Bạn sẽ nhìn thấy những kết nối của thực đơn Send To được liệt kê trong thư mục này. Hãy xoá bỏ những thứ không cần thiết và thêm vào những chương trình của bạn.

Đưa biểu tượng Control Panel vào thực đơn Start

Mở Explorer ngay trong thực đơn Start bằng cách bấm phím phải khi trỏ chuột vào núm Start và chọn Explorer. Nháy chuột vào khoảng trống của cửa sổ bên phải và chọn New | Folder. Tại trường tên thay vì gõ tên thông thường bạn hãy gõ chính xác tổ hợp ký tự sau:

Control Panel.{21EC2020-3AEA-1069-A2DD-08002B30309D}

Bây giờ trở lại thực đơn Start bạn sẽ nhìn thấy toàn bộ những biểu tượng của Control Panel được nạp vào thư mục Control Panel ngay trong thực đơn Start.

Bạn có thể áp dụng kỹ thuật này cho thư mục Printer hay Dial Up với thứ tự tên các thư mục như sau:

Printer:

Printers.{2227A280-3AEA-1069-A2DE-08002B30309D}

Dial Up Networking:

Dial Up Net.{992CFFA0-F557-101A-88EC-00DD010CCC48}

Khởi động nhanh các chương trình

Thực đơn Start là một nơi lý tưởng để đặt các chương trình bạn thường sử dụng trên hệ thống. Song với một số phần mềm bạn hay "động" tới hơn cả thì Thanh công cụ Khởi động nhanh sẽ đem lại nhiều tiện lợi hơn hẳn (Quick Launch bar). Một điều không may cho bạn nếu bạn không cài đặt IE4, hay Windows 98. ở chế độ mặc định, IE4 đặt biểu tượng IE, Outlook Express, kênh thu thập thông tin của bạn, và một núm có tên Show Desktop sẽ thu nhỏ tất cả các cửa sổ đang được mở trên màn hình. Tuy nhiên bạn hoàn toàn tuỳ biến hoá thanh công cụ này, hãy bấm phím phải vào thanh công cụ, chọn Delete từ thực đơn ngữ cảnh để xóa các biểu tượng không cần thiết ra khỏi thanh công cụ. Nhưng nếu bạn muốn thêm một biểu tượng vào thanh công cụ, bạn hãy kéo shortcut của chương trình lên trên thanh công cụ, hệ thống tự động thêm biểu tượng chương trình vào thanh khởi động nhanh. Mặc dù vậy bạn hãy ghi nhớ một điều, chớ nên thêm quá nhiều biểu tượng vào thanh khởi động nhanh vì điều đó sẽ làm chậm tốc độ khởi động của hệ thống.




tải về 0.84 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương