Presbyterorum ordinis



tải về 285.91 Kb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu27.07.2016
Kích285.91 Kb.
#7553
1   2   3   4   5

22. Dù luôn nghĩ đến những niềm vui của đời sống linh mục, Thánh Công Đồng vẫn không quên những khó khăn mà các linh mục đang gánh chịu trong những hoàn cảnh của đời sống hiện tại. Thánh Công Đồng cũng biết rằng tình trạng kinh tế, xã hội và ngay cả phong cách sống của con người đang thay đổi rất nhiều, và bậc thang giá trị cũng đang bị đảo lộn không ít trong nhận thức của nhân loại; do đó, các thừa tác viên của Giáo Hội, và đôi khi ngay cả các Kitô hữu, cảm thấy mình như xa lạ trong thế giới này và trăn trở tìm kiếm không biết phải dùng phương thức hay lời nói nào thích hợp để có thể giao tiếp với đời. Thật vậy, những chướng ngại mới cho đức tin, những việc làm bề ngoài xem ra vô ích, cũng như sự cô đơn cay đắng đã từng trải nghiệm, có thể dẫn đến nguy cơ làm cho các ngài suy sụp tinh thần.

Nhưng thế giới đang được trao phó cho tình yêu và thừa tác vụ của các vị Chủ chăn trong Giáo Hội chính là thế giới mà Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đã trao ban Con Một của Ngài155. Thật ra, tuy bị tội lỗi đè nặng nhưng vẫn không thiếu năng lực đồi dào, thế giới ngày nay đang tặng hiến cho Giáo Hội những viên đá sống động156 để cùng nhau xây nên đền thờ Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần157. Khi Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội mở những con đường mới dẫn đến thế giới ngày nay, thì chính Ngài cũng khởi xướng và phát huy những cải tổ thích hợp cho tác vụ linh mục.

Các linh mục phải nhớ rằng không bao giờ các ngài lẻ loi trong khi thi hành bổn phận, nhưng luôn kiên vững nhờ sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng; với niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã mời gọi các ngài thông phần vào chức Tư tế của mình, các ngài hãy luôn tín thác tận hiến vì tác vụ, bởi biết rằng Thiên Chúa toàn năng sẽ làm cho tình yêu luôn tăng triển nơi các ngài158. Các ngài cũng hãy nhớ rằng những người anh em trong chức linh mục và cả những tín hữu trên toàn thế giới vẫn luôn liên kết với các ngài. Thật vậy, tất cả các linh mục đều cộng tác để chu toàn ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, chính là mầu nhiệm Chúa Kitô, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn đời nơi Thiên Chúa159, ý định đó chỉ được thực hiện dần dần nhờ nhiều tác vụ khác nhau cùng liên kết trong việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô, cho đến khi đạt đến tầm vóc viên mãn. Và tất cả những gì đang tiềm tàng với Đức Kitô trong Thiên Chúa160 chỉ có thể được nhận biết rõ ràng nhờ đức tin. Như thế, các vị lãnh đạo Dân Chúa phải bước đi trong đức tin, theo gương của Abraham, người đầy lòng tin, người đã lấy đức tin “vâng lời đi đến nơi mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: và ông đã ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Quả thật, người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa có thể sánh với người gieo giống trong ruộng như lời Chúa nói: “và người ấy ngủ hay thức, đêm cũng như ngày, hạt giống nảy mầm và lớn lên, trong khi người ấy chẳng hay biết gì” (Mc 4,27). Hơn nữa, nếu Đức Kitô bảo rằng “các con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), thì chắc chắn qua lời nói này, Người không hứa cho Giáo Hội một cuộc toàn thắng ở trần gian. Thánh Công Đồng vui mừng vì mặt đất đã đón nhận hạt giống Tin Mừng, nay đang sinh hoa kết quả ở nhiều nơi dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng lấp đầy cả địa cầu và khơi dậy trong tâm hồn nhiều linh mục và tín hữu tinh thần truyền giáo đích thực. Vì tất cả những điều đó, Thánh Công Đồng thân ái cám ơn các linh mục trên khắp thế giới: “Chúc tụng Đấng Quyền Năng đã dùng sức mạnh đang hoạt động nơi chúng ta mà làm mọi điều vượt quá những gì chúng ta cầu xin hay nghĩ tới: xin tôn vinh Ngài trong Giáo Hội và nơi Đức Kitô Giêsu” (Ep 3,20-21).

Tất cả và từng điều được ban bố trong Sắc Lệnh này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 7 tháng 12 năm 1965


Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)


1 CĐ VATICAN II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium: AAS 56 (1964), tr. 97tt.; Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium: AAS 57 (1965), tr. 5tt.; Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục Christus Dominus; Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục Optatam Totius.

2 x. Mt 3,16; Lc 4,18; Cv 4,27; 10,38.

3 x. 1 Pr 2,5 và 9.

4 x. 1 Pr 3,15.

5 x. Kh 19,10; CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 35: AAS 57 (1965), tr. 40-41.

6 CĐ TRENTÔ, Khóa XXIII, ch. 1 và điều 1: DS 957 và 961 (1764 và 1771).

7 x. Ga 20,21; CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 18: AAS 57 (1965), tr. 21-22.

8 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28: AAS 57 (1965), tr. 33-36.

9 x. nt.

10 x. Potificale Romanum, Kinh Tiền Tụng lễ phong chức linh mục. Những lời này đã có trong Sacramentarium Veronense: xb. L.C. Mošhlberg, Roma 1956, tr. 122; trong Missale Francorum: xb. L.C. Mošhlberg, Roma 1957, tr. 9; cũng thấy trong Liber Sacramentorum Romanae Ecclesiae: xb. L.C. Mošhlberg, Roma 1960, tr. 25; và trong Pontificale Romano-Germanicum: xb. Vogel-Elze, Città del Vaticano 1963, vol. I, tr. 34.

11 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965), tr. 14-15.

12 x. Rm 15,16: bản Hy lạp.

13 x. 1 Cr 11,26.

14 T. AUGUSTINÔ, De Civitate Dei, 10,6: PL 41, 284.

15 x. 1 Cr 15,24.

16 x. Dt 5,1.

17 x. Dt 2,17; 4,15.

18 x. 1 Cr 9,19-23: bản Phổ thông.

19 x. Cv 13,2.

20 “Những hoàn cảnh ngoại tại mà Giáo Hội đang sống chính là động lực thúc đẩy việc hoàn thiện đời sống thiêng liêng và luân lý; vì Giáo Hội không thể ngồi yên và không quan tâm đến những đổi thay của thế giới loài người đang vây quanh Giáo Hội và đang tác động đến cách sống và điều kiện sinh hoạt của Giáo Hội bằng nhiều cách. Mọi người đều biết rằng Giáo Hội không tách biệt nhưng là sống giữa xã hội loài người, vì thế con cái Giáo Hội không những chịu ảnh hưởng mà còn thấm nhiễm nền văn hóa, tuân theo luật lệ và phong tục của xã hội ấy. Mối liên hệ mật thiết với xã hội loài người tạo cho Giáo Hội một tình trạng luôn luôn có những vấn đề phải giải quyết, những vấn đề này lại càng thêm trầm trọng trong thời đại hôm nay (...). Vị Tông đồ dân ngoại đã khuyên nhủ các Kitô hữu: “Anh em đừng mang chung môt ách với những kẻ không tin. Thật vậy, sự công chính làm sao có thể thoả hiệp với sự bất chính? Ánh sáng làm sao có thể hoà nhập với bóng tối?... người tín hữu làm sao lại chung phần được với người không tin? (2 Cr 6,14-15). Vì thế, những ai lo việc giáo dục và huấn luyện trong Giáo Hội ngày nay, cần phải nhắc nhở thanh thiếu niên công giáo nhận biết địa vị cao cả của họ, đồng thời từ đó ý thức về bổn phận phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, như lời Đức Kitô đã cầu nguyện cho các Tông Đồ: “Con không xin Cha đem họ ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,15-16). Giáo Hội đã nhận lấy lời cầu nguyện đó làm của mình. Tuy nhiên, phân biệt khỏi thế gian, như thế không có nghĩa là tách biệt khỏi thế gian, cũng không phải là dửng dưng, sợ hãi hay miệt thị thế gian. Thật vậy, khi tự phân biệt với nhân loại, Giáo Hội không chống đối, nhưng đúng hơn, vẫn liên kết với thế gian”. PHAOLÔ VI, Thông điệp Ecclesiam suam, 6.8.1964: AAS 56 (1964), tr. 627 và 638.

21 x. Rm 12,2.

22 x. Ga 10,14-16.

23 x. T. PÔLYCARPÔ, Epist. ad Philippenses, VI, 1: “Các trưởng giáo đoàn phải biết cảm thông, nhân ái với mọi người, phải dẫn đưa những người lầm lạc trở về, thăm viếng bệnh nhân, không khinh thường các quả phụ, cô nhi hay người nghèo, nhưng phải luôn lo thực thi điều thiện trước mặt Thiên Chúa và người ta, phải kiềm chế cơn nóng giận, đón nhận mọi người, không xét xử bất công, phải giữ mình khỏi tật tham lam biển lận, không vội tin chuyện xấu của người khác, cũng không quá nghiêm khắc khi luận xử, vì biết rằng tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi”.

24 x. 1 Pr 1,23; Cv 6,7; 12,24. “Các Tông đồ đã rao giảng lời chân lý và đã khai sinh các Giáo Hội”: T. AUGUSTINÔ, Enarr. in Ps. 44, 23: PL 36, 508.

25 x. Ml 2,7; 1 Tm 4,11-13; 2 Tm 4,5; Tt 1,9.

26 x. Mc 16,16.

27 x. 2 Cr 11,7. Những gì nói về các Giám mục cũng có giá trị cho các linh mục với tư cách là cộng tác viên của Giám mục; x. Statuta Ecclesiae Antiqua, ch.3 (xb. Ch. Munier, Paris 1960 tr. 79); Decretum Gratiani, C. 6, D. 88 (xb. Friedberg, I, 307); CĐ TRENTÔ Sắc lệnh De reform., khóa V, ch. 2, số 9 (Conc. Oec. Decreta, xb. Herder, Roma 1962, tr. 645), khóa XXIV, ch. 4, tr. 739; CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 25: ASS 57 (1965), tr. 29-31.

28 x. Constitutiones Apostolorum, II, 26, 7: “(Các linh mục) hãy trở nên những vị tiến sĩ thông thạo khoa học về Thiên Chúa, vì chính Chúa đã ra lệnh truyền cho chúng ta: Các con hãy đi giảng dạy v.v...”: xb. F.X. Funk; Didascalia et Constitutiones Apostolorum, I, Paderborn, 1905, tr. 105; Sacramentarium Leonianum và những sách lễ nghi khác cho tới Pontificale Romanum; Kinh Tiền Tụng lễ phong chức linh mục: “Lạy Chúa, với sự quan phòng ấy, Chúa đã cho các Tông Đồ của Con Chúa có những phụ tá là thầy dạy đức tin, để nhờ những người rao giảng trong cấp bậc nhị phẩm, các Tông Đồ hiện diện trên toàn thế giới”; Liber Ordinum Liturgiae Mozarabicae, Kinh Tiền Tụng lễ phong chức linh mục: “Là thầy dạy của dân và là người lãnh đạo cộng đoàn, ước gì các ngài giữ gìn chính xác đức tin công giáo và rao giảng ơn cứu rỗi đích thực cho mọi người”: xb. M. Férotin, Le Liber Ordinum en usage dans l'Eglise Wisigothique et Mozarabe d’Espagne: Monumenta Ecclesiae Liturgica, vol. V, Paris 1904, cột 55, dòng 4-6.

29 x. Gl 2,5.

30 x. 1 Pr 2,12.

31 x. Nghi lễ phong chức linh mục trong Giáo Hội Giacobit tại Alexandria: “... Hãy tập họp dân chúng ngươi đến nghe lời giáo lý, như người mẹ nâng niu con cái mình”: H. Denzinger, Ritus Orientalium, Bộ II, Wošrzburg 1863, tr. 14.

32 x. Mt 28,19; Mc 16,16; TERTULLIANÔ, De baptismo, 14, 2 (Corpus Christianorum, Series latina, I, tr. 289, 11-13); T. ATHANASIÔ, Adv. Arianos, 2, 42: PG 26, 237 A-B; T. HIÊRÔNYMÔ, In Mt. 28,19: PL 26, 226 D: “Trước hết các ngài dạy dỗ muôn dân, tiếp đến lấy nước Rửa tội cho những kẻ đã được giáo huấn. Thật vậy, không được để cho thể xác nhận lãnh bí tích Rửa tội khi linh hồn chưa nhận lãnh chân lý đức tin”; T. TÔMA, Expositio primae Decretalis, §1: “Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Đấng Cứu Thế của chúng ta đã trao cho họ ba mệnh lệnh. Trước nhất là rao giảng đức tin, thứ đến là ban các bí tích cho những kẻ có lòng tin”: xb. Marietti, Opuscula Theologica, Taurini - Romae 1954, 1138.

33 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 35, 2: AAS 56 (1964), tr. 109.

34 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 33, 35, 48, 52: AAS 56 (1964), tr. 108-109, 113, 114.

35 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964), tr. 100-101; PIÔ XII, Thông điệp Mystici Corporis, 29.6.1943: AAS 35 (1943), tr. 230.

36 T. IGNATIÔ TỬ ĐẠO, Smyrn., 8, 1-2: xb. F.X. Funk, tr. 240; Constitutiones Apostolorum, VIII, 12, 3: xb. F.X. Funk, tr. 496; VIII, 29, 2, nt., tr. 532.

37 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28: AAS 57 (1965), tr. 33-36.

38 Bí tích Thánh Thể là sự đúc kết tất cả đời sống thiêng liêng và là cứu cánh của tất cả các bí tích khác: T. TÔMA, Summa Theol. III, q. 73, a.3 c: x. Summa Theol. III, q. 65, a. 3.

39 x. T. TÔMA, Summa Theol. III, q. 65, a. 3, ad 1; q. 79, a. 1, c, và ad 1.

40 x. Ep 5,19-20.

41 x. T. HIÊRÔNYMÔ, Epist. 114, 2: “... chén thánh, khăn thánh và những vật dụng liên quan đến việc tôn sùng cuộc Tử nạn của Chúa, phải được cung kính cùng với Mình và Máu Chúa “: PL 22, 934; x. CĐ VATICAN II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 122-127: AAS 56 (1964), tr. 130-132.

42 “Hơn nữa, các tín hữu đừng xao lãng việc siêng năng viếng Mình Thánh Chúa được cung kính cất giữ tại một vị trí xứng đáng nhất trong nhà thờ theo đúng luật phụng vụ, việc kính viếng Chúa Kitô hiện diện nơi đây là một dấu chỉ của lòng biết ơn, là bảo chứng tình yêu và là việc tôn thờ thích đáng dâng lên Người”: PHAOLÔ VI, Thông điệp Mysterium Fidei, 3.9.1965: AAS 57 (1965), tr. 771.

43 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28: AAS 57 (1965), tr. 33-36.

44 x. 2 Cr 10,8; 13,10.

45 x. Gl 1,10.

46 x. 1 Cr 4,14.

47 x. Didascalia II, 34-3; II, 46. 6; II, 47. 1; Constitutiones Apostolorum, II, 47. 1: xb. F.X. Funk, Didascalia et Constitutiones, I, tr. 116, 142 và 143.

48 x. Gl 4,3; 5,1 và 13.

49 x. T. GIÊRÔNYMÔ, Epist., 58, 7: “Thành quách chói sáng ngọc ngà nào có ích chi, nếu Đức Kitô chết đói trong thân phận một người nghèo khổ?”: PL 22, 584.

50 x. 1 Pr 4,10tt.

51 x. Mt 25,34-45.

52 x. Lc 4,18.

53 Có thể kể đến những hạng người khác, ví dụ những người di cư, dân du mục v.v... Vấn đề này được đề cập đến trong Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 18.

54 x. Didascalia, II, 59, 1-3: “Khi dạy dỗ, hãy truyền bảo và khuyến dụ dân chúng siêng năng đến với giáo đoàn, đừng bao giờ vắng mặt, nhưng hãy luôn cùng nhau tụ họp, và đừng lìa bỏ cộng đoàn, vì như thế sẽ làm cho Giáo Hội bị giảm thiểu và bớt mất một chi thể nơi Thân Thể Chúa Kitô... Vì thế, là chi thể Chúa Kitô, anh em đừng làm phân tán giáo đoàn khi không cùng qui tụ với nhau; anh em có Chúa Kitô là Đầu, Người đang hiện diện và thông hiệp với anh em theo như lời Người hứa; vì thế anh em đừng thờ ơ và khiến Đấng Cứu Thế trở nên xa lạ với các chi thể Người, đừng chia rẽ cũng đừng phân tán Thân Thể Người...”: xb. F.X. Funk, I, tr. 170; PHAOLÔ VI, Diễn văn trước một số giáo sĩ Ý tham dự Đại Hội XIII «di aggiornamento pastorale», 6.9.1963: AAS (1963), tr. 750tt.

55 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28: AAS 57 (1965), p. 35.

56 x. Constitutionem Ecclesiasticam Apostolorum, XVIII: Các linh mục là những kẻ đồng tham dự các mầu nhiệm (symmystai) và đồng chiến đấu (synepímachoi) với các Giám mục: xb. Th. Schermann, Die allgemeine Kirchenordnung, I, Paderborn 1914, tr. 26; A. HARNACK, Die Quellen der sog. apostolilschen Kirchenordnung, T.u. U., II, 5, tr. 13, số 18 và 19; PSEUDO-HIÊRÔNYMÔ, De Septem Ordinibus Ecclesiae: “...trong lễ chúc tụng, họ là những người cùng với Giám mục tham dự các mầu nhiệm”: xb. A. W. Kalff, Wošrzburg 1937, tr. 45; T. ISIDORÔ HISPAL, De Ecclesiasticis Officiis, II, ch. VII: “Họ đứng đầu Giáo Hội của Đức Kitô và tham dự với các Giám mục trong việc cử hành bí tích Thánh Thể, cũng như trong việc dạy dỗ dân và trong phận vụ rao giảng”: PL 83, 787.

57 x. Didascalia, II, 28, 4: xb. F.X. Funk, tr. 108; Constitutiones Apostolorum, II, 28, 4; II, 34, 3: nt., tr. 109 và 117.

58 Const. Apost. VIII, 16, 4 và F.X. Funk, I, tr. 523; x. Epistome Const. Apost., VI: nt., II, tr. 80, 3-4; Testamentum Domini: “... xin Chúa ban cho người này Thánh Thần ân sủng, khuyến dụ, đại độ, và tinh thần linh mục... để hoạt động giúp đỡ và cai quản Dân Chúa với lòng kính sợ và tâm hồn trong trắng”: bản dịch Latinh của I. E. Rahmani, Moguntiae 1899, tr. 69. Ý tưởng này cũng gặp trong Trad. Apost.: xb. B. Botte, La Tradition Apostolique de S. Hippolyte, Mošnster i. W. 1963, tr. 20.

59 x. Ds 11,16-25.

60 PONT. ROM. «Kinh Tiền Tụng lễ phong chức linh mục», những lời đã có trong Sacramentarium Leonianum, Sacramentarium Gelasianum và Sacramentarium Gregorianum. Những ý tưởng tương tự cũng gặp thấy trong Phụng vụ Đông Phương: x. TRAD. APOST.: “... Xin nhìn đến tôi tớ Chúa đây và ban Thánh Thần ân sủng, khuyến dụ và tinh thần linh mục, để tôi tớ Chúa giúp đỡ và cai quản Dân Chúa với tâm hồn trong trắng, như xưa Chúa đã nhìn đến đoàn Dân Chúa chọn và đã truyền cho Môisen tuyển lựa các vị trưởng lão, những người được Chúa đổ tràn chính Thần trí Chúa đã ban cho tôi tớ Chúa”: theo bản dịch Latinh Verona, xb. B. Botte, La Tradition Apostolique de S. Hippolyte. Essai de reconstruction, Mošnster i. W. 1963, tr. 20; Const. Apost. VIII, 16, 4 :xb. F.X. Funk I, tr. 522, 16-17; Epist. Const. Apost. VI: xb. F.X. Funk II tr. 80, 5-7; Testamentum Domini: bản dịch latinh của I. E. Rahmani, Moguntiae 1899, tr. 69; Euchologion Serapionis, XXVII: xb. F.X. Funk; Didascalia et Constitutiones, II, tr. 190, hàng 1-7; Ritus Ordinationis in ritu Maronitarum: bản dịch H. Denzinger; Ritus Orientalium, II, Wošrzburg, 1863, tr. 161; Trong số các Giáo phụ, có thể kể: THÊOĐORÔ MOPSUESTENÔ, In 1 Tm. 3,8: xb. Swete, II, tr. 119-121; THEODÔRÊTÔ, Quaestiones in numeros, XVIII: PG 80, 369C-372B.

61 x. CĐ VATICAN II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28: AAS 57 (1965), tr. 35.

62 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Sacerdotii Nostri Primordia, 1.8.1959: AAS 51 (1959) tr. 576; PIÔ X, Huấn dụ giáo sĩ Haerent animo, 4.8.1908: S. Pii X Acta, q. IV (1908), tr. 237tt.

63 x. CĐ VATICAN II, Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của Giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 15 và 16.

64 Theo Giáo luật hiện hành, Hội Kinh sĩ Chính tòa như là “nguyên lão viện và ban cố vấn” của Giám mục (GL, 391) hoặc nếu không có, thì Hội đồng cố vấn giáo phận thay thế (x. GL, 423-428). Tuy nhiên điều rất đáng mong ước là những tổ chức ấy phải được chỉnh đốn cho thích hợp hơn với những hoàn cảnh và nhu cầu hiện đại. Hội đồng linh mục dĩ nhiên khác Ủy ban Cố vấn mục vụ: về vấn đề này có nói trong Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 27, vì trong Ủy ban Cố vấn mục vụ có cả giáo dân, và chỉ có thẩm quyền trong những gì liên quan đến hoạt động mục vụ. Về việc các linh mục như là cố vấn của Giám mục có thể xem Didascalia, II, 28, 4: xb. F.X. Funk, I, tr. 108; Const. Apost. II, 28, 4: xb. F.X. Funk, I, tr. 109; T. IGNATIÔ TỬ ĐẠO, Magn. 6, 1: xb. F.X. Funk, tr. 194; Trall., 3, 1: xb. F.X. Funk, tr. 204; ÔRIGENÊ, Contra Celsum, III, 30: các linh mục là những cố vấn hay là boúleytai: PG 11, 957D-960A.

65 IGNATIÔ TỬ ĐẠO, Magn., 6, 1: “Cha nài xin các con hãy chăm chú làm mọi việc trong sự đồng tâm thánh thiện, dưới quyền của vị Giám mục đại diện Thiên Chúa và của các linh mục đại diện hội đồng các Tông Đồ, và của các phó tế rất yêu quí của cha, những người đó đã được trao ban tác vụ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng ngự bên Thiên Chúa từ trước muôn đời, và đã xuất hiện vào thời buổi cuối cùng”: xb. F.X. Funk, tr. 195; T. IGNATIÔ TỬ ĐẠO, Trall. 3, 1: “Cũng vậy, mọi người hãy kính trọng các vị phó tế như đối với Chúa Kitô, như đối với Giám mục là hình ảnh Chúa Cha, với các linh mục là nguyên lão viện của Thiên Chúa và là hội đồng các Tông Đồ: vì không có các đấng ấy, không thể nói đến Giáo Hội”: nt., tr. 204; T. HIÊRÔNYMÔ, In Isaiam, II, 3: PL 24, 61D: “Trong Giáo Hội, chúng ta cũng có nguyên lão viện của chúng ta là hội đồng linh mục”.

66 x. PHAOLÔ VI, Diễn văn tại đền Sixtine cho các cha xứ và các linh mục giảng thuyết mùa Chay ở Roma, 1.3.1965: AAS 57 (1965), tr. 326.

67 x.

Каталог: upload -> article
article -> TỦ SÁch thăng tiến giáo dân giáo dân hợp tuyển số 12 tháng 8/2014 VỚi chủ ĐỀ giáo dục gia đÌNH
article -> MỘt quan đIỂm công giáo về TÁc phẩm sống theo đÚng mụC ĐÍCH
article -> TỰ do nội tâm nguyên tác: La Liberté intérieure
article -> MỤc lục báo cáo kết quả thực hiện chuyêN ĐỀ nghiên cứu khoa họC (Chuyên đề 7)
article -> MỤc lụC ĐẶt vấN ĐỀ
article -> Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Linh LỜi cảM ƠN
article -> BÁo cáo kết quả thực hiện chuyêN ĐỀ nghiên cứu khoa họC (Chuyên đề 5)
article -> 1. 1 Vài nét sơ lược về cây lú
article -> ĐẶt vấN ĐỀ 2 I. TỔng quan nghiên cứU 3
article -> NIỀm vui yêu thưƠng (amoris laetitia)

tải về 285.91 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương