Point to Point Protocol (ppp) ppp được xây dựng dựa trên nền tảng giao thức điều khiển truyền dữ liệu lớp cao (High-Level Data link Control (hdlc)) nó định ra các chuẩn cho việc truyền dữ liệu các giao diện dte và dce của mạng wan như V



tải về 0.82 Mb.
trang9/14
Chuyển đổi dữ liệu23.07.2016
Kích0.82 Mb.
#2201
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

IPv6 Multicast Addresses

Một địa chỉ multicast là một địa chỉ xác định một nhóm các cổng của router, thông thường trên các hệ thống đầu cuối khác nhau. Các gói tin sẽ được phân phối đến tất cả các hệ thống được chỉ ra trong địa chỉ multicast. Sử dụng địa chỉ multicast thì hiệu quả hơn địa chỉ broadcast, trong đó yêu cầu tất cả các hệ thống đầu cuối phải ngừng tất cả các việc đang xử lý. Bởi vì một địa chỉ multicast là một địa chỉ của một nhóm các máy tính, nếu một máy tính không phải là thành viên của nhóm địa chỉ này, nó sẽ drop các gói ở layer 2. Tuy nhiên broadcast vẫn được xử lý trước khi các hệ thống xác định rằng dạng broadcast này là không liên quan đến nó. Các thiết bị lớp 2 thường lan truyền các broadcast bởi vì các địa chỉ broadcast không được lưu trữ trong bảng CAM. Không giống như router (hành động mặc định của router là drop các gói tin trong đó phần địa chỉ là không biết), switch sẽ phát tán tất cả các frame với phần địa chỉ là không xác định ra tất cả các cổng của switch. Về mặt lý thuyết, điều này cũng đúng với các địa chỉ multicast mặc dù một vài thiết bị có các cơ chế thông minh để giới hạn các dạng truyền multicast.

IPv6 không dùng cơ chế broadcast mà chỉ dựa vào địa chỉ multicast. Mặc dù IPv4 dùng địa chỉ multicast như định nghĩa RFC2356, nó sử dụng theo một cách khác. Các địa chỉ IPv6 có các dãy địa chỉ khác nhau. Tất cả các địa chỉ IPv6 bắt đầu với 8 bit đầu tiên gán bằng 1. Vì vậy tất cả các địa chỉ multicast sẽ bằng đầu với giá trị F. Dãy địa chỉ multicast là FF00::/8 - FFFF::/8

Giá trị octet thứ hai, theo sau octet đầu tiên, chỉ ra tầm vực và thời gian sống của địa chỉ multicast. Theo cách này, IPv6 có hàng triệu nhóm địa chỉ multicast.



Tóm tắt địa chỉ (Address Aggregation)

Quá trình tóm tắt các route, bất cứ khi nào có thể, là quan trọng trong Internet. Bảng định tuyến thì dễ quản lý hơn với cách hiện thực CIDR. Mặc dù tất cả các sơ đồ địa chỉ trong IPv6 cho phép cấp phát hầu như vô tận các địa chỉ, kiến trúc của IPv6 vẫn cho phép triển khai theo dạng có cấu trúc sao cho nó không bị quá tải. Như trong IPv4, các bit bên trái của địa chỉ được dùng để tóm tắt các địa chỉ mạng xuất hiện ở phía phải của cấu trúc địa chỉ. Như vậy, địa chỉ IPv4 140.108.128.0/17 có thể bao gồm các subnets 140.108.225.0/24. Điều này có nghĩa là bảng định tuyến có thể route đến tất cả các subnets nhưng thay vì có 128 địa chỉ subnet nằm trong bảng định tuyến, chỉ còn 1 dòng duy nhất tượng trưng cho tất cả các route. Để chỉ ra một subnet nhỏ hơn, các qui luật thông thường trong định tuyến vẫn được tuân theo và gói tin được gởi tới cho router quảng bá network 140.108.128.0/17. Router này trong bảng định tuyến của nó có nhiều thông tin chi tiết hơn, sẽ chuyển gói cho đến khi nó đến được network đích.

Trong IPv6, kiến trúc địa chỉ cho phép điều chỉnh tốt hơn dạng địa chỉ được dùng trong Internet. Địa chỉ thì rất dài và mỗi phần phục vụ một chức năng khác nhau. 48-bit đầu tiên của địa chỉ được dùng bởi IANA cho quá trình định tuyến động trong Interner để tạo ra các địa chỉ khả kết toàn cục. Ba bit đầu tiên được gán giá trị 001 để chỉ ra một địa chỉ toàn cục.
Bài 27:

Giới thiệu về WinPCap

Trong rất nhiều phần mềm ứng dụng mạng, các bạn hay gặp phần mềm WinPCap, đặc biệt trong quá trình cài đặt Dynamips/Dynagen. Bài viết dưới đây của Lệ Quyền sẽ cho ta một cái nhìn chi tiết về phần mềm WinPCap này.


----------------------------

1. Giới thiệu về Winpcap

Định nghĩa:

Winpcap là một thư viện mã nguồn mở cho việc bắt gói (captrure paket) và phân tích mạng, trên nền tảng (platform) win32. Winpcap hổ trợ những chức năng sau:

• Thu thập những gói dữ liệu thô, một là ngay trên chính máy đang chạy truyền dữ liệu đi và một là sự trao đôi bởi những máy khác trên môi trường chia sẻ.

• Lọc gói dữ liệu theo những luật của người dùng trước khi chúng được truyền tới ứng dụng

• Truyền những gói dữ liệu thô tới mạng

• Thu thập thông tin thống kê lưu lượng mạng

Một tập các tính năng này được được cung cấp, khi mà bạn cài đặc nó như là một trình điều khiển thiết bị (device driver), và nó được cài đặt bên trong phần hoạt động mạng của phần nhân win32 (win32 kernel) cùng với một cặp thư viện động DLL.

Loại chương trình sử dụng winpcap

Những chương trình mà dựa trên winpcap:

• Bộ máy phân tích mạng và giao thức


• Giám sát mạng
Traffic logger
• Traffic generator
• user-level bridges and routers
• Hệ thống phát hiện xâm nhập mạng NIDS
• Network scanner
• Công cụ bảo mật

Cấu trúc của wincap

Nó bao gồm ba thành phần chính: bộ lọc gói mức kernel, một thư viên packet.dll mức thấp, và một thư viện độc lập với hệ thống wpcap.dll mức cao.



Packet.dll:
cung cấp một API mức thấp (application program interface) truy xuất trực tiếp tới trình điểu khiển, độc lập với hệ điều hành microsoft. Sẽ cung cấp các chức năng sau:

• Cài đặt, khởi tạo và dừng trình điều khiển NPF (NPF device driver)


• Nhận gói từ trình điều khiển NPF
• Gởi gói đến trình điều khiển NPF
• Thu được một danh sách các card mạng
• Lấy lại thông tin khác nhau về mạng: miêu tả, danh sách địa chỉ, netmask
• Truy vấn và thiết lập các thông số cho một card điều hợp

Source code packet.dll. (nằm trong thư mục packet)

Wpcap:
cung cấp một tập các chức năng bắt gói mức cao mà nó tương thích với libpcap (dùng trên linux), mà nó hoạt động độc lập với phần cứng mạng và hệ điều hành. Source wpcap.dll (nằm trong thư mục wincap)

NPF (netgroup packet filter) device driver: mã nguồn nằm trong thư mục driver dành cho hệ điều hành NT

Hoạt động quan trọng nhất của NPF là capture gói. Bộ điều khiển phát hiện gói trên NIC và phần phối chúng nguyên vẹn đến ứng dụng người dùng.


Bài 28:

Chuyên đề wireless cho người mới bắt đầu: bài 1

Tài liệu này có thể dành cho những bạn chưa có kiến thức gì về lĩnh vực mạng không dây. Loạt bài viết được tham khảo chủ yếu từ sách Cisco Press Official Study Guide của môn CCNP Switching. Phần lab cho các vấn đề lý thuyết này có thể tham khảo trong CCLabPro Switching hoặc tập sách lab Wireless.



Cơ bản về Wireless LAN

Giới thiệu

Các hệ thống mạng switched Ethernet thường được dùng trong các mạng doanh nghiệp ngày nay. Các kết nối Ethernet thường được dùng từ thiết bị lớp lõi (core layer device), xuống đến lớp phân phối (distribution), xuống dần đến lớp truy cập (access layer). Theo truyền thống, các người dùng đầu cuối phải dùng dây mạng để kết nối vào hệ thống mạng campus. Tuy nhiên, công nghệ mạng không dây cho phép các thiết bị ở lớp access của mạng campus có thể mở rộng đến người dùng cuối mà không cần dùng dây. Với việc dùng các thiết bị mạng không dây, người dùng cuối có thể trở nên cơ động và có thể di chuyển dễ dàng mà không hề bị mất kết nối mạng.

Bài viết này sẽ giới thiệu một cái nhìn tổng quan về các công nghệ được dùng trong mạng không dây WLAN. Khi đã hiểu và quen thuộc với một vài lý thuyết cơ bản của mạng không dây, bạn sẽ có khả năng hiểu, thiết kế và dùng các thiết bị mạng không dây để mở rộng hệ thống mạng để kết nối với người dùng.

Cơ bản về mạng không dây

Bài viết này sẽ giới thiệu mạng không dây nội bộ WLAN từ góc nhìn thực tế. Tài liệu trình bày dựa trên những kiến thức bạn đã có trong các chủ đề về mạng chuyển mạch LAN trong khóa học ccnp switching. Sau cùng, mục tiêu của bài viết này giúp bạn có kiến thức đủ về wireless để có thể tích hợp công nghệ này vào mạng của bạn.



So sánh mạng có dây và mạng không dây

Một mạng không dây được tích hợp một cách chính xác vào mạng switched có dây như thế nào? Ngược lại, chức năng switching sẽ tích hợp vào mạng không dây như thế nào? Trước khi trả lời các câu hỏi này, bạn có thể cần so sánh hai công nghệ này với nhau.

Ở mức cơ bản nhất, mạng có dây thì sẽ dùng dây và mạng không dây sẽ không có dây. Điều này thoạt nghe có vẻ khôi hài, nhưng thật ra nó cho thấy một vài khác nhau cơ bản ở mức vật lý mà bài viết sẽ đề cập đến ở phần sau.

Mạng Ethernet truyền thống được định nghĩa bởi các chuẩn IEEE 802.3. Mọi kết nối Ethernet phải hoạt động trong tình trạng được kiểm soát nghiêm ngặt, đặc biệt đối với những cơ chế liên quan đến lớp vật lý. Ví dụ, các cơ chế về trạng thái kết nối, tốc độ kết nối và chế độ duplex phải hoạt động theo đúng chuẩn mô tả. Wireless LAN cũng phải có yêu cầu tương tự nhưng lại được định nghĩa trong 802.11.

Những thiết bị Ethernet dùng dây phải truyền và nhận các Ethernet frame theo phương thức Carrier Sense Multiple Access/Collision Detect (CSMA/CD). Theo đó, trên một phân đoạn mạng dùng chung, khi các máy PC truyền thông theo chế độ half duplex, từng PC có thể nói chuyện tự do với nhau trước, và sau đó bị xung đột hay còn gọi là đụng độ (collision) nếu các thiết bị khác cũng đang nói chuyện. Toàn bộ tiến trình phát hiện xung đột (collision) dựa trên việc các kết nối có dây có một chiều dài tối đa và có một độ trễ tối đa khi một frame đi từ một đầu của phân đoạn mạng này đến một đầu kia của phân đoạn. Khi hạ tầng mạng là dùng chung, bất kỳ một tín hiệu điện này cũng được truyền dẫn trên đường dây cũng có thể xung đột với một tín hiệu của một thiết bị khác. Khi hai hoặc nhiều Ethernet frame chồng lấp lên đường truyền ở một thời điểm nào đó, collision xảy ra. Collision sẽ dẫn đến các lỗi bit và mất frame (bit error).

Những kết nối Ethernet hoạt động theo chế độ full duplex sẽ không gặp phải vấn đề collision hay cạnh tranh nhau về băng thông. Mặc dù vậy, các kết nối này vẫn phải tuân thủ theo cùng một đặc tả. Ví dụ, những Ethernet frame vẫn phải truyền và nhận trong một khoảng thời gian trên một kết nối full duplex. Điều này sẽ áp đặt chiều dài của đoạn cáp dùng trong full duplex và half duplex phải là giống nhau.

Mặc dù các mạng WLAN cũng dựa trên một tập hợp các chuẩn khắt khe, chính yếu tố phương tiện truyền cũng là một thách thức. Nói chung, khi một PC kết nối đến một mạng có dây, PC đó sẽ chia sẻ kết nối mạng đó với một số lượng máy biết trước cũng kết nối vào mạng có dây đó. Khi cùng một PC dùng một mạng không dây, nó cũng chia sẻ tương tự, nhưng thông qua không khí. Trong mạng không dây, hạ tầng rõ ràng là không tồn tại các đoạn dây cáp mạng hay các ổ cắm mạng. Thật ra các người dùng mạng không dây wireless khác cũng toàn quyền sử dụng cùng không gian truyền chung đó.

Mạng wireless LAN sau đó trở thành một mạng dùng chung, trong đó có một số lượng máy cạnh tranh với nhau để dùng “không khí”, tức hạ tầng mạng ở mọi thời điểm. Vấn đề xung đột (collision) là một vấn đề muôn thửa trong lĩnh vực khộng dây bởi vì mọi thiết bị không dây đều trong chế độ half-duplex.

Mạng 802.11 luôn luôn hoạt động ở chế độ half duplex bởi vì các trạm truyền và nhận sử dụng cùng một tần số. Chỉ có một máy truyền ở một thời điểm, nếu không, sẽ có collision xảy ra. Để có thể trở thành full duplex, tất cả các máy phải truyền trong một tần số khác và sẽ nhận trong một tần số khác. Mặc dù điều này nghe có vẻ khả thi, chuẩn 802.11 không cho phép hoạt động ở chế độ full duplex.
Bài 29:

Tránh nghẽn trong mạng không dây WLAN

Khi hai hoặc nhiều trạm không dây cùng truyền ở một thời điểm, tín hiệu trở thành bị nhiễu. Máy trạm bên phía nhận chỉ có thể nhận kết quả như những dữ liệu rác, nhiễu hay bị lỗi. Thật ra, không có một cách thức rõ ràng để xác định là xung đột collision đã xảy ra. Ngay cả với máy truyền đang gây ra xung đột cũng không nhận ra, vì lúc đó phần nhận của nó phải tắt đi. Để có một cơ chế phản hồi hiệu quả, trong mạng không dây, bất cứ khi nào một trạm truyền đi một frame, bên trạm nhận phải gửi một frame ACK để xác nhận là frame đã được nhận chính xác, không bị lỗi.

Các frame ACK hoạt động như một công cụ cơ bản phát hiện xung đột, tuy nhiên, công cụ này không giúp ngăn ngừa xung đột xảy ra. Chuẩn 802.11 dùng một phương pháp gọi là Carrier Sense Multiple Access Collision Avoidance (CSMA/CA). Chú ý rằng mạng có dây 802.3 phát hiện (detect) xung đột, trong khi 802.11 cố gắng tránh (avoid) xung đột.

Tránh nghẽn hoạt động bằng cách yêu cầu tất cả các máy trạm lắng nghe trước khi nó truyền đi một frame. Khi một máy trạm có một frame cần phải truyền, một trong hai trạng thái sau có thể xảy ra:

- Không có thiết bị nào khác đang truyền: lúc này máy trạm có thể truyền frame đi ngay lập tức. Bên máy nhận dự kiến phải gửi một frame ACK để xác nhận rằng frame ban đầu đến đúng và không bị đụng độ.
- Có một thiết bị khác đang truyền một frame: lúc này máy của ta phải chờ cho đến khi nào frame đang truyền là hoàn tất, sau đó nó phải chờ một khoảng thời gian ngẫu nghiên trước khi có thể truyền frame của chính nó.

Các frame wireless có thể thay đổi về kích thước. Khi một frame được truyền, làm thế nào để các máy khác biết là frame đã được truyền hoàn tất và đường truyền (sóng vô tuyến) là rảnh cho các máy khác sử dụng? Rõ ràng, các máy trạm chỉ có thể lắng nghe trong yên lặng, nhưng nếu làm thế thì không phải luôn luôn là hiệu quả. Các máy trạm không dây khác có thể cũng lắng nghe và cũng có thể truyền ở cùng một thời điểm. Chuẩn 802.11 yêu cầu tất cả các máy trạm phải chờ một khoảng thời gian. Khoảng thời gian này được gọi là khoảng thời gian giữa các frame DCF (DCF interframe space). Sau khoảng thời gian này, các máy trạm mới có thể truyền.

Bên máy truyền có thể chỉ ra một khoảng thời gian dự kiến để gửi đi hết một frame bằng cách chỉ ra trong một trường của frame 802.11. Khoảng thời gian này chứa số timeslot (thường tính bằng đơn vị microseconds) cần thiết để truyền frame. Các máy trạm khác phải xem giá trị chứa trong header này và phải chờ khoảng thời gian đó trước khi truyền cho chính nó.

Bởi vì tất cả các frame phải chờ cùng một khoảng thời gian chỉ ra trong frame, tất cả các máy đó có thể sẽ quyết định cùng truyền khi khoảng thời gian đó trôi qua. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng xung đột, chính là một hiện tượng cần tránh.

Bên cạnh thông số thời gian nêu trên, các trạm không dây cũng phải triển khai một bộ định thời ngẫu nhiên. Trước khi truyền một frame, máy tính đó phải chọn một số ngẫu nhiên time slot phải chờ. Con số này sẽ nằm trong khoảng từ zero đến kích thước tối đa cửa sổ cạnh tranh. Ý tưởng cơ bản của cách làm này là khi một máy muốn truyền, mỗi máy sẽ chờ một khoảng thời gian ngẫu nhiên, giảm số trạm cố gắng truyền đồng thời cùng lúc.

Toàn bộ tiến trình này được gọi là chức năng phối hợp phân phối. Chức năng này được mô tả trong hình dưới đây. Ba người dùng wireless có cùng một frame phải truyền ở các khoảng thời gian khác nhau. Một chuỗi các sự kiện sau sẽ xảy ra:

1. Người dùng A lắng nghe và xác định rằng không có người dùng nào khác đang truyền. Người dùng A truyền frame của nó, đồng thời quảng bá khoảng thời gian để truyền frame.
2. Người dùng B cũng có frame để truyền. Anh ta phải chờ cho đến khi nào frame của người dùng A là hoàn tất, sau đó, phải chờ hết khoảng thời gian DIFS (thời gian phối hợp phân phối) hoàn tất.
3. Người dùng B phải chờ một khoàng thời gian ngẫu nhiên trước khi cố gắng truyền.
4. Khi người dùng B đang chờ, người dùng C có frame phải truyền. Anh ta lắng nghe và phát hiện rằng không có ai đang truyền. Người dùng C phải chờ một khoảng thời gian ngẫu nhiên. Khoàng thời gian này là ngắn hơn khoảng thời gian ngẫu nhiên của người dùng B.
5. Người dùng C truyền frame và quảng bá khoảng thời gian để truyền.
6. Người dùng B phải chờ khoảng thời gian truyền frame của người dùng C cộng với khảong thời gian giữa các frame DIFS trước khi cố gắng truyền lại một lần nữa.

__________________


Bài 30:

Các khối WLAN trong mạng campus

Ở mức độ cơ bản nhất, hạ tầng của mạng không dây không có một tổ chức nhất quán nếu so sánh với mạng có dây. Ví dụ, một máy PC với một card wireless có thể sẽ bật kết nối không dây của nó mọi lúc mọi nơi. Một điều tự nhiên là, để PC có thể truyền và nhận dữ liệu, một vài hoạt động phải diễn ra.

Trong các thuật ngữ của 802.11, một nhóm các thiết bị mạng không dây bất kỳ được gọi là một tập hợp các dịch vụ (service set). Các thiết thiết bị không dây phài có cùng tên tập hợp dịch vụ (service set identified SSID). Đây là một chuỗi được chứa trong mọi frame được gửi ra. Nếu SSID giữa thiết bị gửi và thiết bị nhận là giống nhau, hai thiết bị có thể giao tiếp với nhau.

Chuẩn 802.11 cho phép hai hoặc nhiều các thiết bị không dây giao tiếp trực tiếp với nhau mà không cần thêm bất kỳ phương tiện hay thiết bị nào khác. Mô hình mạng này được gọi là mô hình mạng ad-hoc, hoặc còn gọi là tập hợp các dịch vụ cơ bản độc lập (Independent Basic Service Set IBSS). Mô hình được mô tả trong hình vẽ bên dưới:



Không có một cách kiểm soát cố định với số thiết bị có thể truyền và nhận trên một hạ tầng không dây. Ngoài ra, có nhiều thông số có thể ảnh hưởng đến việc một máy trạm có thể truyền hoặc nhận đến các máy trạm khác. Điều này khiến cho việc tạo ra một kết nối tin cậy đến tất cả các trạm khác trở nên khó khăn.

Một tập hợp dịch vụ mức cơ bản BSS sẽ tập trung giải quyết vấn đề truy cập và vấn đề kiểm soát một nhóm các thiết bị mạng không dây bằng cách đặt một access point – AP là là một thiết bị đóng vai trò tập trung. Bất kỳ thiết bị không dây nào cố gắng dùng hạ tầng mạng đầu tiên phải sắp xếp trở thành thành viên của AP. Thiết bị AP có thể sẽ yêu cầu một trong những điều kiện sau, trước khi cho phép một máy trạm tham gia vào:

- SSID phải giống nhau.


- Một tốc độ truyền dữ liệu tương thích.
- Hoàn tất vấn đề xác thực.

Mối quan hệ của một client với một AP được gọi là một kết hợp (association). Máy client phải gửi một thông điệp có chứa yêu cầu kết hợp. Sau đó AP sẽ gán quyền hay từ chối yêu cầu trên bằng cách gửi ra một thông điệp trả lời. Khi đã được kết hợp thành công, tất cả các truyền thông vào/ra từ máy trạm phải thông qua AP. Hoạt động này minh họa ở hình B trong hình vẽ bên trên. Các máy trạm không còn có thể giao tiếp với nhau như trong mô hình adhoc trước đây nữa (còn gọi là mô hình IBSS).

Thiết bị AP không phải là một thiết bị hoàn toàn bị động giống như một Ethernet hub. Một AP quản lý mạng không dây của nó, quảng bá sự tồn tại của chính nó sao cho các máy trạm có thể kết hợp, sau đó AP sẽ kiểm soát tiến trình kết hợp này. Ví dụ, bạn hãy nhớ lại rằng mọi khung dữ liệu khi được gửi thành công thông qua kết nối không dây đều phải được nhận ACK. AP sau đó chịu trách nhiệm gửi ACK ngược về cho máy truyền.

Bạn cũng nên nhớ rằng, bất chấp trạng thái kết hợp là như thế nào, một máy trạm có khả năng lắng nghe hoặc nhận các frame được gửi thông qua hạ tầng không dây. Các frame thì “trôi nổi” trong không khí, và có thể truy cập bởi bất cứ thiết bị nào nằm trong dãy tần số cho phép để nhận chúng.

Bạn chú ý rằng mô hình tập hợp dịch vụ cơ bản BSS bao gồm một AP và không có một kết nối rõ ràng đến một mạng Ethernet thông thường. Nếu ta triển khai mô hình như trên, Access Point và các máy trạm của nó tạo thành một mạng cô lập.

Một AP cũng có thể kết nối uplink vào một hệ thống mạng Ethernet bởi vì trên AP có hỗ trợ các kết nối không dây và có dây. Nếu AP đặt trong các vị trí vật lý khác nhau, nó có thể dùng để kết nối vào hạ tầng mạng của doanh nghiệp. Mô hình kết nối này được gọi là mô hình dịch vụ mở rộng 802.11 Extended Service Set.

Trong mô hình ESS, một máy trạm chỉ có thể kết nối vào một AP khi máy đó ở gần AP đó. Nếu máy trạm sau đó di chuyển sang vị trí khác, nó có thể kết nối với các AP gần đó. Chuẩn 802.11 cũng định nghĩa một cách thức cho phép các máy trạm trung chuyển (roaming) từ AP này sang AP khác khi vị trí của máy trạm không dây thay đổi.
Bài 31:

Hoạt động của AP

Chức năng cơ bản của một AP là làm cầu nối (bridge) cho những dữ liệu mạng không dây từ không khí (môi trường sóng vô tuyến) vào mạng có dây bình thường. Một AP có thể chấp nhận những kết nối từ một số các máy trạm không dây sao cho nó có thể trở thành các thành viên bình thường của một mạng LAN dùng dây.

Một AP cũng có thể hoạt động như một cầu nối (bridge) để hình thành một kết nối không dây giữa một mạng LAN này và một mạng LAN khác trên một khoảng cách xa. Trong tình huống đó, ở mỗi đầu của kết nối không dây cần một access point. Kiểu kết nối này gọi là AP-to-AP hoặc kết nối line-of-sight, thường được dùng để kết nối giữa các tòa nhà.

Cisco cũng đã phát triển một loại AP có thể làm cầu nối cho các loại lưu lượng trong mạng không dây từ AP này sang AP kia, theo kiểu một chuỗi các cầu nối. Kiểu kết nối này cho phép một vùng không gian lớn có thể được bao phủ bởi mạng không dây. Các AP lúc này sẽ hình thành nên sơ đồ mess, rất giống với mô hình ESS, trong đó các AP kết nối liên hoàn với nhau thông qua các kết nối không dây khác.

AP hoạt động như một điểm truy cập trung tâm, kiểm soát các truy cập từ các máy trạm. Bất kỳ máy trạm nào khi cố gắng dùng WLAN thì trước hết phải thiết lập một kết nối với một AP. AP có thể cho phép kết nối theo dạng mở sao cho bất kỳ máy trạm nào cũng có thể kết hợp, hoặc có thể kiểm soát chặt chẽ hơn bằng cách yêu cầu xác thực, hoặc có thể dùng các tiêu chuẩn khác trước khi cho phép kết hợp.

Hoạt động của WLAN thì liên quan chặt chẽ đến quá trình phản hồi từ đầu bên kia của kết nối không dây. Ví dụ, các máy trạm phải bắt tay với AP trước khi nó có thể kết nối và sử dụng mạng không dây. Ở mức độ cơ bản nhất, yêu cầu này đảm bảo một kết nối hai chiều bởi vì cả máy trạm và AP đều có khả năng truyền và nhận frame thành công. Tiến trình này sẽ loại bỏ khả năng truyền thông một chiều, khi máy trạm chỉ có thể nghe AP nhưng AP thì không thể nghe máy trạm.

Ngoài ra, AP có thể kiểm soát nhiều khía cạnh của phạm vi mạng không dây của nó bằng cách yêu cầu một số điều kiện phải được đáp ứng trước khi máy trạm có thể kết nối vào. Ví dụ, AP có thể yêu cầu máy client hỗ trợ một tốc độ truyền dữ liệu cụ thể, đáp ứng các biện pháp bảo mật và các yêu cầu xác thực trong quá trình kết hợp.

Bạn có thể nghĩ một AP là một thiết bị bắt cầu, trong đó frame từ các phương tiện, hạ tầng khác nhau sẽ được chuyển đổi và chuyển đi ở lớp 2. Nói một cách đơn giản, một AP sẽ chịu trách nhiệm ánh xạ một vlan vào một SSID.



Trong phần bên trái của sơ đồ trên minh họa cho tình huống ta muốn mở rộng vlan 10 ra một AP, dùng một cổng của switch ở chế độ access. AP sau đó sẽ ánh xạ vlan 10 sang mạng wireless dùng SSID là “marketing”. Các người dùng kết hợp với SSID “marketting” sẽ được các máy khác xem như đang kết nối vào vlan 10.


Khái niệm này có thể được mở rộng để nhiều vlan được ánh xạ vào nhiều SSID. Để làm được điều này, AP phải kết nối đến switch thông qua kết nối trunk trong đó mang nhiều vlan. Trong phần bên phải của hình trên, vlan 10 và vlan 20 đều được trunk đến AP. AP dùng 802.1q để ràng buộc vlan với SSID. Ví dụ, vlan 10 được ánh xạ đến SSID “marketing” trong khi vlan 20 thì ánh xạ đến SSID “Engineering”.

Kết quả là, khi một AP dùng nhiều SSID, nó sẽ mang nhiều vlan thông qua sóng vô tuyến đến người dùng cuối. Người dùng cuối phải chọn SSID phù hợp đã được ánh xạ vào vlan tương ứng.


Bài 32:

Wireless LAN cells

Một AP có thể cung cấp kết nối WLAN đến các client chỉ trong tầm vực phát sóng của nó. Phạm vi tín hiệu có thể được định nghĩa một cách tương đối bởi loại ăn ten đang được dùng cho AP. Trong môi trường không khí, phạm vi này có thể là một hình cầu bao bọc xung quanh một ăn ten vô hướng. Ít nhất, phạm vi phủ sóng sẽ xuất hiện như một vòng tròn trên mặt bằng của sàn. Bạn cũng cần nhớ rằng, phạm vi phủ sóng là ba chiều, nghĩa là cũng ảnh hưởng đên các sàn bên trên và bên dưới, trong trường hợp bạn triển khai trong một toà nhà nhiều tầng.

Vị trí đặt AP phải được hoạch định kỹ lưỡng sao cho phạm vi phủ sóng đạt được mức cần thiết. Mặc dù bạn thiết kế vị trí đặt AP theo một sơ đồ nào đó, hoạt động thật sự của wireless lan sẽ luôn hoạt động trong tình trạng thay đổi. Điều đó là do mặc dù vị trí của AP là cố định, các máy trạm không dây có thể thay đổi vị trí thường xuyên.

Vấn đề di chuyển của các máy trạm có thể làm cho phạm vi phủ sóng của AP trở nên khó khăn hơn dự kiến. Các máy trạm có thể di chuyển vòng quanh và phía sau những vật cản trong một phòng, phía sau tường, cửa…trong một tòa nhà. Giải pháp tốt nhất để thiết kế vị trí đặt AP và phạm vi phủ sóng là thực hiện một site survey - khảo sát mạng. Trong tiến trình site survey, một AP dùng để kiểm tra sẽ được đặt ở vị trí mong muốn hoặc dự kiến, trong khi một máy trạm không dây sẽ di chuyển xung quanh để đo chất lượng và độ mạnh của tín hiệu. Ý tưởng là thử nghiệm AP bằng chính môi trường thật, với những vật cản thật. Những vật cản thật này có thể gây ảnh hưởng lên hoạt động của máy client.

Phạm vi phủ sóng của một AP được gọi là một cell. Các client trong một cell có thể kết hợp với AP và sau đó truy cập mạng wlan. Khái niệm trên được mô tả trong hình dưới đây. Một máy ra khỏi cell bởi vì nó ra ngoài tầm tín hiệu của AP.


Giả sử một AP loại dùng trong nhà có bán kính phủ sóng là 100 feet, bao phủ vài phòng hay một phần của hành lang. Máy client có thể di chuyển thoải mái bên trong phạm vi (cell) đó và truy cập mạng không dây từ bất kỳ vị trí nào. Tuy nhiên, chỉ có một vùng phủ sóng thì hơi bị hạn chế bởi vì các máy trạm có thể hoạt động trong những phòng lân cận hoặc trên những tầng lầu khác. Các máy này dĩ nhiên không muốn mất kết nối khi đang ở những vị trí khác nhau.

Để mở rộng toàn bộ vùng phủ sóng của WLAN, các cell khác có thể che phủ các phòng lân cận bằng cách đặt thêm các AP trong toàn bộ khu vực tòa nhà. Ý tưởng là ta sẽ đặt AP sao cho các cell có thể bao phủ mọi vùng mà một máy client có thể đặt ở vị trí đó. Thật ra, các cell nên có những vùng chồng lấp lên nhau theo một tỉ lệ phần trăm nhỏ, như trong hình vẽ dưới đây:

Khi các cell là chồng lấp lên nhau, các AP láng giềng không thể dùng cùng tần số.


Nếu hai AP láng giềng sử dụng cùng một tần số, tự nó sẽ gây nhiễu lẫn nhau. Thay vào đó, các tần số được dùng trên các AP láng giềng phải không trùng lắp hoặc phải lệch nhau cho toàn khu vực.

Khi một máy trạm đã kết nối đến một AP, nó có thể tự do di chuyển xung quanh. Khi một máy trạm di chuyển từ một cell của AP sang một cell khác, kết nối cũng sẽ được chuyển từ AP sang AP khác. Việc di chuyển từ một AP sang một AP khác được gọi là chuyển vùng (roaming).

Sự chuyển động này được mô tả trong hình vẽ bên dưới. Khi máy trạm di chuyển dọc theo con đường, nó đi qua vùng phủ sóng của vài AP. Khi một máy trạm di chuyển từ một AP sang một AP khác, nó phải thiết lập lại kết nối với AP mới. Ngoài ra, các dữ liệu mà một máy trạm đang gửi trước khi ở trong trạng thái roaming cũng sẽ được tạm trung chuyển từ AP cũ sang AP mới. Theo cách này, bất kỳ máy trạm không dây nào khi thực hiện kết nối thì chỉ thông qua một AP ở một thời điểm. Điều này cũng giảm thiểu khả năng mất dữ liệu đang gửi hoặc đang nhận khi quá trình roaming diễn ra.

Khi bạn thiết kế một mạng không dây, bạn có thể cố gắng bao phủ một vùng lớn nhất có thể cho một AP. Bạn có thể cấu hình AP ở công suất phát tối đa của nó. Nếu làm như vậy, có thể bạn sẽ giảm số lượng AP cần thiết để bao phủ một vùng. Và vì vậy, sẽ giảm chi phí tổng thể. Tuy nhiên, bạn cũng nên xem xét một số yếu tố bất lợi khác nếu làm như trên.

Khi một AP được cấu hình để bao phủ một vùng rộng lớn, nó cũng tiềm tàng một khả năng là có quá nhiều máy kết nối vào. Tuy nhiên, bạn cần nhớ rằng một cell thì chỉ là một môi trường dùng chung mà tất cả các máy đều phải chia sẻ theo chế độ bán song công (half duplex). Khi số lượng máy trạm kết nối vào tăng lên, tổng số băng thông và thời gian cho mỗi máy sẽ giảm xuống.

Thay vào đó, hãy xem xét việc giảm kích thước của cell (bằng cách giảm công suất phát) sao cho chỉ có những máy trạm trong khoảng cách đủ gần có thể kết nối và dùng băng thông. Lúc này, AP cũng có thể giúp kiểm soát số lượng máy trạm đang kết nối ở một thời điểm bất kỳ nào đó. Điều này trở nên quan trọng cho các ứng dụng đòi hỏi băng thông cao hay thời gian đáp ứng thấp như voice, video hay các phần mềm y tế.

Khi kích thước của cell là giảm nhỏ, nó được gọi là microcells. Khái niệm này có thể được mở rộng trong những môi trường cần kiểm soát cao như các sàn chứng khoán. Trong những trường hợp này, công suất phát của AP và kích thước cell đựơc giảm thiểu, lúc này các cell được gọi là picocell.
Bài 33:



tải về 0.82 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương