Point to Point Protocol (ppp) ppp được xây dựng dựa trên nền tảng giao thức điều khiển truyền dữ liệu lớp cao (High-Level Data link Control (hdlc)) nó định ra các chuẩn cho việc truyền dữ liệu các giao diện dte và dce của mạng wan như V



tải về 0.82 Mb.
trang5/14
Chuyển đổi dữ liệu23.07.2016
Kích0.82 Mb.
#2201
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

Collision domain


Miền đụng độ và bộ đệm chuyển mạch

Một miền đụng độ (Collision domain) là một tập hợp các thiết bị có thể gửi các khung tin mà các khung tin này có thể bị đụng độ với các khung tin của một thiết bị khác. Trước khi switch được phát minh, Ethernet thường dùng hub hoặc các đoạn cáp dùng chung như 10Base2 và 10Base5. Switch trong công nghệ Ethernet giúp giảm khả năng đụng độ thông qua quá trình lưu các khung tin trong bộ đệm và cơ chế hoạt động ở lớp 2 của nó.

 

Theo định nghĩa, Hub trong công nghệ Ethernet sẽ bao gồm các đặc điểm sau:



• Hoạt động chỉ ở lớp 1 của mô hình tham chiếu OSI.

• Khuyếch đại, tái tạo tín hiệu điện để nâng chiều dài đường truyền.




Hình 1.4: Miền đụng độ (Collision Domain)

• Chuyển tín hiệu nhận được trên một cổng ra tất cả những cổng khác ngoại trừ cổng nhận vào, và không có bộ đệm.

• Như vậy hub sẽ tạo ra một miền đụng độ. Ngược lại, switch sẽ giới hạn miền đụng độ trên từng cổng của nó.

Switch cũng dùng cùng loại cáp và khuếch đại tín hiệu giống như hub, nhưng switch làm nhiều việc hơn. Đụng độ sẽ giảm thiểu do các khung tin được đệm, khi switch nhận được các khung tin trên các cổng khác nhau, switch lưu khung tin trong các bộ nhớ đệm để ngăn ngừa xung đột. Ví dụ, giả sử một switch nhận ba khung tin ở cùng một thời điểm đi vào ba cổng khác nhau và nó phải được đưa ra cùng một cổng của switch. Lúc này switch sẽ lưu hai khung tin trong bộ nhớ, và chuyển các khung tin đó đi một cách tuần tự. Khi một cổng của switch kết nối đến một thiết bị không phải là HUB, đụng độ sẽ không thể xảy ra. Thiết bị duy nhất có thể tạo ra đụng độ là bản thân cổng switch và một thiết bị kết nối vào nó và nếu mỗi bên có một cặp cáp riêng để truyền. Vì đụng độ không thể xảy ra, những phân đoạn mạng trên có thể sử dụng chế độ song công.

Bài 14:


Các phương thức chống loop của RIP

Hội tụ (Convergence) và chống loop

 

Phần quan trọng nhất và cũng phức tạp nhất của RIP nằm ở những phương thức chống loop. Giống như những giao thức định tuyến distance vector khác, RIP sử dụng kết hợp những công cụ chống loop khác nhau, nhưng đáng tiếc rằng những công cụ này cũng làm tăng thời gian hội tụ (convergence) một cách đáng kể. Sự thật, đó là một hạn chế rất lớn của RIP (kể cả RIPv2). Bảng 8.3 tổng hợp những tính năng và phương thức liên quan đến sự hội tụ và chống loop của RIP.



 

Bảng 8.3:

Tính năng

Mô tả

Split horizon

Thay vì quảng bá tất cả các route ra một interface, RIP không quảng bá những route mà router học được từ interface này.

Triggered update

Router sẽ gửi một update mới ngay khi thông tin định tuyến bị thay đổi, thay vì phải chờ hết thời gian update time. Trigger update còn có tên gọi khác là flash update. Khi một giá trị metric thay đổi tốt hơn hoặc kém hơn, router ngay lập tức sẽ gửi ra một thông điệp cập nhật mà không cần chờ cho khoảng thời gian update timers bị hết. Quá trình tái hội tụ diễn ra nhanh hơn so với trường hợp phải chờ những khoảng thời gian cập nhật định kỳ. Các thông điệp cập nhật định kỳ vẫn diễn ra cùng với các thông điệp trigger update. Như vậy một router có thể nhận một thông tin kém về một route từ một router chưa hội tụ sau khi đã nhận một thông tin chính xác từ một trigger update. Tình huống này xảy ra và các lỗi định tuyến vẫn có thể xảy ra trong quá trình tái hội tụ.

Một sự hiệu chỉnh xa hơn nữa là trong thông điệp cập nhật, chỉ bao gồm các địa chỉ mạng làm cho việc trigger xảy ra. Kỹ thuật này làm giảm thời gian xử lý và giảm ảnh hưởng đến băng thông.



Route poisoning

khi route bị lỗi, router sẽ gửi update về route đó đi với infinity-metric (hop count = 16).

Poison reverse

Router nhận được quảng bá về một poisoned route (metric 16) trên một interface, router sẽ hồi đáp lại thông điệp poison reverse trên cùng interface đó.

Update timer

Qua mỗi khoảng thời gian update timer, router sẽ gửi update một lần qua một interface, mỗi interface có một update timer riêng, mặc định trên tất cả interface là 30 giây.

Holddown timer

Đối với mỗi route đến một subnet trong bảng định tuyến, nếu như metric của route thay đổi đến một giá trị lớn hơn, thời gian holddown timer sẽ bắt đầu. Trong khoảng thời gian này (mặc định là 180 giây) router sẽ không cập nhật route nào khác đến subnet đó trong bảng định tuyến cho đến khi thời gian holddown timer kết thúc.

Trigger update sẽ làm tăng khả năng đáp ứng một hệ thống mạng đang hội tụ. Holddown timers sẽ giúp kiểm soát các thông tin định tuyến xấu.

Nếu khoảng cách đến một mạng đích tăng (ví dụ số hop count tăng từ hai lên bốn), router sẽ gán một giá trị thời gian cho route đó. Cho đến khi nào thời gian hết hạn, router sẽ không chấp nhận bất kỳ cập nhật nào cho route đó.  

Rõ ràng có một sự đánh đổi ở đây. Khả năng các thông tin định tuyến kém bị đưa vào bảng định tuyến là giảm nhưng bù lại thời gian hội tụ sẽ tăng lên. Nếu thời gian holdown là quá ngắn, nó sẽ không hiệu quả. Nếu khoảng thời gian là quá dài, quá trình định tuyến thông thường sẽ bị ảnh hưởng.



Invalid timer

Đối với mỗi route tồn tại trong bảng định tuyến, thời gian invalid timer sẽ tăng cho đến khi router nhận được update thông báo về route đó. Nếu như nhận được update, thời gian invalid sẽ được đặt về 0. Nếu như router không nhận được update, mà thời gian invalid đã hết (mặc định là 180 giây), route đó được xem như là không dùng được.

Flush (Garbage) timer

 


Thời gian flush timer mặc định là 240 giây, cũng giống như thời gian invalid timer, tuy nhiên thời gian flush timer mặc định sẽ tăng thêm 60 nữa, trong thời gian này nếu không nhân được update về route, router sẽ loại route đó ra khỏi bảng định tuyến.

Bài 15:

Tắt Frame Relay InARP

Tắt InARP

 

Trong hầu hết những mô hình mạng được đưa ra, việc sử dụng InARP là hợp lý. Tuy nhiên, ta có thể tắt InARP trên interface vật lý hay multipoint interface đi bằng cách sử dụng lệnh no frame-relay inverse-arp trên interface subcommand. Có thể ngừng hoạt động InARP trên tất cả các VC của interface/subinterface, tất cả các VC của interface/subinterface ứng với một giao thức L3 riêng biệt, hay đơn thuần là trên mỗi DLCI cụ thể.



 

Câu lệnh no frame-relay inverse-arp không chỉ làm cho router ngừng việc gửi thông điệp InARP ra ngoài, mà còn làm cho router không nhận thông điệp InARP. Lấy ví dụ, câu lệnh no frame-relay inverse-arp ip 400 ở mode subinterface trên Router R1 trong ví dụ 1.2 không chỉ ngăn R1 ngừng gửi thông điệp InARP ra DLCI400 tới R4 mà còn làm cho R1 bỏ đi thông điệp InARP đã nhận trên DLCI400.

 

Bảng 1.2 : Tổng hợp một số đặc tính chi tiết về Frame Relay Inverse ARP trên IOS

Cách cư xử trên mỗi kiểu interface riêng bịệt

Interface Point-to-point

Interface multipoint hoặc interface vật lý

InARP có đòi hỏi LMI không ?

Luôn luôn

Luôn luôn

InARP được kích hoạt một cách măc định ?

Đúng

Đúng

Có thể tắt hoạt động của InARP không ?



Không

Có thể bỏ qua thông điệp InARP đã nhận hay không

Luôn luôn (*)

Khi InARP bị tắt đi

 

(*) Interface point-to-point luôn luôn bỏ qua thông điệp InARP, bởi vì đối với point-to-point interface, chỉ dùng một số DLCI để gửi đến tất cả địa chỉ trong cùng một subnet.

Bài 16:



tải về 0.82 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương