PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1


Bảng 1: Nguồn vốn huy động, và Dư nợ cho vay của NHNN&PTNT



tải về 187.14 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích187.14 Kb.
#33088
1   2   3

Bảng 1: Nguồn vốn huy động, và Dư nợ cho vay của NHNN&PTNT,

tính đến cuối năm 2001




Vốn huy động

Dư nợ cho vay

Vùng lãnh thổ

Số lượng, tỉ đồng

Tỉ lệ

Số lượng, tỉ đồng

Tỉ lệ

Trung du & miền núi phía Bắc

7.852

11,7%

6.065

10,1%

Đồng bằng Bắc bộ

29.780

44,3%

14.690

24,5%

Khu bốn cũ

4.284

6,4%

4.420

7,4%

Duyên hải miền Trung

5.750

8,5%

6.060

10,1%

Tây Nguyên

2.332

3,5%

4.520

7,5%

Miền Đông Nam bộ

11.583

17,2%

10.267

17,1%

Đồng bằng sông Cửu Long

5.714

8,5%

13.999

23,3%

Tổng cộng

67.295

100%

60.021

100%

Nguồn: Lê Văn Sở (2002).

  • Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHPVNN) là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào tháng 8 năm 1995. Mục tiêu chính của ngân hàng là phục vụ chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Tất cả những chương trình cho vay chống nghèo đói đều tập trung qua ngân hàng này. NHPVNN bắt đầu hoạt động vào ngày 1/1/1996. Ngân hàng không thiết lập hệ thống của riêng mình trên toàn quốc, mà sử dụng mạng lưới chi nhánh và cán bộ của NHNN&PTNT.7 NHPVNN không huy động tiết kiệm, mà chủ yếu dựa vào chính phủ và các ngân hàng quốc doanh để có nguồn vốn cho vay.

NHPVNN tham gia giảm nghèo đói bằng cách cấp tín dụng cho những ai không đủ điều kiện vay từ NHNN&PTNT do không có tài sản thế chấp. Do vậy, chỉ những hộ gia đình nào là thành viên của nhóm chịu trách nhiệm chung (cũng do các tổ chức quần chúng hỗ trợ hình thành) mới được vay.8 Các hộ muốn vay cũng phải nằm trong diện nghèo theo tiêu chuẩn Việt Nam.9 Kỳ hạn vay tối đa là 36 tháng, và mức vay tối đa là 2,5 triệu đồng. Lãi vay là lãi suất ưu đãi do NHNN ấn định ở mức 0,7% / tháng. Trong đó, tổ chức xã hội ở địa phương giữ 0,1% cho chi phí giám sát; NHNN&PTNT giữ 0,25% cho chi phí hành chính; và NHPVNN giữ 0,35 để trang trải chi phí vốn. Tính đến cuối năm 1999, NHPVNN đã cấp tín dụng cho hơn 2,3 triệu hộ nghèo với tổng dư nợ 3.879 tỉ đồng.

Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) bắt đầu từ một chương trình thí điểm chịu sự giám sát của NHNN vào tháng 7/1993, là hình thức hợp tác xã tiết kiệm và tín dụng cấp xã xây dựng theo mô hình Caisse Populaire ở Quebec, Canada. Khi đó, một trong những mục tiêu quan trọng của NHNN là khôi phục lòng tin của người dân đối với hệ thống tín dụng nông thôn sau sự sụp đổ của hàng loạt hợp tác xã tín dụng.10

Tuy mang tên mới, QTDND vẫn hoạt động theo luật hợp tác xã. Theo đó, QTDND chỉ cho xã viên vay, dù nhận tiền gửi của cả xã viên lẫn những người không phải xã viên. Tuy các khoản vay nhỏ không cần thế chấp, các khoản vay lớn vẫn cần phải thế chấp bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay tài sản khác. Kỳ hạn cho vay thường dưới 12 tháng. Lãi suất vay (khoảng 1,5% tháng) và lãi suất tiền gửi (0,9%) do NHNN ấn định, và thường cao hơn lãi suất của NHNN&PTNN và NHPVNN.



Hệ thống QTDND có ba cấp: quỹ tín dụng địa phương, quỹ tín dụng vùng, và quỹ tín dụng trung ương. Tính đến cuối năm 1999, có 981 QTDND ở các cấp xã, vùng và trung ương, với khoảng 630.000 xã viên.11 Theo Dao & Hotte (1998), QTDND tương đối thành công trong việc huy động tiết kiệm do những nguyên nhân như sau: (1) gần với khách hàng nên dễ gởi tiền và rút tiền; (2) lãi suất tiền gửi cao hơn (từ 0,5% đến 0,7% / tháng) so với các tổ chức tín dụng khác; (3) phương pháp huy động tiết kiệm đa dạng và điều chỉnh theo nhu cầu khách hàng; và (4) có bảo hiểm đối với những khoản tiền gửi có kỳ hạn trên 3 tháng.12

  • Ngân hàng cổ phần nông thôn hình thành từ việc sắp xếp lại hoặc sáp nhập các hợp tác xã tín dụng. Tuy đạt một số kết quả khả quan với những chương trình cho phụ nữ vay (phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ) với tỉ lệ trả nợ đến 98,3%, các ngân hàng cổ phần vẫn còn hạn chế về phạm vi phục vụ hộ nghèo ở nông thôn. Các ngân hàng này tập trung cho vay đối với những nông hộ và người buôn bán trong địa phương phục vụ. Mức cho vay thường thấp, từ 1 đến 3 triệu, và cho các mục đích ngắn hạn như mua hạt giống, phân bón và thuốc trừ sâu. Lãi vay thường cao hơn 0,5% - 1% so với lãi suất của NHNN&PTNT. Tất cả các ngân hàng này đều yêu cầu phải có thế chấp mới được vay. Một trong những hạn chế của những ngân hàng này là thiếu vốn trầm trọng, và rất thiếu tính thanh khoản. Một vấn đề khác là những ngân hàng này phải chịu mức trần lãi suất tiền gửi do NHNN ấn định, do vậy còn hạn chế về khả năng huy động tiết kiệm.


Biểu 3: Dư nợ của hệ thống ngân hàng đối với nông nghiệp - nông thôn (tính đến 30/6/2001)



Nguồn: Nguyễn Đức Hoàn (2001)


      1. Khu vực tài chính bán chính thức:

  • Với mạng lưới trải rộng cả bốn cấp hành chính (trung ương, tỉnh thành, quận huyện, và phường xã), các tổ chức quần chúng đóng vai trò đặc biệt trong việc đem tín dụng đến tận người dân ở cơ sở. Các tổ chức này hỗ trợ chính phủ trong việc cho vay theo những chương trình của nhà nước, ví dụ như Chương trình quốc gia về Xóa đói giảm nghèo, Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, Chương trình giải quyết việc làm. Ngoài ra, các tổ chức này được xem là “người môi giới” giữa NHNN&PTNT / NHPVNN và người đi vay. Họ cũng hỗ trợ ủy ban nhân dân địa phương thành lập những nhóm cùng chịu trách nhiệm để bảo lãnh cho các khoản vay ở cấp xã. Để đổi lại dịch vụ này, các tổ chức quần chúng nhận hoa hồng từ NHNN&PTNT / NHPVNN.

Những tổ chức quần chúng tham gia tích cực vào hoạt động tiết kiệm và tín dụng là Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Cựu chiến binh và Hội Người làm vườn. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ được xem là thành công nhất trong việc đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính của các hội viên.13 Tuy chủ yếu dựa vào nguồn quỹ của chính phủ, nhưng với vai trò trung gian xã hội của mình, các tổ chức quần chúng có năng lực lớn trong phát triển cộng đồng, và nhờ đó góp phần lớn vào phát triển tài chính vi mô. Kinh nghiệm hoạt động của các nhóm tiết kiệm và tín dụng cho thấy một kết luận rất quan trọng: người nghèo là những khách hàng tốt, coi trọng những dịch vụ tiết kiệm và tín dụng do các tổ chức bán chính thức cung cấp, được thể hiện rõ bằng tỉ lệ trả nợ cao và động lực tiết kiệm cao.

  • Từ đầu thập niên 1990, các tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài14 đã bắt đầu tham gia hỗ trợ kỹ thuật cho các chương trình tín dụng cho người nghèo. Trong đó đáng kể là các tổ chức Groupe de Recherche et d’Echanges Technologiques (GRET), ActionAid, Développement International Des Jardins (CARE), Save The Children Fund (Anh), và OXFAM. Họ tham gia tích cực vào việc huy động tiết kiệm, cũng như đào tạo năng lực cho các nhóm tiết kiệm tín dụng, và các tổ chức quần chúng. Cũng cần lưu ý rằng một số NGO dùng chương trình tiết kiệm và tín dụng làm “chìa khóa mở cửa” để thâm nhập vào các làng xã để thực hiện những hoạt động chính của họ, ví dụ như y tế, kế hoạch hóa gia đình …Khách hàng của các NGO là phụ nữ nghèo, cộng đồng dân tộc thiểu số, và người nghèo ở vùng sâu vùng xa; thường là những đối tượng mà khu vực tài chính chính thức chưa đủ khả năng tiếp cận để phục vụ.

Bảng 2: Một số chương trình tín dụng lớn của các NGO

Tên tổ chức

Quy mô trung bình của nhóm tín dụng (người) 2000

Dư nợ

cho vay (triệu đồng) 2000

Lãi suất

cho vay

hàng tháng (%)

2000

Số dư

tiết kiệm (triệu đồng) 2000

Lãi suất tiền gửi hàng tháng (%) 2000

Số tỉnh thành phục vụ

Ngân hàng Rado

60

82.291

0,7

11.930



8

Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW2)

18

51.538

Lãi suất thị trường





3

IFAD

12

41.193

1,0

32



1

UNFPA

17

25.808



745



8

UNICEF

13

14.565

1,0

6.402

0,5 – 1,0

22

Save The Children (Anh)

5

11.435

2,0

2.799

1,4

1

American Oxfam

5

10.005

1,0

3.643

0,5

5

Chương trình phát triển nông nghiệp miền núi Việt Nam - Thụy Điển

40

10.000

1,0



0,2 – 0,6

5

Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW1)

15

7.988

1,2





1

Nguồn: McCarty (2001).

Các NGO đã đạt được thành công nhất định trong hoạt động tài chính ở cơ sở có tỉ lệ trả nợ cao và mức tăng trưởng tiết kiệm. Ưu điểm của các NGO này là có lãi suất cao hơn so với những tổ chức tài chính được chính phủ quản lý, do đó, có mức chênh lệch lãi suất cao hơn, và mở rộng được phạm vi phục vụ tới nhiều khách hàng mục tiêu hơn. Tuy nhiên, tầm hoạt động của các NGO vẫn chưa lớn lắm. Theo khảo sát của McCarty (2001), tính đến năm 2000, dư nợ cho vay của các chương trình tín dụng của các NGO chỉ mới tương đương với 7,6% con số của các chương trình chính thức của nhà nước, và 4% của toàn bộ tín dụng nông thôn (nếu tính luôn cả khu vực phi chính thức).



      1. Khu vực tài chính phi chính thức:

Khu vực tài chính phi chính thức chiếm một mảng lớn trong tín dụng nông thôn ở Việt Nam, cung cấp đến 51% lượng vốn cho vay đối với các hộ gia đình nông thôn. Tín dụng nông thôn của khu vực phi chính thức xuất phát từ những nguồn như sau.
Biểu 4: Trị giá trung bình một khoản vay của hộ chia theo khu vực (Đơn vị tính: 1.000 đồng)



Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998.

  • Vay mượn từ gia đình, bà con, bạn bè và láng giềng. Thông thường, tiền mượn từ gia đình và thân nhân không phải trả lãi, nhờ tập quán xã hội Việt Nam khuyến khích việc giúp đỡ nhau. Các khoản vay từ bạn bè hay láng giềng sẽ có lãi suất thỏa thuận tùy theo quan hệ xã hội, uy tín của người vay, kỳ hạn vay. Lãi suất hàng năm có thể xê dịch rất lớn, từ không tính lãi đến lãi hơn 100%.

  • Người cho vay lãi. Những người cho vay lãi có hoạt động rất đa dạng và linh hoạt. Họ thường cho vay những món tiền nhỏ và ngắn hạn (theo thời vụ hay theo ngày). Lãi suất cho vay dựa vào thị trường, thường xê dịch từ 3% đến 10% / tháng. Có thể chia người cho vay lãi thành ba loại chính. Một là loại cho vay lãi truyền thống, chủ yếu do tin tưởng lẫn nhau, với các bước giao dịch rất gọn nhẹ, không cần thỏa thuận hợp đồng thành văn. Kiểu truyền thống này cho vay “nóng”, đôi khi chỉ vài ngày. Hai là kiểu cho vay đòi hỏi phải có cầm cố thế chấp; tương tự như loại một nhưng người đi vay phải thế chấp tài sản hay đất đai. Ba là hình thức cho vay lãi thông qua những nhà buôn nhỏ, bạn hàng, đầu mối cung cấp nguyên vật liệu … Hình thức này ngày càng phổ biến, có thể cho vay bằng tiền mặt hay hiện vật.

  • Họ/Hụi đã có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Miền Bắc gọi là họ, miền Nam gọi là hụi. Mỗi hội họ/hụi thường có từ 5 đến 20 hội viên ở chung một ấp / thôn, và mỗi hội như vậy hoạt động độc lập. Mỗi hội huy động tiết kiệm từ các hội viên và chỉ cho vay trong hội với nhau. Các vấn đề như lãi suất, mức cho vay sẽ do các hội viên quyết định thông qua bỏ phiếu kín (dạng đấu giá), hoặc do hội trưởng định đoạt trong những cuộc họp định kỳ. Chu kỳ của một hội kết thúc khi tất cả mọi hội viên đã một lần nhận được tổng số tiền huy động được tại mỗi lượt. Nhìn chung, các hộ gia đình tham gia họ/hụi để giải quyết những nhu cầu tài chính ngắn hạn, nhưng cũng có những hội được lập để đáp ứng nhu cầu đầu tư dài hạn, ví dụ có hội kéo dài được mấy vụ mùa.

Có mấy lý do giải thích tại sao khu vực phi chính thức vẫn còn là nguồn tín dụng quan trọng đối với các nông hộ. Thứ nhất, cầu vượt cung tín dụng chính thức: các ngân hàng quốc doanh và tư nhân cũng như các chương trình tín dụng chính thức chưa đủ khả năng đáp ứng hết các nhu cầu vay vốn rất cụ thể của các nông hộ. Thứ hai, các cơ chế cho vay của các tổ chức chính thức vẫn còn nhiều ràng buộc khiến cho những đối tượng nghèo nhất không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức. Do vậy, có thể một phần của tín dụng chính thức đến với người đi vay cuối cùng lại qua con đường phi chính thức: những người có thể vay được từ các tổ chức chính thức sẽ đem số tiền đó cho những người “kém may mắn hơn” vay lại với lãi suất cao hơn. Thứ ba (đây cũng là lý do thường thấy qua kinh nghiệm các nước khác), trình độ dân trí ở nông thôn còn thấp, nhất là ở những vùng sâu vùng xa, nên người dân còn tâm lý “sợ giao dịch với ngân hàng”, trong khi đó một số tổ chức tín dụng chính thức vẫn chưa tìm ra cách thích hợp để đem vốn đến với nông hộ.

Mảng tín dụng nông thôn phi chính thức này có hai đặc điểm chính. Thứ nhất, tất cả những nguồn vốn đều huy động ngay tại địa phương. Do vậy, về lâu dài, khả năng tích lũy vốn bị hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất và tiêu dùng của người dân. Thứ hai, lãi suất của khu vực phi chính thức thường cao hơn mức lạm phát, và có lãi suất thực dương. Lãi suất của thị trường “ngầm” này cũng cao hơn nhiều so với lãi suất của hệ thống tài chính chính thức, nhưng vẫn được khách hàng chấp thuận. Điều đó chứng tỏ rằng đối với các nông dân và những người hoạt động kinh doanh ở nông thôn, việc vay được vốn dễ dàng và kịp thời, cũng như chất lượng của dịch vụ có ý nghĩa quan trọng hơn so với mức lãi vay. Khi nền kinh tế nông thôn phát triển mạnh, sẽ cần có nhiều khoản đầu tư quy mô lớn và dài hạn hơn, do các nông hộ và doanh nghiệp nông thôn chuyển đổi cơ cấu và phát triển sản xuất. Bước chuyển biến kinh tế này đòi hỏi phải có một hệ thống tài chính chính thức phát triển mạnh hơn.



    1. Một số gợi ý giải quyết những vấn đề tồn đọng

  • Xác định đúng hình thức can thiệp của chính phủ. Do thị trường tín dụng nông thôn còn nhiều méo mó, nên chính phủ vẫn có vai trò nhất định để tham gia chỉnh sửa những thất bại đó. Ví dụ, chính phủ cần can thiệp trực tiếp trong những trường hợp đặc biệt như khắc phục hậu quả thiên tai, hay tiến hành các chương trình ưu tiên phục vụ vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, can thiệp của chính phủ không nhất thiết là phải cung cấp tín dụng với số lượng nhiều và giá rẻ. Có thể can thiệp bằng nhiều hình thức khác; ví dụ như cung cấp vốn, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp (ví dụ các chương trình thủy lợi, kiên cố hóa kênh mương nội đồng), thực hiện các chương trình thí điểm rồi từ đó nhân rộng ra, đào tạo cán bộ cho các tổ chức tín dụng, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động ở vùng khó khăn … Những biện pháp can thiệp theo cách tiếp cận cũ như áp đặt lãi suất hay tỉ lệ dữ trữ bắt buộc quá cao có tác động bóp nghẹt sự tăng trưởng của các tổ chức tín dụng, và cản trở bước phát triển của thị trường tín dụng nông thôn.

  • Tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức. Nếu khai thác và phối hợp được thế mạnh của hai khu vực này sẽ đảm bảo có được nhiều dòng tín dụng và có chất lượng cao hơn cho người dân nông thôn, nhất là người nghèo. Như đã nêu trên, khu vực chính thức có nguồn vốn dồi dào hơn và có thể cho vay với lãi suất thấp; còn khu vực phi chính thức có cơ chế hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy. Nhiều chương trình tín dụng nông thôn trên thế giới đã thành công nhờ biết phối hợp cả hai khu vực trong việc cung cấp dịch vụ tài chính cho nông thôn.

  • Chú trọng khả năng phát triển bền vững. Các tổ chức tín dụng quốc doanh cần thay đổi cách làm “chương trình tín dụng là từ thiện” để giảm bớt động cơ áp dụng chính sách trợ cấp lãi suất, thực sự chỉ mang lại lợi ích cho một số ít người. Áp dụng những mức lãi suất đủ để trang trải chi phí và có mức lợi nhuận hợp lý, tự huy động đủ nguồn vốn chứ không chỉ trông đợi vào những nguồn ngân sách hay vốn vay ưu đãi,15 tuân thủ những quy tắc và tập quán hoạt động tài chính đúng đắn … áp dụng các biện pháp khuyến khích cán bộ ngân hàng chủ động phục vụ khách hàng, là cách giúp cho các định chế tài chính nông thôn tự đứng vững trên đôi chân của mình về lâu dài.

  • Tăng phạm vi phục vụ, và những dịch vụ phụ trợ. NHNN&PTNT cần tập trung hơn trong việc phục vụ những xã ở các vùng xa xôi hẻo lánh và miền núi, nơi có tỉ lệ nghèo đói cao nhất. Tại nhiều địa phương, nông dân muốn vay vốn phải đi rất xa, có khi phải mất gần nửa ngày mới đến trụ sở ngân hàng, có khi không biết chắc có vay được hay không.16 Cần hỗ trợ hoạt động của các tổ cho vay lưu động của NHNN&PTNT. Ở những địa phương có trình độ dân trí thấp, các tổ chức tín dụng chính thức ngoài việc cho vay nên có chủ trương hướng dẫn người dân cách sử dụng đồng vốn hợp lý, giúp họ xây dựng phương án phù hợp để quản lý nợ và rủi ro. Báo chí đã đề cập đến nhiều trường hợp, ví dụ ở những cộng đồng dân tộc thiểu số, người vay được tiền không biết làm gì, mang bỏ ống hoặc đi uống rượu.17

  • Đa dạng hóa các loại hình tín dụng cho nông thôn. Kinh nghiệm từ các chương trình tiết kiệm và tín dụng ở Việt Nam cho thấy người nghèo là những khách hàng có rủi ro tín dụng thấp.18 Các tổ chức tín dụng cũng nhận thấy rằng cho nông dân vay khá an toàn. Nợ quá hạn của nông dân thường dưới mức 5%, thấp hơn nhiều so với con số của các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Thế nhưng các định chế tài chính chính thức không nhiệt tình lắm trong việc cho các nông hộ vay. Một trong các lý do là các nông hộ thiếu những dự án nông nghiệp lớn, mà chủ yếu là vay tiền để đầu tư sản xuất manh mún, như nuôi lợn, gà, trồng rau, ngân hàng không muốn hiệu quả của đồng vốn của mình bị giảm do phải bị động "chạy theo nông dân".19

Ngân hàng phải có cơ chế hoạt động để thoát khỏi xu thế “chỉ phục vụ khách hàng lớn”. Nhu cầu vay vốn của nông dân dù lớn dù nhỏ cũng nên được đáp ứng như nhau mới đảm bảo tính công bằng trong công tác tín dụng nông thôn nhằm góp phần tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở nông thôn. Hiệu quả của đồng vốn có thể được giải quyết bằng cách hoàn thiện việc thẩm định dự án, đánh giá mức rủi ro của người đi vay.

  • Đẩy mạnh công tác huy động tiết kiệm. Cần khắc phục điều ngộ nhận phổ biến là người nghèo không thể tiết kiệm được, các chương trình tín dụng thường bên cạnh việc cho vay, phải phát triển và có giải pháp khuyến khích mảng tiết kiệm. Tiết kiệm ở nông thôn có tiềm năng rất lớn nhưng chưa được khai thác hết. Đối với phụ nữ nghèo nông thôn, có nơi để gởi tiết kiệm còn quý giá hơn cả có nơi để vay tiền. Trong một số chương trình dịch vụ tài chính cấp xã của ActionAid Vietnam, số dư tiền gửi tiết kiệm lớn hơn cả dư nợ cho vay. Các hộ gia đình xem tiết kiệm là công cụ đặc biệt hữu ích để cân đối chi tiêu giữa các mùa vụ, để tích lũy tài sản cho gia đình và phòng chống rủi ro.20

Chỉ có khoảng 10% khoản tiết kiệm của khu vực nông thôn Việt Nam được gửi vào hệ thống tài chính chính thức. Phần còn lại được người dân cất giữ dưới dạng tiền mặt, ngoại tệ, vàng bạc, đồ trang sức, thóc lúa, hay hàng hóa khác.21 Cơ cấu lãi suất với những quy định của NHNN về mức trần lãi suất tiền gửi đã hạn chế khả năng của các tổ chức tín dụng trong việc thu hút tiết kiệm. Hơn nữa, quy định mức tiền gửi tối thiểu 50.000 đồng (đối với các chi nhánh NHNN&PTNT) và 100.000 đồng (đối với các ngân hàng thương mại khác) không huy động được những khoản tiền nhàn rỗi rất nhỏ nằm rải rác trong dân.

  • Quan tâm nhiều hơn đến phụ nữ nông thôn. Ngoài một số chương trình cho vay của NHNN&PTNT, và một số chương trình nhỏ khá thành công của các NGO kết hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tín dụng cho phụ nữ, nhìn chung đa phần các khoản vay ở nông thôn đều chưa chú ý đến khách hàng phụ nữ. Có nhiều trường hợp, tín dụng được cấp cho phụ nữ, nhưng về đến gia đình lại bị chủ hộ là đàn ông đem sử dụng vào những mục đích như tiêu xài, uống rượu hay đánh số đề.

Ở hầu hết các nước đang phát triển, lao động và thu nhập của phụ nữ nông thôn ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống gia đình, nhất là những hộ không có đất. Hơn nữa, phụ nữ thường giỏi quản lý thu nhập để giải quyết các nhu cầu sinh hoạt của gia đình (ăn, mặc, ở, thuốc men, hay lo chuyện học hành cho con). Vai trò kinh tế của phụ nữ cần được nhìn nhận đúng mức, trong các hoạt động tài chính chính thức và các dịch vụ khuyến nông.

Cấp tín dụng trực tiếp cho phụ nữ được xem là một chất xúc tác quan trọng để tăng cơ hội tham gia hoạt động kinh tế, có tác động tích cực về mặt xã hội: giúp phụ nữ thoát khỏi cảnh lệ thuộc kinh tế, và nâng cao lòng tự tin và khả năng tự chủ của họ. Theo kinh nghiệm của nhiều chương trình tín dụng ở các nước đang phát triển, phụ nữ nông thôn có rủi ro tín dụng rất thấp. So với khách hàng nam giới, họ có tỉ lệ trả nợ cao hơn vì họ thực hiện nghĩa vụ nợ nghiêm túc hơn.22



  • Đơn giản các yêu cầu và thủ tục cho vay. Các tổ chức tín dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài sản, phổ biến nhất là đất hay nhà. Thế như­ng, các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần) vẫn yêu cầu họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất do huyện cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh của chính quyền địa phương. Tuy hầu hết các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể đem đất thế chấp cho ngân hàng để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ”. Cho đến 1999, một bộ hồ sơ xin vay tiền thường cần tới gần 10 con dấu và chữ ký của các cấp khác nhau. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối với người dân có trình độ văn hóa thấp, và làm nảy sinh những tệ nạn như cò vay vốn. Có trường hợp, cò ăn chặn đến 15% tiền vay của nông dân.

  • Mở rộng yêu cầu về mục đích sử dụng vay vốn. Chủ trương của các tổ chức tín dụng chính thức hiện nay thường chỉ cho vay phục vụ sản xuất nông nghiệp; do vậy hoàn toàn bỏ rơi hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp và những khách hàng khác ở nông thôn nhưng không làm nông nghiệp. Trong khi đó, trên thực tế, hoạt động phi nông nghiệp chiếm mảng khá lớn trong kinh tế nông thôn. Khảo sát gần đây cho thấy một nông hộ có thu nhập bình quân một năm khoảng 13,6 triệu đồng, trong đó thu nhập từ nông lâm nghiệp chỉ chiếm 48,6%.23 Ngoài ra, đời sống của các nông hộ có rất nhiều nhu cầu vốn cho các sinh hoạt khác. Khoảng 63,6% các khoản vay ở nông thôn là vốn sản xuất, còn lại là dành cho các hoạt động khác như mua/làm nhà, học hành, tiêu dùng, ăn khi giáp hạt, cưới xin, ma chay, trả nợ …24 Các nông hộ thuộc diện nghèo nhất rất cần vay cho mục đích tiêu dùng, hoặc giải quyết những việc cấp bách, và họ phải tìm đến những người cho vay lãi. Những quy định ngặt nghèo về mục đích sử dụng vốn vay tạo nên phân biệt đối xử với người nghèo, và càng khiến cho họ khó thoát ra cái vòng luẩn quẩn đói nghèo.



Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1
2006 -> Bé n ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n ng th n B¸o c¸o tæng quan ngµnh chÌ viÖt Nam

tải về 187.14 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương