PHẬt học tinh hoa một Tổng Hợp Ðạo Lý



tải về 1.23 Mb.
trang9/14
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.23 Mb.
#37964
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Không Sắc  

Vẫn biết vạn hữu (tous les êtres) do nhân duyên cấu tạo nên; nhưng cái gì là tượng trưng cho vũ trụ vô biên ấy? – Đạo Phật với thuyết “Bản Thể Thật Tại Luận”.


3. Bản Thể Thật Tại Luận Hay Câu “Nhất Thiết Duy Tâm Đạo”

Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsakasutra) chép: “Vạn hữu trong vũ trụ đều do TÂM (Bản Thể) biểu hiện = “Nhất Thiết Duy Tâm Tạo”. Chữ TÂM ở đây không có nghĩa chỉ cõi lòng vui buồn, ganh ghét hay cái trí hiểu biết của con người. Cũng không phải như chữ Tâm theo định nghĩa hạn hẹp của triết học là: Tinh thần chủ quan sinh ra vũ trụ khách quan. Lại càng không nên hiểu theo triết lý của Hégel; Tâm là ý niệm hoặc ý tưởng tuyệt đối. Phần nhiều ta không chịu tìm hiểu, chỉ mãi loay hoay trong rừng rậm danh từ, không tìm ra được lối thoát, nên rất dễ bị lầm lạc. thật đáng tiếc! Chẳng hạn người ta thấy trong kinh Phật thường hay nói đến chữ “Tâm”, những người nông nổi vội kết luận cho đạo Phật là “Duy Tâm”.

Để hiểu chữ TÂM, theo đúng quan niệm đạo Phật, chữ TÂM (ở đây) có chia ra  “Chân Tâm (Pêtreinfini), và Vọng Tâm (conscience inconnaissable). Ta nên nhớ: Căn bản của phiền não sinh tử là Vọng Tâm. Mà căn bản của Bồ Đề, Niết Bàn là Chân Tâm. Nhưng chữ Tâm – chữ Tâm viết hoa – xin hiểu nghĩa là Bản Thể Của Vũ Tru Vạn Hữu, tức Tâm Chân Như hay Thể Tính chân Tâm (les éléments essentiels de l’être infinị).

Cũng xin nói thêm về chữ “Tâm” (Citta), hiểu theo danh từ Phật học, có nhiều tên khác nhau; tùy trường hợp, cũng gọi là Chân Tâm, Bồ Đề, Niết Bàn, Như Lai Tạng, Alaya Thức hay Pháp Thân, Chân Lý v.v

Thật ra những danh từ trên đức Phật tạm đặt ra để chỉ cái “Bản Thể Tuyệt Đối” của vũ trụ, đó cũng chỉ là phương tiện để hướng dẩn con người đạt được Chân Lý. Trong kinh có câu: “Nhân chỉ kiến nguyệt”, nghĩa là nhờ có ngón tay chỉ mà ta biết được mặt trăng. Mặt trăng ở ngoài ngón tay người chỉ. Ngón tay là ám chỉ cho lời nói, lý luận và danh từ, còn mặt trăng mới đích là chân lý của Bản thể Vũ Tru. Khoa học ngày nay thì nói đến những Electron, Atome et Noyau để cắt nghĩa vật tiên thiên đã tạo nên vũ trụ vạn vật… Đó, chẳng qua cũng chỉ tạm mượn cái tên điện tử, nguyên tử hay hạch tử để chỉ cái nguyên chất (có sẳn) trong vũ trụ mà thôi. Trong Đại Thừa Khởi Tính Luận, chép: Đứng về phương diện Bản Thể, thì tất cả các pháp từ xưa tới nay, lìa các “tướng” như lời nó , chữ nghĩa, tư tưởng, tuyệt đối bình đẳng, không có thay đổi, không hư hoại, cùng chung một Bản Thể Sáng Suốt Của Nhất Tâm, nên gọi là Chân Như = “Nhất thiết chư pháp, tòng bản dĩ lai, ly ngôn tuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, vô hữu biến dị, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh chân như”.

Để hiểu chữ “Tâm” trong đạo Phật một cách sâu rộng hơn, kinh Lăng Nghiêm (Suramrama sutra) có ghi lại mẩu chuyện đối thoại giữa Đức Phật và để tử là Ananda, sau bảy lần gạn hỏi ý nghĩa chữ “Tâm”, đều bị đức Phật bác, cho là không đúng. Và dưới đây là mẩu chuyện lý thú đó:



1. – Ananda Chấp Tâm ở Nơi Thân -“Tâm không phải trong thân. Nếu bảo tâm ở trong thân, trước hết, ông phải lấy tim, gan, mật, phổi, lá lách…, sau mới thấy cảnh vật bên ngoài”. Tại sao, ông không trông thấy? – lời đức Phật.

2. – Ananda Chấp Tâm Ở Ngoài Thân – Đức Phật: “Tâm ở ngoài thân, thì tâm và thân ông không dính dấp nhau. Vì lẽ gì, mắt ông vừa trông thấy cảnh vật, tâm ông liền biết? Như vậy, thân và tâm đâu có tách rời nhau.

3. – Ananda Chấp Tâm Ở Trong Con Mắt – Đức Phật: Nếu tâm ở trong con mắt; tại sao, tâm ông lại không thấy được mắt ông. Cũng như người chết, con mắt còn đó, tại sao lại trông không thấy gì?

4. – Ananda  Chấp Trở Lại, Tâm ở Trong Thân, ông nói: “Tôi mắt thấy tối, mở mắt thấy sáng là tâm thấy cảnh vật bên ngoài. Như vậy, tâm ấy đúng ở trong thân tôi”. Đức Phật liền hỏi vặn lại Ananda: “Nếu ông nói rằng nhắm mắt thấy tối, vậy cái tối ấy có đối trước mắt ông hay không?”

5. – Ananda Chấp Tâm Tùy Chỗ Hòa Hợp Mà Có. Đức Phật: “Ông nói, tâm tùy chổ hòa hợp có; nghĩa là, tâm ấy không có thực thể (tức không có) thì lấy gì làm hòa hợp? Nếu nói, nó từ trong thân hoặc từ hư không hiện ra, lẽ tất nhiên, nó phải thấy lục phủ, ngũ tạng bên trong và thấy hình thể con người bên ngoài. Còn nói, tâm ấy có nhiều thể (thành ra có nhiều tâm), biết cái nào là tâm của ông? tùy hòa hợp chổ nào tâm liền ở chổ đó, là sai”.

6. – Ananda Chấp Tâm Ở Khoảng giữa – Đức Phật dạy: “tâm” và “cảnh” là hai thể khác nhau, một bên có tri giác (tâm), một bên không có tri giác (cảnh), hai cái đối lập, riêng biệt nhau, thì lấy cái gì gọi được là giữa?

7. – Ananda Chấp Cái Không Trược Là Tâm – Đức Phật: Hễ cái gì có hình tướng, như núi, sông, trái đất thì gọi là “giả có”; còn cái gì không hình tướng, như lông rùa, sừng thỏ đều gọi là không, và đã không, thì có gì mà nói là “trược”?…

Đến Đây, Đức Phật giảng rõ thế nào là Thể Tính Chân Tâm để giúp cho chúng sanh sớm ngộ nhập “Phật tri kiến”, nhìn thấy các pháp là không tướng, con người và chúng sinh là do nhân duyên cấu tạo, nên nó “vô ngã”, và hết thảy sự vật hiện hữu trên cỏi đời này đều “vô thường” chuyển biến. Muốn giải thoát những ràng buộc mê luân khổ đau, thì con người phải biết “tu tâm, dưỡng tính” để mình không còn bị làm nô lệ cho cái hình hài giả tạm, và sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, một cuộc sống vĩnh cửu, thanh tịnh, tự tại, như nhất…

Vòng tròn tượng trưng cho “Tâm” hay “Bản Thể” của vũ trụ vạn hữu.

 Đường thẳng và cong biểu tượng

Sát na   sinh diệt.

Vậy, TÂM ấy là thể bản nhiên thanh tịnh (Đại Ngã Thể) bao trùm khắp pháp giới – xin hiểu nghĩa như chữ vũ trụ – hư không giới, bao giờ nó cũng là một thể tồn tại, không sinh diệt, không thêm, không bớt, không sắc tướng, cũng không hẳn là hư không; vũ trụ vạn hữu đã từ vô lượng kiếp luân hồi…

Đến đây ta hãy lấy một thí dụ để chứng minh, như “nước” là Bản Thể, có tính chất thành Sóng. Mặc dầu là nó tĩnh nhưng vẫn có tính chất động. TĩnhĐộng là hai tính chất có ở trong nước. Sóng, chỉ cho Hiện Tượng “tinh thần và vật chất”.

Nước, chỉ Bản Thể “vô biên…”. Vậy, có Sóng là có Nước. Cũng như nói có Hiện Tượng là có Bản Thể.
4. – Thể, Tướng, Dụng

 a. Thể

Bản Thể, chỉ cho vũ trụ bao la – “Tâm Chân Như” Ví như nước mênh mông trong đó có đầy đủ các yếu tố nhân duyên để  “cấu tạo” vạn hữu, nếu ta thu hẹp lại thì nó chỉ là một con số không (0), nhưng trong đó vẫn hàm tàng hai tính chất “Sắc” (vật chất), “Tâm” (tinh thần). Đạo Phật quan niệm: Tâm, hay Vật nhị nguyện đồng nhất thể, nghĩa là, dù Tâm hay Vật đều có ở trong “Bản Thể”; không phải “Tâm” có trước “Vật”, như phái Duy Tâm chủ trương “tinh thần có trước, vật chất có sau. Hay nói ngược lại, “Vật” có trước “Tâm”, như phái Duy Vật chủ trương “vật chất sản sinh ra tinh thần”. Trong Duy Thức Học (Vijnànavàda) nói: “TâmVật là hai cái  “đồng thời” có ở trong Bản Thể Chân Như. Nếu không có Tâm thì không có Vật; mà không có Vật thì cũng không có Tâm = Kiến, Tướng đồng thời nhi khởi, vô kiến tắcvô tướng, vô tướng tắc vô kiến”.

Viên đá lửa sẵn có “tính lửa” hàm chứa bên trong, nên khi ta bật thấy lửa phát hiện. Cũng như “tính ướt” của nước vẫn sẵn có ở trong nước. Bản Thể của vũ trụ hiện hữu, như ta đã thấy, nó không ngoài Hiện Tượng mà có Bản Thể. Hiện Tượng, tức Bản Thể. To như Thái dương hệ, nhỏ như vi trần cũng đều do nơi Bản Thể vô biên diệu dụng kia mà biến hiện ra cả….

 b. Tướng

Tướng Trạng, chỉ cho núi, sông, người và vật – Hiện Tượng giới – Ví như nước biển đem pha các màu xanh, đỏ, vàng, tím; tuy sắc tướng có khác, nhưng nó vẫn không ngoài thể chất “Nước”. Vũ trụ với thiên hình vạn trạng khác nhau về hình thái song đều chung một Bản Thể, không hai, không khác.

c. Dụng


Công dụng, tức chỉ cho sự sai biệt giữa vật nàyvật kia: – sinh diệt, vô thủy vô chung – với sự áp dụng của  “Sắc” hay “Tâm”, tùy theo trường hợp thiệnác của  “Tướng”, như màu sanh, màu vàng v.v… để dùng vào việc viết (hay vẽ) các vật xanh, vật vàng v.v…

5. Những Nguyên Nhân Cấu Thành Vũ Trụ Vạn Hữu.

Trong Bản Thể Vũ Trụ gồm sáu yếu tố công năng hoạt động làm căn bản, cũng gọi là “Lục Đại Duyên Khởi” (Màhàhhutas les six élémants) tức: Địa (Prthividhàtuh), Thủy (Abdhàtuh), Hỏa (Tejodhàtuh), Phong (Vàyudhàtuh), Không (Sùnyatà), Thức (Vijnàna), dung hòa lẫn nhau và tạo ra muôn loài vạn vật hiện hữu ở thế gian này.

Sáu công năng đó là:

 * Công Năng Rung Động : Gió

 * Công Năng Ép Nặng :Đất

 * Công Năng Ấm Nóng :Lửa

 * Công Năng Mịn Ướt :Nước

 * Không Gian :Hư Không

 * Linh Thức.

Tính chất của sáu công năng rất tinh tế không phải là hình thức thô sơ như những nguyên tử, điện tử cón có thể phân tích; đằng này tự nó, nó có đủ năng lực tiến hóa, phát triễn. Đứng về quan niệm sai biệt, ta nhận thấy có sáu công năng khác nhau; nhưng đứng về phương diện tuyệt đối thì chỉ thấy (duy nhất) có một “Bản Thể” – Bản Thể Bình Đẳng Như Nhất.

Bản Thể – xin nhắc lại -cũng có chỗ gọi “Không Tướng” hay “Chân Không”, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt…” Các pháp vốn không thật có. Mà đã không thật có thì làm gì còn có sinh diệt. Bởi không còn bị sinh diệt nên gọi là Chân Như (Tathatà). Vẫn biết trong Bản Thể Vũ Trụ chứa sẵn sáu yếu tố công năng, nhưng ta cần biết cái nào hiện trước, cái nào hiện sau? Vấn đề này, khoa học hiện đại hãy còn đương trong vòng tìm hiểu. Nhưng, đạo Phật đã có giải thích rỏ trong Kinh Lăng Nghiêm (Suramrama-sùtra), quyển IV chép:

“Khoảng không gian vô cùng tận do nguồn linh thức quá mạnh làm rung động một lượt  “6 yếu tố công năng” và cùng quay chuyển biến mà sinh ra “phong đại” (Vent) trước. Và do những luồn gió thổi  “quyện” các yếu tố lại tạo thành “không khí” (Atmosphère), rồi đến “địa đại” (Minéral), và do sự cọ xát giữa hai áp lực giókhông khí tạo thành lửa  “hỏa đại” hay “điện lực” (Electricité); hơi nóng bốc lên gặp khí lạnh ép xuống thành nước “Thủy đạ” (Océan); Lửa bốc lên, nước dội xuống làm cho lắng động lại và nguội dần, chỗ nào bằng phẳng là đất, chỗ nào sụt xuống là bể hay hồ ao; nơi nào sức nước mạnh hơn mọc ra cây cối…”

Tất cả những thứ đó gọi chung là “Khí thế gian”.

Đức Phật còn cho ta biết: ở thế gian cả thảy có bốn loài sinh (Catvàro yonayah) khác nhau. Bốn loài đó là:

Hóa Sinh (Upapàdukàh), như con sứa do “khí hóa” của bọt nước, con đom đóm do củi mục sinh…

Thấp Sinh (Sumsedajàh), những loài giun, dế từ nơi ẩm ướt…

 – Thai sinh (jaràyujàh), những loài sinh bằng bào thai, như loài người …

Noãn Sinh (Andajàh), những giống sinh bằng trứng, như loài cá, chim v.v..

Những loài sinh trên đây đều mang trong tự thể cái hình hài giả tạm và cùng chịu chung một định luật; Sinh, già , ốm, chết!

Rồi cứ như thế hết sinh vật này đến sinh vật khác tiếp nối nhau sinh sản mãi, thì đấy gọi là  “Tình Thế Gian

Vũ trụ vạn hữu đã do “nhân duyên nhân quả” cấu tạo, vậy ta biết được rằng giữa các hiện tượng là do những mối dây quan hệ chằng chịt mật thiết với nhau mà không bao giờ bị đức quãng; bởi vũ trụ là một khối duy nhất: “Vạn Vật Đồng Nhất Thể” Tức có nghĩa nói rằng trong vũ trụ gồm có tinh thần và vật chất vốn cùng một “Bản Thể” và cùng bất biến (éternel).

Thật thế, muôn vàn cảnh tượng biến hiện trên thế gian này, to như Thái dương hệ, nhỏ như vi trần cũng đều là hiện thân của Bản Thể Vô Biên  Tuyệt Đích. Tuy nhiên, khi Hiện tượng giới đã hình thành thì nó bắt buộc phải theo một công lệ “Thành, Trụ, Hoại, Không…”

Mỗi thời kỳ có hai mươi tiểu kiếp bốn thời kỳ là tám mươi tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp có 16.800.000 năm. 80 tiểu kiếp gọi là một đại kiếp, tính có 1.344.000.000 năm; trải qua bốn giai đoạn dài dặc ấy rối trở lại vô cùng tận… Địa cầu được đứng vững là nhờ những dẫn lực của các hành tinh và các vòng “phong luân”, “thủy luân”, “hỏa luân” và   “không luân”.

Thật ra, từ khi có con người và vạn vật trên địa cầu, đã có biết bao lần đổi dời, biết bao sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, về phong tục, đạo đức, về văn hóa, tôn giáo, và không kể xiết với những trang sử thịnh suy, bĩ thái, lớp này chết, lớp khác sinh, trái đất này tan làm nhân cho trái đất khác; trong vũ trụ có hàng triệu thế giới… biết bao nguồn sống của chúng sinh, mỗi nơi có khác nhau, không tìm thấy mối quá khứ từ đâu, không chứng nghiệm được những tương lai vô tận.

Vũ trụ và con người cứ như dòng sông chảy xiết ra biển “Bản thể Vô Biên”, mênh mông bát ngát không ngừng?! Nhưng, đó chỉ mới đứng về phương diện tương đối mà nói, còn về phương diện tuyệt đối thì, tất cả hiện tượng vạn vật không sinh mà cũng không diệt, cái Bản thể Tuyệt Đích thật ra cũng không thêm, không bớt. Mặc dầu hình tướng đổi dời song Bản Thể thì vẫn còn mãi (Pháp Nhĩ Như thị Dhardama). Nó khác nào chất “cứng” đổi ra “lỏng”, rồi   “lỏng” biến thành “hơi”, dần dần biến trạng kết trở lại thành  “cứng” (..)

Đến đây, ta lại cần nghiên cứu để hiểu mặt trời tại sao có chất lửa? – Trong Kinh Lăng Nghiêm chép: Mặt trời thuộc về  “hỏa đại” (chất lửa) do nhân duyên kết cấu. Ta hãy lấy một ví dụ để chứng minh cho sự thật này: giữa lúc nắng về buổi trưa mùa hè, ta lấy một ít bông gòn để dưới một cái kính hiển vi thường (loupe) hay tối tân (microscope électronique) rồi đem kính ấy soi vào mặt trời lúc lâu thì thấy hốc khói và có lửa phát hiện. Như vậy là “chất lửa” vốn có khắp trong vũ trụ, cùng với các chất đất, nước, gió… Nói tới đây, ta cũng không quên tìm hiểu mặt trăng? Đức Phật dạy: Mặt trăng thuộc “thủy đại” (chất nước) nên ánh sáng phản xạ của mặt trăng trong trẻo, mát mẽ. Thực nghiệm, – ta lấy một cái đĩa để dưới một cái kính  “phương chư” bằng thủy tinh (cristal) rồi soi vào giữa mặt trăng trong những đêm 15, 16 âm lịch thì ta sẽ thấy có nước nhỏ từng giọt xuống đĩa…

Nhân Sinh Quan

“Tất cả sự vật dù hữu hình hay vô hình, tâm hoặc cảnh, đều do nhân duyên kết hợp và chỉ là những ảnh tượng mê lầm của nghiệp thức biến hiện”

Với “Vấn Đề Nhận Thức” và “Vũ Trụ Luận” như đã trình bày ở những trang trên, đã giúp bạn có một chính kiến. Theo đạo Phật, vũ trụ vạn hữu biến hóa sinh thành do sự tổ hợp của nhiều nhân duyên…; và đã do nhân duyên tạo thành, tất nhiên, đạo Phật phủ nhận những định thuyết dưới đây:



1.  Vũ trụ bị chi phối bởi một  “đấng Sáng Tạo”, con người cũng do đấng ấy bàì định.

2. Hết thảy sự vật đều bởi  “Tâm”, “Ý” làm chủ thể.

3. Vạn hữu do “vật chất” sinh thành, nên vạn hữu cũng hoàn toàn bị chi phối, thụ động.

Đó là lập luận sự khởi đoan về vũ trụ vạn hữu do các thuyết DUY THẦN, DUY TÂM, DUY VẬT chủ trương.

Giờ đây ta thử tìm hiểu thuyết lý đạo Phật qua vấn đề Nhân Sinh Quan.

Xác định minh thuyết, đạo Phật lúc nào cũng lập luận duy nhất: Vũ trụ vạn hữu được thành lập là do sự kết hợp các yếu tố làm căn bản và cùng hỗ tương, nhưng tất cả… đều ở trong “Bản Thể” vô cùng tận. Con người cũng không ngoài định lý ấy. Do đó, đạo Phật để ra ba điểm chính cương là:



1. Sự Cấu Tạo sắc thân Con Người.

2. Giải Quyết Vấn Đề Sống, Một Mục Đích…

3. Giá Trị Con Người.

1-     Sự Cấu Tạo Sắc Thân Con Người

Ngược dòng lịch sử, ta cần xét lại vấn đề con người bởi nguyên nhân nào đã cấu tạo nên? – theo  thuyết “vũ trụ vạn hữu  sinh  khởi” thì: con người   cũng là  một  hiện  tượng  trong  các   bản  thể  vô biên diệu  dụng kia  chuyển biến   hình  thành mà  có.

Từ bao lâu nay con người đã quyên mình là một “phần tử” trong cái  “Toàn thể” (bản thể vô biên) và chấp cái  “ta  nhỏ   bé”, tự  tách  mình  ra  khỏi cái “ta rộng  lớn” trong  vũ  trụ, lại  dùng   tâm  trí  nhận thức  sai  lầm  các  vật tựơng, nhân  đó sinh  ra  mê vọng  điên đảo….

Để giải đáp sự sai lầm đó, đạo phật  với thuyết   Mười   Hai   Nhân   Duyên (Dvàdàsãngahpratityasamutpàdah) rất  phổ  thông  và  chính  xác.

Những gì là  mười hai nhân duyên?

Trong kinh A HÀM (agamas) chép: “Cái  Này  có, cho  nên  Cái  Kia  có. Cái  Này  sinh  cho  nên  Cái  Kia  sinh”.

Số là:


VÔ MINH             duyên          hành

HÀNH                   duyên          thức

THỨC                     duyên         danh sắc

DANH SẮC           duyên          lục nhập

LỤC NHẬP            duyên          xúc

XÚC                        duyên          thụ

THỤ                        duyên          Ái

ÁI                            duyên          thủ

THỦ                        duyên          hữu

HỮU                       duyên           sinh

SINH                       duyên           lão   tử

Rồi khởi phiền muộn, buồn rầu, khóc than, đau đớn… tạo thành đại  khổ.

Mười hai nhân duyên tiếp nối  với  nhau  từ  đời  này  qua  đời   khác như  vòng  bánh  xe  nhân  qủa    tương   quan.

(Mười Hai Nhân  Duyên  gồm):

1 . VÔ MINH (Avidyà): Mê   muội, tối  tăm. Chỉ  cho  tất  cả  trạng    thái  quan niệm  sai  lầm  cuả  chúng   sinh, không  tự  biết “vì  sao  mà   có  rồi vì  đâu  mà  mất”. Nói  cách   khác,  tất  cả chúng  ta  đều  do  VÔ   MINH ám   phủ   cả, ví  như  tấm   gương  sáng, chỉ  một  mảy  bụi  cũng   đủ  làm  giảm  ánh  sáng   không   ít.

Nói đến vô minh, ta  không  thể   nói đến  Chân  Như, vì  hai “cái” là  một  thể  – Vô  minh   nằm   trong   Chân  Như – bản  thể    chân  như lúc  khởi  thuỷ ví  như  mặt   nước  phẳng,  nhưng  nay  có  sóng . Mặt  nước đã  sóng thì  xao  động, thế   là  sóng   cũng là  nước  mà  nước   cũng  là  sóng.  Cũng như nói,  không  có  không  gian  thì  không  có   hiện  tượng. Ðó là  thuộc  về  Hoặc. Vì   đã có  hiện  tượng  nên  phải   chuyển  biến  với   công  năng, nghiệp   lực, tinh  thần hay  vật  chất  đều  theo   một  quan  niệm động  mà ảnh  hưởng   lẫn   nhau . Sự  vật  biến   hoá  mãi   là  liên  quan  theo  luật  chuyển  dịch cuả  hành  nghiệp.

2. HÀNH (samskarah): hành  động, tác  động . Có  hành  động  là  (bắt   nguồn) bởi  tư  tưởng  phát  sanh,  do   đó  mỗi  con  người  mang  trong  tự   thể cái “nghiệp” – nghiệp  lành  dữ, mình   làm  mình  chịu –  và  sự  phát  nguyên   của  nghiệp là  do  “nhất  niệm  mê   mờ”  vọng  khởi  mà  có. Ta thấy  rõ   ràng   “Nghiệp” như  một  sợi  dây truyền  cảm mà  nhân  qủa  thì  cứ tiếp   nối  nhau  bất  tuyệt. Thi  hào Nguyễn   du đã  cảm  thông  đựơc  chữ  “Nghiệp” trong  đạo  phật  một  cách quán triệt. Tiên sinh  viết.

… “Đã   mang  lấy  nghiệp  vào   thân 

Cũng  đừng trách  lẫn  trời  gần, trời  xa”

Nói khác, nghiệp là do thân, khẩu, ý của chúng sanh gây ra để phải nhận lấy quả báo luân hồi.



Ghi chú, – Chữ “Nghiệp” (Karma). Nghĩa là tạo tác, hành động. “Ý” suy nghĩ, “miệng” nói “thân” hành động,… tức chỉ tất cả hành động cố ý của một sinh vật do ba nghiệp (thân, khẩu, ý) ảnh hưởng lẫn nhau rồi cảm thành vết tích, thành thói quen, tạo nên nguồn sống dục vọng di truyền, trong kinh thường gọi là  “Dẫn Nghiệp” (tức dẫn lực của nghiệp) hay “Nghiệp thức”. Nói theo từ ngữ bây giờ thì gọi là Nguồn Sống. Tất cả hiện tượng trong vũ trụ – bao gồm các sinh vật và các cảnh vật thiên nhiên, như núi, sông, cây cỏ, đất đai, trăng, sao, nước, lửa, không khí. – đều do Nghiệp Thức tạo tác cả. Nghiệp chia ra “nghiệp chung” (cộng chung) và “Nghiệp riêng”(biệt nghiệp).

Nghiệp chung. Chỉ các loài sinh vật (trong đó có con người) hiện sống trên địa cầu, đều phải chịu chung các kiếp vận như nhau:

Àyuskasàyah: Mệnh Trược = kiếp người đau khổ.

Drstikasayah: Kiến Trược = nhận thức sai lầm.

Klésakasàyah: Phiền Não Trược = tâm địa xấu xa.

Sattvakasàyah: Chúng Sinh Trược = chúng sinh ác độc.

Kalpakasàyah: Kiếp Trược = cuộc sống ngắn ngủi.

Và còn biết bao nổi khổ triền miên khác, như Sinh, Già, Ốm, Chết, về thiên tai  “nước lụt”, động đất” lửa cháy, chiến tranh v.v..

Nghiệp riêng: Mỗi loài có những  “tính sống” riêng biệt, hoàn cảnh riêng biệt. Như cá thì bơi dưới nước, chim bay trên không, con người và các loài muôn thú sống trên đất cạn và các nơi rừng rú… Tuy nhiên, con người, có những ưu điểm đặc biệt hơn các loài khác: con người tự làm chủ mình, làm chủ cuộc sống và hoán cải hoàn cảnh chung quanh, tùy nghiệp lành, nghiệp dữ do con người tự quyết định lấy.

Nhưng nghiệp do đâu mà có? Cái “Ngã” một hòa điệu tinh thần và vật chất do thân “ngũ uẩn” (Pànchaskhandha) tức sự hoạt động của “thân” và “tâm”, lĩnh thụ bởi cảm xúc trong tâm và ngoài cảnh, phát sinh những cảm giác; và vì sự mê lầm tiềm tàng tự thân của mỗi vật tự phát động và không cần sự can thiệp của bất cứ năng lực nào.

Nghiệp là chủ động lực của mọi vấn đề. Mọi vấn đề cũng do Nghiệp phát sinh, tồn tại hay tiêu diệt.

“Không phải ở trên không trung, không phải ở giữa đại dương, không phải ở trong thâm sơn, cũng không phải ở một nơi nào người ta có thể tránh được nghiệp báo”. – Dhammapada, 127 –

Những hiện tượng thế giới đều do Nghiệp phát động mà cảm ứng. Ta có thân thể như bây giờ đều do đời trước tạo nghiệp mà sinh, rồi cứ luân hồi, nhân quả nối tiếp từ quá khứ chạy suốt hiện tại sang vị lai… biến hiện thiên hình vạn trạng, tùy nghiệp thụ báo để phải chịu lấy vô lượng cực khổ, nếu con người mãi mê lầm tạo nghiệp. Bởi vậy dưới HànhThức.

So với nhân quả trong ba đời thì Vô Minh – Hành là nghiệp nhân quá khứ và làm nhân làm duyên để kết sinh chịu quả trong đời hiện tại.

3. THỨC (Vijnànam): bởi sự mê mờhành động kết thành Nghiệp Thức; phân biệt sai lầm mà sinh ra vui buồn, thương tiếc… Nghiệp thức con người khác nào như luồng điện tản mát khắp nơi…; thân  “Tứ Đại” Ví như dòng điện, khi đủ điều kiện nhân duyên, như, dây, bóng,…ta bật sẽ thấy điện phát ra ánh sáng. Còn ánh sáng ấy mạnh hoặc yếu cũng như màu nó xanh, hoặc đỏ là do bóng đèn to, nhỏ và tùy thuộc ở màu xanh hay màu đỏ; nhưng không ngoài điện tính… Cũng thế, muôn loài vạn vật hiện hữu trong thế gian là do nhân duyên giả hợp mà thành; con người sinh ra đời là bởi tinh huyết của người cha và người mẹ hòa hợp, kết đọng lại mà tạo nênn cái “xác thân giả tạm”. Nhưng, như vậy, chưa đủ; con người còn phải có suy nghĩ, cảm giác, lĩnh thụ mới trở thành “con người hoàn toàn” – con người sống động.

Trong cuộc hành trình của con người: khi sống hay lúc chết đều do nhân quả hành vi tự thân tạo tác; con người đẹp hay xấu, ngu tối hoặc thông minh, sung sướng hay khổ sở, không do ai cầm đầu dẫn dắt và thưởng phạt cả! Mà chính là do tự thân gây “Nghiệp” “nhân”và “duyên” để rồi nhận lấy “quả báo” hoặc thiện hoặc ác…

Ta hãy lấy một ví dụ làm chứng minh:

(Nghiệp) – A và B (anh hay chị) cùng là con người. Nhưng con người A khác con người B về tâm trí, về nét mặt, về hình thể, tầm vóc cao, thấp, nam hoặc nữ, đẹp xấu, thiện và ác…

(Nhân) –  A rất chăm học, B thì lười, biếng học…

(Duyên) – Cả A và B đều được cha mẹ thương yêu, nuôi nấng, cho ăn học, sắm quần áo, xe cộ và bút, mực, sách vở để không bị thua kém với chúng bạn…

(Quả) – A chịu khó học tập nên kết quả là A biết chữ và thi đậu. Còn B, trái lại… Ta không nên có thành kiến sai lầm cho rằng: Bộ óc là sản phẩm của tư tưởng, cũng đừng bao giờ quan niệm tinh thần (ý thức) có trước vật chất… Theo đạo Phật, những thuyết lý nào thiên một bên đều là sai lầm. Dù tinh thần hay vật chất thì cũng đều do các yếu tố công năng từ Bản Thể sinh, rồi tồn tại và hủy diệt. Con người phải đủ hai phần   “tinh thần” (thân thức do Nghiệp của mỗi con người đã tạo) và “vật chất” (thân tứ đại giả hợp”, nếu lìa một trong những “chất ấy” con người sẽ chết; nhưng không có nghĩa chết rồi là hết, mà chỉ là thay đổi hình tướng, ví như điện.

Sự thật (như trên) cho ta thấy: khi Hành Nghiệp đã kết quả thì tự thể nó phải ôm mang lấy. Vô minh và hành động (Nghiệp Lực) đi đến một nơi nào đó để nhận chịu một cái thân quả báo hoặc thiện, hoặc ác…

Nhìn chung vào pháp giới thì, con người chỉ là một chủng loại đã có một trình độ tiến triển tương đương. Cao hơn con người, là Phật, Bồ Tát. Thấp, là các loài hạ đẳng động vật. Do đó, đạo Phật chia ra mười pháp giới:

1 – Phật (Buddha): đấng Đại Trí, Đại Đức và Đại Hùng. Trong mười phương các quốc độ chỉ có đức Phật là trên hết. Đứng về phương diện con người mà nhận xét, ta thấy: “Trí” Phật là trí bát nhã  (prajnã), sáng suốt bao la vô cùng tận. “Đức” của Phật là vô lượng vô biên, cao cả: Vô Thượng. “Hùng” hay là  “Lực” của Phật tu chứng đến chỗ Hoàn Toàn Trong, Hoàn toàn Sáng; diệt tận sinh tử, phiền não, nhiễm ô. Đức Phật có đầy đủ ba đặc tính Trí – Đức – Hùng, do đó (mà) cứu độ cho hết thảy chúng sanh trong ba cõi… Nhờ vào ba  “đức” ấy, tất cả chúng sanh sẽ chuyển hóa đuợc tâm hồn xấu xa thành tốt đẹp, sáng láng… Đó là chính nghĩa:

– ĐẠI  TRÍ

– ĐẠI  ĐỨC

– ĐẠI  HÙNG

Cho nên, cảnh giới của chư Phật là cảnh giới Tự Tại Giải Thoát, là chân lý tuyệt đối.

2 – Bồ Tát (Boddhisattava): Những vị giác ngộ sắp được như Phật, do tu  “Lục Độ, Vạn Hạnh” mà chứng thánh quả.

3 – Duyên Giác (Pratyekabuddhi): ngôi vị này hãy còn kém so với Bồ Tát; tu quán pháp  “Mười Hai Nhân duyên” mà được chứng quả.

4 – Thanh Văn  (Sràvaka): bậc giác ngộ ưa hưởng cảnh giới Niết Bàn  (Nirvàna), gần tương đương với Duyên Giác, song trí tuệ có phần kém; tu theo phép  “Tứ Diệu Đế”. Cùng tột của địa vị này là chứng thánh quả A La Hán (Arahat).

5 – Trời (Dévasura): Chư thiên ở các từng trời trong các cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.

6 – Người (Manusya): Chỉ chung tất cả loài người ở trong một thế giới trung bình, không quá khổ như địa ngục, không vui sứớng như ở thiên đường, và không ngu si như các loài muông, thú…, nên sự tu đạo cũng dễ dàng tiến ích.

7 – A Tu La (Asura): Những loài quỉ giống như loài người – con người thoát xác – rất tàn bạo, giận dữ, giết chóc và dâm dục…

8 – Địa Ngục  (Narskanitaya): chúng sinh ở cõi đầy tội lỗi, tối tâm, đau khổ…

9 – Ngã Quỉ (Preta): những loài đói khát, đi lang thang khắp “xó chợ đầu đường” kiểm miếng ăn, manh áo mặc!!!

10 – Súc Sinh (Tiryagyoni): các loài súc vật v.v…

Tuy chia ra mười pháp giới chỉ là để đo trình độ tu chứng cao thấp của mỗi giới. Nếu xét theo quan niệm bình đẳng thì “Bản Thể Nhất Như”.

Với cặp mắt sáng ngời đợm vẽ từ bi, đức Phật đã nhìn, thấy và hiểu rõ chúng sinh, từ thuở nào vẫn luân hồi trong sáu ngả (trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngã quỉ, Súc sanh) mà chẳng biết lối thoát! Đức Phật đã lắng nghe và hiểu suốt tâm trạng nổi vui, buồn, đau khổ của chúng sinh, nên Ngài thường khuyên các đệ tử, hãy luôn sống bên người, gần vật để sang sẻ và ban bố tình thương  “cho vui, cứu khổ” đến tất cả muôn loài, và hãy sống nhập một (trọn vẹn) với bản thể vô biên tuyệt đích…

Trong mười pháp giới chỉ khác chổ mê và ngộ.

 * Mê là chúng sinh.

 *  Ngộ là Bồ Tát, Phật.

Nếu đứng về phương diện con người mà xét thì, đức Phật cũng là một Người, nhưng là một Siêu nhân, đã tu chứng giác ngộ thành Phật, một trong những vị Phật đã thành là đức Thích Ca Mâu Ni, còn chúng sinh thì vẫn cứ là chúng sinh, nếu không chịu tu tiến.

Đức Phật là đấng Giác Ngộ Viên Mãn, là Người đã đạt đến chỗ cao tột của nhân sinh, mà Bồ Tát Duyên Giác hay Thanh Văn, là những bậc còn phải dõi bước và còn phải tiến nữa, để đến chổ tuyệt đối như Phật. Con người có thể tiến lên địa vị ấy, nếu biết hướng theo đường sáng do đức Phật đã vạch ra. Trái lại, không chịu tu hay không chịu làm phúc thì con người sẽ mãi đau khổ u tối, mặc cho nghiệp lực cuốn trôi, triền miên trong vòng mê luân sinh tử xoay vần, chẳng biết đến bao giờ là ngày chung kết!



tải về 1.23 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương