PHẬt học tinh hoa một Tổng Hợp Ðạo Lý



tải về 1.23 Mb.
trang7/14
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.23 Mb.
#37964
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   14

Chương II - Vũ Trụ Quan



Quan niệm của tôn giáo

– Đạo Học

– Triết học

– Khoa học và của đạo Phật.

Từ khai thiên lập địa cho đến ngày nay, khi trí thức con người đã triễn khai, nhân đứng trước vũ trụ rộng lớn, nào trăng sáng, núi cao, biển rộng, sông dài, mây bay, gió cuốn, hoa nở, chim ca… Tất cả hiện tượng ấy đã là những thắc mắc của con người muôn thuở.

– Vũ trụ là gì?

– Con người do đâu mà có?

Những câu hỏi ấy luôn luôn ám ảnh tâm thức ta nó bắt ta phải suy nghĩ, và đã có biết bao tư tưởng gia, đạo sĩ, triết nhân, đông cũng như tây, đã để ra rất nhiều thì giờ, tâm lực, viết nên những bộ sách vĩ đại, nhằm giải đáp những thắc mắc của con người. Nhưng… tất cả chỉ là những mớ lý thuyết còn đọng lại trên trang giấy. Vì, triết lý tức là đặt vấn đề để rồi truy vấn những dự kiện của vấn đề; hơn là giải quyết vấn đề, nếu không  muốn nói là không tưởng (!)

Vậy, muốn nghiên cứu khái quát về vấn đề quan trọng – vấn đề tìm hiểu vũ trụ và con người – rước hết ta nên du hành qua các địa hạt tôn giáo, đạo học, triết học, khoa học, và nhất là đạo Phật, để khách quan tìm hiểu, nhận định và so sánh những điểm dị đồng… rồi nhờ đó, ta có thể nắm vững vấn đề và giải quyết vấn đề một cách chính xác hơn .

Trong các lãnh vực Tôn Giáo, đạo học, triết học, khoa học… lẽ tất nhiên, mỗi bên có những lối đáp khác nhau. Điều cần là ta nhìn, hiểu nó với tâm trạng của kẻ lữ hành đang trên đường kiếm tìm chân lý sự thật cuộc đời này.


---o0o---
Tôn Giáo

Trên thế giới có rất nhiều tôn giáo.  Nhưng, ở đây chỉ bàn sơ luợc mấy đạo giáo, đại diện cho mỗi khuynh hướng khác nhau . Trước hết, ta tìm hiểu về Đa thần giáo, bởi vì tôn giáo này cũng có tính cách liên hệ mật thiết trong việc suy tìm một vũ trụ quan sinh động.


---o0o---
Đa Thần Giáo (Polythéisme)
Từ sơ sử thời đại, khi con người đã biết sống quây quần với nhau trong một khung cảnh bình thản, chất phác và hồn nhiên, nghĩa là con người còn sống trong trạng thái man rợ “ăn lông ở lổ”; nhân đứng trước cảnh hùng vĩ của trời đất, nào trăng sáng, gió reo, sấm chớp, mưa táp bảo bùng… thì sinh ra khiếp sợ, vì tự cảm thấy mình bé nhỏ, so với vũ trụ bao la!… Tư tưởng tín ngưỡng thần linh bắt nguồn có từ đấy. Con người trong thời phôi thay ấy, đầu óc họ hãy còn trống rỗng sự nhận thức rất thô sơ; chưa biết phải tìm phương thức nào để chống lại với thiên nhiên, với thú dữ… Do đó, họ đành chịu khuất phục. Bất cứ cái gì thuộc về nhiên giới cũng mang một ý nghĩa thần linh sáng tạo và chi phối cả. Núi, Sông, Cây, Cỏ, Đất, Nước đều có thần linh cai quản. Họ đã thờ thần Sông, thần Núi, thần Thổ địa. Sự thờ cúng không ngoài việc cầu phúc tiêu tai; nếu chẳng may có sự rủi ro xảy đến, họ tín đã có thần linh che chở, độ trì. Tục lệ này hiện nay vẫn còn thịnh hành ở khắp dân gian. Ngoài ra, những ngày Tết Trung Thu (15 – 8 Âl) tết Đoan Ngũ (hay Đoan Ngọ), 5 – 5 Âl và các ngày Sóc, Vọng, Hối, Huyền, cũng được người ta duy trì một cách thản nhiên. Các tệ đoan khác, như xin quẻ, xem bói, đốt vàng mã vv… cũng đều chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng Đa thần giáo cả. Đấy phải chăng là do thành kiến xưa còn rớt lại, hay tại tim óc người ta hãy còn đúc đặc bởi một tệ đoan ám ảnh. Những người theo lối tín ngưỡng này, phần đông là dân tộc thiểu số, miền rừng núi.

Thấy sao tin vậy.  Đây là trạng thái tâm lý của lớp người hãy còn mang nặng đầu óc tín ngưỡng thần thoại dị đoan.  Nhưng, khi trí óc con người đã nẩy nở, thì quan niệm về thần linh cũng được xét lại, theo một chiều hướng mới. Dưới đây ta hãy sơ lược xét về quan niệm ấy.


---o0o---
Nhất thần giáo (monothéisme)

Trình độ trí thức con người lúc này đã cách biệt hẳn trước nên sự tín ngưỡng cũng xoay chiều. Họ giảm lòng tin đối với các vị thần, để đặt niềm tin vào một vị Thượng Đế xa vời, do óc tưởng tượng của con người sáng tạo ra.



A.  Bà La Môn Giáo (Brahmanisme)

Tôn giáo này thoát thai từ một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ là Rig Véda, có cách đây khoảng bốn nghìn năm, do người Aryen chủ lập.

Căn cứ trong thánh thư Védas thì sự tín ngưỡng duy nhất của tôn giáo này là thờ thần BRAHMA = Phạm Thiên (linh hồn của vũ trụ), vị thần hằng có đời  đời. Brahma là căn thể của vũ trụ, hết thảy vạn tật đều do Brahma sáng tạo. Vì Brahma là vô thủy vô chung. Đấy là quan niệm lúc ban sơ, nhưng qua nhiều cải cách, và hiện nay, thánh thư mỗi ngày một tạo dựng thêm, do đó ý niệm của con người (ngày nay) về một “đấng tối cao” không còn giống như trước nữa. Trong bộ Tế Nghi Thư (Brahma na) cho rằng, đấng Chủ Tể sáng tạo vũ trụ thế giới này là thần PRAJPATI. Và xét trên nguyên lý thì Prajapati với Brahma là một thể, đồng nhất tính.

Triết lý hình nhi thượng của thuyết “Prajapati” trong Thánh thư Brahmana, cho ta thấy: Prajapati từ chỗ vô hình biến thành hữu hình. Hay nói khác, từ trừu tượng trở thành hiện thực, nghĩa là từ cái Không, đi đến cái (trong cái không nó có một động tính; rồi từ cái động tính ấy nảy sinh hiện thực là thời gian và vạn vật) Nhưng trong bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishad) lại thường đề cập đến thần ATMAN, vì Atman là hiện thể của thần tối cao Brahma. Atman là hơi thởsinh khí có bàng bạc trong không gian và cả trong vật thể nữa. Con người là một tiểu linh tính nằm trong cái đại linh tính của Brahma. Thuyết lý này đã đưa Brahma lại gần với con người, đưa ngay vào trong con người, tức là đặt con người bình đẳng đấng Brahma. Những tín đồ tôn giáo này đều tin rằng: Vũ trụ lúc ban – xin nhấn mạnh: lúc ban sơ – là do một vị (tức đã nhân cách hóa: Personnification) sáng tạo ra. Về phương diện tu dưỡng thì thánh thư dạy con người phải xả Ác hành Thiện, để sau khi chết (sẽ) được thần đón về thiên cung, hưởng cuộc đời hạnh phúc, sống trong cảnh huy hoàng lộng lẩy; bằng ngược lại, nếu bình sinh không chịu tu phúc, không tin theo lời dạy của vị giáo chủ thì vẫn phải đày xuống hỏa ngục, chịu muôn nghìn thống khổ, và vĩnh kiếp khó mà thoát ra!…


B.  Cơ Đốc Giáo (Christianisme)

Đạo này được thành lập đến nay đã gần XX thế kỷ, sau khi Jésus ra đời, và do sự cải cách một tôn giáo cổ Do Thái.

Chiếu theo “Cựu Ước và Tân Ước”, người ta tìm thấy ở giáo lý của giáo hội Cơ Đốc: “Thuở sơ khai, khi vũ trụ còn là một khoảng không mênh mông mờ mịt!… nhờ có trí tuệ, tài năng và quyền phép (sẵn có ) của Chúa Trời; trong bảy ngày đêm Ngài đã tạo thành bầu trời, các vì tinh tú, trái đất, núi, sông, cây cỏ, người và vật; mà lần đầu tiên con người có mặt trên trái đất là ông Adam và bà Eva, kết cục hai người lấy nhau. Sau vì phạm trái cấm, nên bị chúa phạt, từ đấy về sau con cháu đời đời bị buộc vào “Tội Tổ Tông”. Những người theo Cơ Đốc giáo đều tin tưởng ở ba ngôi:

+ Đức Chúa Cha: Thượng đế (Diêu);

+ Chúa Con (Jésus);

+ Chúa Thánh Thần (Saint Esprit)    

Và, theo họ nhận định thì, “Thiên Chúa là đấng Tự hữu”. Nghĩa là, không có ai sanh ra Chúa cả. Vì, Chúa là đấng thiêng liêng vô hình vô ảnh, phép tắc vô cùng! Nếu ai biết thờ phục Chúa vâng lời Chúa, làm những điều nhân đức… đương nhiên được Chúa nhìn nhận ban phúc lành cho, và được Chúa đưa lên thiên đường; vĩnh viễn không bao giờ phải sa đọa địa ngục. Như trên, cho ta thấy, lập luận của Cơ Đốc giáo về nguyên lai vũ trụ này là do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà có…


C. Hồi Giáo (Islamisme)

Giáo chủ đạo Hồi là Mohammet (570 – 632), lúc thiếu thời ông sống cuộc đời bình thường như mọi người khác, chưa có dấu hiệu nào tỏ ra là người xuất chúng, hơn đời; sau trở nên một đại điền chủ nhờ cuộc kết hôn với một người góa phụ…

Ông đã bỏ ra mười lăm năm để tìm một con đường cải cách tôn giáo và xã hội cho dân Arabe. Năm 630 TL kể như đánh dấu năm đầu của kỷ nguyên Hồi giáo. Kinh Coran coi như một thánh kinh Thiên Chúa thu nhỏ, trong đó gần như y nguyên những tên Thánh, tên Đất. Kèm theo phần phụ lục lời dạy của đấng tiên tri Mohammet (cũng gọi là Muhamad) được dùng ở các quốc gia Hồi giáo như bộ luật hành chính, giảng luân lý vv… gồm 114 chương (surate).

Hồi giáo là một tổng hợp Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo. Chính Mohammet cũng không giấu điều này, và tự xưng mình là đấng tiên tri và gọi các giáo chủ khác (như Jésus) cũng chỉ là đấng tiên tri như mình thôi.

“Hồi giáo thịnh hành ở Trung Á, Tây Á, Bắc Phi, Thỗ Nhĩ Kỳ và miền Tây bắc Trung Hoa (Mahométisme Islamisme)”, HVTĐ.

Hơn 300 năm sau, Sa hoàng Piotr muốn thành lập cho nước Nga một tôn giáo, liền tổng hợp một lần nữa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, tự xưng là Chính thống giáo – Orthodoxie – để tránh phải mang cái tên có tính cách kỳ thị như Protestant: kẻ chối bỏ (Tin Lành) Evanggéliques hay Judaime Phản thệ giáo (Do Thái giáo). Ông cho rằng mình đã chọn giữa hai thái cực: một đằng được lấy nhiều vợ mà kiêng có rượu (Hồi giáo) và đằng kia có nhiều rượu mà không có đàn bà (Thiên Chúa giáo).

Trong 5 điều răn của đạo Islam (tên mới tự xưng của tín đồ đạo Hồi ở VN) thì có hai điều giống như đạo Phật: 1. Cấm uống rượu, triệt để hơn PG. 2. Bố thí, không cần phải hô hào, huy động mà đó là một “luật”. Đối với tất cả tín đồ, có phương tiện sinh sống dư giả, thì đến mỗi cuối năm phải trích ít nhất một phần năm (1/5) số lợi tức trong năm đem ra phân phát cho người nghèo khó nhất của cộng đồng mình cư trú. Trong một trăm năm, Islam đã truyền bá đạo bằng bạo lực. Mohammet thua trận và chết năm 632.

Người Thiên Chúa giáo và Hồi giáo đã nuôi một mối hận thù khôn nguôi, khi mà tám đội viễn chinh Thập tự quân: Croisade liên tiếp đánh chiếm các nước Arabe từ thế kỷ XI tới thế kỷ XIII, rồi các nước Âu Châu đi xâm lược thuộc địa Arabe ở thế kỷ XIX.

Nói tóm lại, từ ngành ngôn ngữ học người ta biết rằng tiếng Sanskrit là nguồn gốc của các ngôn ngữ Âu Châu để rút ra kết luận người Aryen, một bộ tộc thời cổ mà địa bàn sinh sống là phần lớn nước Ấn Độ, dưới chân rặng Caucase và rặng Hymalaya, là tổ của giống dân da trắng ngày nay.

Tiếng Do Thái, tiếng Arabe thuộc họ (Ấn Âu – Indoeuropéenne cùng phả hệ Inđo européenne Sanskrit) Sémetic, gồm có tiếng Accadian, Ai Cập cổ, Aramaic v.v…

Đạo Bà La Môn: Ăn chay, thường cúng tế.

Đạo Do Thái: năng cúng tế, ăn chay, kiêng sát sinh, không được làm nghề bán thịt, nghề đồ tể.

Do Thái giáo Thái là tổ phụ Moise, Abraham, tổ của Jésus. Theo thứ tự niên đại, Bà La Môn giáo, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Chính Thống giáo, Anh Quốc giáo, (Anlicean), Tin Lành đều thờ chung một Thượng Đế (hay chúa Trời) nhưng danh xưng có khác: Bà La Môn: Brahma; Do Thái giáo: Jehovah; Thiên Chúa giáo: Dieu; Hồi giáo: Allah; Anh Quốc giáo; God.

Nhận xét chung của một số nhà Thần Học Arabe và Tây phương: giáo lý gần như giống nhau, chứng tỏ Đấng Cứu Thế chỉ có Một (đạo nào cũng thế) Và cũng của các nhà thần học ở cuối thế Kỷ XX: Tất cả các Tôn giáo lớn rồi ra sẽ như những mạch suối cùng chảy vào một biển lớn; chỉ một tôn giáo nào đó có đạo đức làm chuẩn mực, nghĩa là bao hàm những điểm chính của tất cả các “đạo” và giáo lý mang nội dung tư tưởng triết học hợp với con người thời đại hơn (Phật giáo)

Đứng về phương diện luân lý, tâm lý để nhận xét, thì các tôn giáo trên đây vẫn có sự lợi ích trong việc khuyên người, dạy người làm lành tránh dữ, những ảnh hưởng tốt cho xã hội hiện tại và mai sau. Tuy nhiên, đối với Bản Thể Luận, thuyết thần tạo – thần sinh ra vũ trụ, vạn vật đương còn mơ hồ và huyền bí lắm!
---o0o---
Đạo Học

Đạo Khổng (Confucianisme)

Những đạo học có danh tiếng ở Á Đông, truyền bá đi các nước lân cận, trước hết, ta phải kể đến đạo Khổng. Đức Khổng phu tử, vị hiền triết Trung Hoa, sinh năm 551 – 479   TTL, thời xuân thu. Chiến Quốc, dưới triều đại nhà Chu. Ngài đã từng nhiều tháng năm luân lạc… mà không một nơi nào trọng dụng, sau đành quay về nước Lỗ dạy học và soạn sách, học trò theo học có đến 3000 người. Trong việc soạn thảo sách, Ngài lấy “Quan Thư cổ xưa để chỉnh đốn lại làm bộ kinh Thư, lấy thi ca các đời trước đặt lại thành kinh Thi, san định kinh Lễ, kinh Nhạc và làm kinh Xuân Thu là lịch sử nước Lỗ”. Người ta bảo Khổng tử chỉ là người “thuật nhi bất tác” Chính Ngài cũng thừa nhận điều đó.

Đạo Khổng thành lập không phải do Ngài – mà phần lớn. Ngài chỉ là người thu nhập những gì tinh tuy nhất của Tiên Nho; rồi cải cách những tư tưởng ấy làm thành một triết lý, luân lý thực dụng cho xã hội nhân sinh. Khởi điểm của đạo Khổng là vấn đề quyết định sự tương quan giữa thực tại với tư tưởng để hòa đồng cái tiểu ngã người đời vào cái đại ngã của vũ trụ – lý tưởng thái hóa. Trước hết, Khổng Tử nhìn vũ trụ là một “Thể vô cùng” tức là trong mỗi vật hữu hạn đều có nằm sẳn cái thái cực vô hạn (lý thái cực), nó bàng bạc chu lưu khắp cả… “Dịch hửu thái cực, thị sinh lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh tứ tượng; tứ tượng sinh bát quái, biến hóa vô cùng.”

– Lý thái cực (Impersonnel) mà cổ nhân đã bàn trong kinh Dịch, gồm 64 quẻ, 384 hào, do trí quan sát, kinh nghiệm tìm ra từ đời Phục Hy. Thần Nông để thuyết mình sự tương quan giữa vũ trụ và vạn vật trong trường thiên diễn vô cùng phức tạp… song qui định lại, gồm có ngũ hành tương sinh, tương khắc, tuần tự sinh thành ra “Bốn tượng”, Tám quẻ:

– Càn :trời.

– Khảm :nước, mặt trăng.

– Cấn :núi đá.

– Chấn :sấm.

– Tốn :gió, mưa.

– Ly :lửa, mặt trời.

– Khôn :đất.

– Đoài: kim khí và do sự phối hợp của Âm, Dương, (lưỡng nguyên) làm thành tượng hình bằng những nét gạch liềnđứt (tổng hợp). Mỗi quẻ tượng hình cho một trạng thái tương quan nối liền giữa Trời, Đất, Người.

“Dịch”, nghĩa là động, biến dịch, vì khởi thủy có sự vật là có động. Động, là lẽ Sống của vũ trụ. Với luận lý này, đạo Nho không có ý mong chiến thắng tạo hóa mà chỉ cốt dịch hóa nó, theo luật tiến hóa chung = “Ngô đạo nhất quan chi” (luận ngữ)

Trong những kinh sách Nho gia tuy có nói đến chữ “thiên”, song không hẳn có nghĩa chỉ Ông Trời = “Thiên đạo chi vị tính, xuất tinh chi vị đạo” Nghĩa là, “cái khuynh hướng tiềm tàng trong trời đất gọi là Tính, noi theo cái tính ấy mà hành động thì gọi là Đạo”, Nhân tính với thiên tính là một. Thiên đạo là luật điều khiển sự tiến hóa của xã hội và con người…

Đạo Khổng xây nền móng trên một nhân sinh quan bắt đầu bằng chữ “Thành”. Sống trong một xã hội loạn ly, bất công, muốn cải tạo nó tất phải có một đường lối (chính trị) hợp thời, nên Khổng Tử đã đặt ra “Tam Cương, Ngũ Thường” để ổn định tình thế.

Ở sách Lễ Ký có ghi lời đức Khổng Tử so sánh trạng thái xã hội Trung Hoa gồm: – “một xã hội đại đồng” (Tam hoàng: Phục Hy, Thần Nông Hoàng Đế) và – “một xã hội tiểu khang” (ngũ đế Vũ, Thang, Văn Vũ, Thánh Vương, Chu Công). Ngài ra đời mang hoài bão cải hóa những đảo điên của thời đại “Xuân Thu” loạn lạc.  Đứng về phương diện luân lý, đạo Khổng khuyên con người: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, vì thân có tu, gia mới tề, quốc mới trị, thiên hạ mới thái bình. Đó là những yếu lý nhằm ổn định cuộc sống xã hội con người muôn thuở.


---o0o---
Đạo Lão (Taoisme)

Người sáng lập Đạo là đức Lão Tử (Lao Tzu), tên Đam, sinh năm 604 TTL. Trong thời niên thiếu, Lão Tử chưa viết sách để truyền bá tư tưởng của mình; mãi về sau, Ngài mới viết cuốn Đạo Đức Kinh (gồm 81 chương có hơn ngàn lời), Học thuyết Lão Tử rõ ràng pha mầu sắc yếm thế – lý tưởng Đạo Lão là lý tưởng siêu nhiên -nhìn cuộc đời như một cuộc bất đắc dĩ (…) Đối với uyên nguyên của sự vật chỉ (được) coi như một khối “tinh vân” mà Lão Tủ mệnh danh là “Đạo”(Bản thể), nó vô hình, vô hạn, ở ngoài không – thời gian, muôn nghìn hiện tượng cũng do “Đạo” biến hóa ra. Bất kỳ vật gì trong trời đất điều có cái Đạo ấy ở trong và cùng với Đạo là một thể = “Hửu vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh” (25).

Nếu có phải gọi vật tiên thiên ấy là “Đạo”, đó chỉ sự miễn cưỡng mà thôi. Theo Lão Tử thì, “vật tiên thiên” sinh ra vũ trụ vạn vật chỉ là một vật không tên = Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết “Đạo” (25).

Đạo Lão nhìn sự vật trong cõi đời chỉ như là tuồng ảo hóa, không khác giòng nước chảy từ nội giới ra ngoại giới, hết lớp này đến lớp kia “liên miên bất tuyệt!”. Có đấy rồi không đấy. Về phương diện tu dưỡng, đạo Lão khởi lập một thuyết gọi là “Vô Vi”, tức là hành vi của vô ngã, của thân thể, căn bản tính. Cái hành vi ấy gọi là Đức; có ý khuyên người ta trở về với đạo đức, với trạng thái thuở ban sơ cho tâm hồn được vắng lặng trong sạch, nghĩa là tách biệt giữa ngã và vô ngã, để sống cuộc sống thanh cao, có ý nghĩa hơn. Trên con đường tìm sự thật, đạo Lão đã hướng dẩn ta đến cái Đẹp và cái Thực, đó là đạo đức và chân lý.


---o0o---
Triết Học
Ở thời kỳ sơ khai, những tư tưởng lạ đã sớm lởn vởn trong đầu óc người ta, với bao cảnh tượng kỳ bí của thiên nhiên, muôn vật đổi dời; tất cả hiện tượng phôi bày ra ấy, chẳng biết có tự bao giờ.

– “Tâm” ư! “Vật” ư! hay “Thiên nhiên” ư!

– Nguồn gốc của vũ trụ là gì?

Đấy là những vấn đề đã làm chảy rất nhiều mực của các bậc hiền triết xưa cũng như nay!

Ngay từ thượng cổ thời đại, các triết gia đã lần lượt xuất hiện và đã lập ra những hệ thống tư tưởng triết học không giống nhau; đã một thời làm mưa làm gió tại các lục địa Trung Hoa – Ấn Độ, Cận Đông và Địa Trung Hải. Khoảng bốn nghìn năm về trước, ở Đông phương, nhất là Ấn Độ, quan niệm về triết học đã có. Lịch sử triết học Ấn Độ, trước thời đức Phật, nguồn tư tưởng triết lý đã có hàm chứa trong các thánh thư Védas. Về sau càng được khai triển thêm qua các bộ thánh thư Brahmana, Aranyaka, Upanishad… Bộ Brahmana (Tế Nghi Thư) gồm những bài thánh ca tán dương công đức và sự nghiệp vĩ đại của thần chúa tể Brahma (nguyên lý sáng tạo vũ trụ), và ghi những truyện về thần thoại cùng chú giải các điển tích cao đẹp các bài thánh ca. Bộ Aranyaka (Sấm Lâm Thư) là ghi chép những triết lý huyền nhiệm và các phép bí truyền của đạo… Bộ Upanishad (Áo Nghĩa Thư), nhằm giải thích những thánh ngữ và yếu chỉ của đạo. Upanishad còn có tên là thánh thư Vedanta, tức thâu tóm những đoạn văn chính yếu trong hai bộ Tế Nghi Thư và Sấm Lâm Thư. Bộ Vedanta được liệt vào loại “thánh thư mặc khải”.

Những thuyết lý về vũ trụ vạn vật của các hệ phái sau này mỗi ngày càng đi xa với bản chất nguyên thủy của nó. Chẳng hạn, trước kia người ta thừa nhận Brahma là nguồn gốc của vũ trụ, thì nay lại cho vũ trụ hình thành là do các yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa, Không khí… Phái khác nói: do các Tính Có – “Đại Linh Tính” phát sanh ra vật chất, ra tính cách, ra nghiệp lực,… rồi các tính ấy kết hợp tạo thành muôn vật, lần lần vượt lên chỗ trừu tượng; có những phái xướng ra Không Gian Luận, Thời Gian Luận, Phương Hướng Luận… bao nhiêu tư tưởng trào ra, làm hổn loạn một thời!

Kế đó là đạo Phật ra đời, đã tổng hợp các luồng tư tưởng Ấn Độ, tạo thành một triết lý sống (philosophie de la vie), lấy Con Người (Nhân Bản) làm mực thước để giải quyết mọi cấn đề về cả nội giới lẫn sự kiện khách quan thế giới bên ngoài. Con người là tất cả. Vì, có con người cho nên mọi vấn đề – tức khuôn mẫu sống ở đời – mới cần phải đặt ra. Con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái đại vũ trụ. Thế giới này càng mở rộng chừng nào là do tầm hiểu biết của con người, mà có. Và do vậy rõ ràng đạo Phật là một triết học siêu triết học. Vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch, nền triết học Đông phương, bắt nguồn từ tư tưởng đạo Phật, đã thẩm nhập vào đại lục địa Trung Hoa, để cùng với các trào tư tưởng Khổng – Lão… tạo thành một nền triết học đại đồng phồn thịnh, không chỉ dành riêng cho Ấn Độ -Trung Hoa mà còn cho cả Á Đông và toàn thể thế giới nửa.

Nhìn về phía trời Tây, triết học được bắt rể từ Hy Lạp, chuyển dịch qua Đại Tây Dương và cho ta thấy, hai nguyên tắc chính để cắt nghĩa hiện tượng vũ trụ, tức vấn đề nhận thức và hành động. Sự hiểu biết của con người là do trí tuệ; rồi từ trí tuệ dẫn đến hành động (thực nghiệm). Nhưng, hàng động như thế nào đấy lại là một việc khác (xin sẽ bàn ở phần khoa học).

Những triết gia Tây phương đầu tiên, ta phải kể đến PYTHAGORE, một nhà toán học kiêm triết học ở thế kỷ VI TTL, là  người đã sáng tạo ra danh từ Triết học “Philosophie” Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ IV TTL là thời kỳ phôi thai của nền triết học Tây phương, những triết gia sau đây đã cùng nhau đi tìm nguyên nhân tối sơ của vũ trụ; với THALÈS (640 – 547) bảo là “Nước”, nhưng HÉRACLITE (576 – 480) lại nói là “Lửa” còn ANAXIMÈNE (480 TTL) thì cho là “Không khí”, phái triết học Tự Nhiên Luận thiên về việc quan sát, giải thích vũ trụ hiện tượng như PYTHAGORE (580 – 500), lấy những con số để hình dung vũ trụ. ZÉNON (IV TTL) nhìn nhận khởi thủy vũ trụ là do Những Gì Im LìmTĩnh” nghĩa là không chuyển động, không biến đổi; những con số, những sự hoạt động đều chỉ là những bề ngoài không có trong thực tại.

EMPÉDOCLE (IV TTL) thì thì công nhận trong vũ trụ cả thảy có 6 yếu tố: trong đó có chất: nước, lửa, đất, khí trời và 2 lý trừu tượng là tình yêughen ghét. LEUCIPPEDÉMOCRITE (hai triết nhân này sinh đồng thời TTL V thế kỷ) với thuyết Nguyên Tử Luận, cho rằng vũ trụ là do những hạt nhỏ (nguyên tử) kết cấu thành…

Như trên, cho ta thấy, mỗi phái luận giải khác nhau, tựu trung chân lý chưa có một “thuyết” tương quan! Cái không khí hoài nghi đến cực độ đã bao trùm khắp cả… Lúc ấy nhà hiền triết SOCRATE (470 – 339 TTL) đứng ra cách mạng tư tưởng đương thời, đưa triết học Hy Lạp trở về con đường “nội tỉnh = connais toi toi meme”. Nghĩa là, “đưa triết học con  đường thuần trí thức trở về con đường hành động, con đường chân lý, đạo đức, lấy Người làm đối tượng nghiên cứu…” Tiếp nối sự nghiệp vĩ đại của SOCRATE, có PLATON (428 – 347 TTL) và ARISTOTE (384 -322 TTL), tuy mỗi người mỗi khuynh hướng, nhưng vẫn dung hợp với nhau trên cùng mụch đích chung, đó là: đi tìm cái Chân và Thiện, tạo cho triết học Hy Lạp một thời long thịnh.

Vào thời trung cổ, triết học Tây phương như bị chìm ngập trong những kinh điển học qui, lấy tư tưởng Sáng Thế làm tâm điểm, thời kỳ của “đức tin” và tình cảm ru ngủ!… Nhưng qua thời cận đại DESCARTES (1596 -1656) đã nêu cao lý trí để phản động lại tình cảm ru ngủ thời xưa. Ông đã dùng “phương pháp luận” để chứng minh cho “sự vật nào” mà quan niệm rõ ràng, đều là chân lý, Ông coi vũ trụ là một dây nhân quả vô cùng tận. Qua DESCARTES, người ta đều nhận thấy “Tâm, Vật song hành”, là khởi điểm cho hai phái thuần lý do HÉGEL (1770 – 1831) và HAMELIN (1856 – 1907) dẫn đạo, và phái thực nghiệm do Auguste COMTE (1798 – 1857) và SPENER (1820 – 1903)…

Tới đây thì triết học đã đánh dấu một lối rẽ rõ rệt: Vấn đề Duy Tâm và Duy Vật; Chủ Quan với Khách Quan v.v..

Phái Duy Tâm cực đoan, có BERKELY (1685 – 1753), Emmauel KANT (1724 – 1804), HÉGEL (1770 – 1831)… Nhà triết học Đức (Kant) là một trong những người thuộc phái quyết đoán tin tưởng vũ trụ cần phải có sự hiện diện của Trời, mọi vật mới an bài. Rồi suy diễn: tin có Trời, ta có thể hy vọng hưởng một cuộc đời bất diệt đầy hạnh phúc – Vì, Trời là chủ động chứ không thể là thụ động. Còn, HÉGEL lại cho rằng “Tất cả những gì thực tại đều Duy Lý = Tout ce qui réel est rationnel”. Những phái Duy Vật cực tả, như DÉMOCRITE (V TTL), FEUERBACH (1775 -1833), MOLESCHOTT (1820 – 1897), Karl MARX (1818 – 1883) và ENGELS (1820 – 1897)… với một phong trào tích cực phản siêu hình, theo phái này thì, sự hiện hữu của Trời trong vũ trụ là điều không bao giờ có được. Những yếu điểm của chủ nghĩa Duy Vật là đưa vật chất lên hàng vạn năng. Đấy là nguyên nhân khởi thủy của mọi vận động vũ trụ và xã hội. Về phương diện nhận thức khách quan, phái này dùng Biện Chứng pháp (gọi là biện chứng pháp duy vật) làm công cụ khám phá của loài người; đồng thời khích động phong trào giai cấp đấu tranh làm luật tắc vận hành của lịch sử. Do đó, thuyết duy Vật chủ nghĩa thường lấy sự tranh đấu làm mục đích cho mọi lẽ sống.

Trên đây mới chỉ trình bày những nét đại cương của nền triết học Tây phương cũng đã hé mở cho ta thấy sự phân định thành những hệ thống Duy Tâm, Duy Vật… Nhưng từ thế kỷ XIX – XX.thì triết học thực nghiệm ,chỉ còn lại siêu hình biện chứng pháp,luận lý.v.v..

Vấn đề tìm hiểu vũ trụcon người, qua các Tôn giáo, đạo học, triết học – như đã trình bày – đấy chỉ mới là những tia sáng. Rút lại, vấn đề đạt ra vẫn y nguyên là một vấn đề nan giải.

*Tìm ở Tôn giáo – Tôn giáo bị thần thánh hóa.

*Tìm ở Đạo học – Đạo học giải thích với những lý tưởng siêu hình, khó hiểu!

*Tìm ở Triết học – Triết học có những hệ phái, và mỗi hệ phái giải thích một khác; hơn nữa, triết học đang trong vòng tìm kiếm, suy luật nên dễ bị ràng buộc trong những phạm trù học qui, càng khó hiểu hơn.

Là những kẻ đi tìm đường, càng đi sâu vào khu rừng Tôn giáo, triết học ta càng lạc lối thêm! Vẫn biết, không phải hễ đi tìm đường là tới đích, phải lượng sức mình, và phải có sự tuyển trạch của lý trí, nếu không… (thưa bạn) – hãy coi chừng! Trí xét đoán là mực thước cho tất cả. “Phải làm như con ong hút mật, đừng làm theo con bướm giỡn hoa”, Ta không thể ỷ lại hay nhắm mắt tin theo bất cứ cái gì, ngoài sự nhận thức khách quan, phù hợp với lẽ phải, tạo thành hạnh phúc cho mình và cho mọi người chung quanh.

Giờ đây, chúng ta hãy du hành qua địa hạt Khoa họcđạo Phật để thử tìm ở đấy lối thoát, một sự trả lời cho những nghi vấn kia.
---o0o---



tải về 1.23 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương