PHẬt giáo vấN ĐÁp the Buddhist Catechism



tải về 0.51 Mb.
trang5/5
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích0.51 Mb.
#6621
1   2   3   4   5

PHỤ LỤC

Bản văn gồm 14 điều tin tưởng sau đây được chấp thuận xem như là những nguyên tắc căn bản của cả hai hệ phái Nam và Bắc Tông Phật giáo, bởi các ủy ban có thẩm quyền mà qua đó, nó đã do tôi đích thân đệ trình; và bản văn này mang nhiều tánh cách lịch sử trọng đại đến nỗi, lần xuất bản Cuốn “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) kỳ này, nó đã được tôi cho in thêm vào phần Phụ Lục (Appendix).

Rất gần đây, hoàng thân Ouchtomsky, nhà học giả Đông Phương ngưòi Nga, đã thông báo cho tôi biết rằng bản văn trên đã được dịch ra tiếng Nga; và những vị Lạt Ma trụ trì các ngôi chùa lớn Phật Giáo Mông Cổ đã bày tỏ cho hoàng thân rõ là họ chấp nhận mọi điều đề nghị đã soạn thảo, ngoại trừ một điểm về ngày đản sinh của Đức Phật, thì vị Lạt Ma tin rằng có thể là một vài ngàn năm sớm hơn cái ngày tôi đã cho. Sự kiện ngạc nhiên này, cho đến nay, tôi cũng chưa từng biết đến. Có thể chư Tăng Mông Cổ đã nhầm lẫn về thời kỳ đích thực của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) đản sinh với thời đại của vị Phật trước Ngài chăng? Dù thế nào, thật là điều khích lệ nhất để có thể nói rằng Phật giáo toàn thế giới hiện nay đã thống nhất trên một phạm vi, ít ra là của 14 điều đề nghị này.

NHỮNG ĐIỀU TIN TƯỞNG CĂN BẢN 
CỦA PHẬT GIÁO

I.- Người Phật tử được giáo huấn nên bày tỏ đức tính khoan dung, nhẫn nhục và tình thương huynh đệ không có sự phân biệt đối với tất cả mọi người, và lòng từ tâm quảng đại đối với các phần tử của thế giới loài vật.

II.- Vũ trụ tiến hóa không phải được sáng tạo, và nó hoạt động theo luật (thiên nhiên), không do sự quyết định của bất cứ đấng Thượng Đế (God) nào.

III.- Chân lý mà trên đó Phật Giáo được xây dựng, là tự nhiên. Chúng ta tin rằng giáo pháp ấy được thuyết giảng trong nhiều kiếp (Kalpas) liên tục, bởi các bậc đã giác ngộ gọi là chư Phật; danh từ Phật có nghĩa là “giác ngộ”.

IV.- Vị giáo chủ thứ tư trong đời Hiền Kiếp là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama Buddha), người đã sanh ra trong một gia đình hoàng tộc tại Ấn Độ vào khoảng (hơn) 2500 năm trước. Ngài là một nhân vật lịch sử, và tên của Ngài là Tất Đạt Ma Cồ Đàm (Siddhartha Gautama).

V.- (Đức Phật) Thích Ca Mâu Ni dạy rằng vô minh phát sanh ái dục, lòng dục vọng không biết nhàm chán là nguồn gốc của sự luân hồi; và luân hồi, nguyên nhân gây ra phiền não. Cho nên, muốn không còn phiền não, cần phải giải thoát luân hồi, cần phải chấm dứt ái dục; và muốn chấm dứt ái dục, cần phải diệt trừ vô minh.

VI.- Vô minh nuôi dưỡng đức tin rằng luân hồi là điều cần thiết. Khi vô minh đã diệt trừ, sự vô dụng của luân hồi xem như tự nó chấm dứt, được nhận thấy; cũng như nhu cầu cùng tột trong việc thừa nhận một dòng sống mà qua đó, điều cần thiết cho sự tiếp diễn luân hồi như thế, có thể chấm dứt. Vô minh cũng khiến con người có ý niệm sai quấy, phi lý cho rằng đời người chỉ có một kiếp sống; và nhận thức lầm lạc khác tin rằng, cuộc sống này sẽ được tiếp nối theo sau bởi những trạng thái bất biến của hạnh phúc hoặc khổ đau.

VII.- Việc dứt trừ tất cả vô minh có thể đạt tới bằng sự kiên trìthực hiện đức tính vị tha rộng khắp trong hành động; phát triển tánh sáng suốt, trí huệ trong ý tưởng; và đoạn diệt các dục vọng nhằm đến những thú vui cá nhân thấp hèn.

VIII.- Lòng tham dục muốn sống là nguyên nhân của luân hồi, khi dục vọng không còn thì luân hồi chấm dứt ; và nhờ thiền định, con người toàn thiện đạt tới trạng thái cao siêu nhất của sự an tịnh gọi là Niết bàn (Nirvana).

IX.- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng con người có thể xé tan vô minh và đoạn diệt phiền não, nhờ ở sự giác ngộ về Tứ Diệu Đế như sau:

1) Hiện hữu của những sự khổ;

2) Nguồn gốc phát sinh sự khổ, đó là lòng dục vọng, mong được luôn luôn đổi mới, nhằm thỏa mãn chính bản thân mà không bao giờ có thể đạt tới sự chấm dứt;

3) Sự diệt trừ lòng ái dục hay tự mình tránh xa nó.

4) Phương pháp thành tựu sự đoạn diệt lòng ái dục. Những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy gọi là Bát Chánh Đạo; đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. 

X.- Chánh định dẫn đến sự giác ngộ tâm linh, hay phát triển Phật tánh (khả năng thành Phật) mà nó tiềm ẩn ở mọi người.

XI.- Tinh hoa của Phật giáo; mà chính Đức Như Lai (Phật) đã tóm lược trong bài kệ là:

Chớ làm điều ác,

Nên làm việc lành,

Giữ tâm ý trong sạch.

XII.- Vũ trụ tùy thuộc vào luật nhân quả tự nhiên gọi là Nghiệp (Karma). Hành động thiện hay ác của con người trong những kiếp trước quyết định cuộc sống của y trong đời hiện tại. Vì vậy mỗi người đã tạo nên những nguyên nhân của mọi kết quả mà hiện nay họ phải lãnh thọ.

XIII.- Những trở ngại cho sự đạt tới thiện nghiệp có thể diệt trừ bằng cách thọ trì các điều răn sau đây mà chúng bao gồm trong giới luật đạo đức của Phật giáo, đó là: 1/ Không được sát sanh, 2/ Không được trộm cắp, 3/ Không được tà hạnh, 4/ Không được nói dối, và 5/ Không được dùng chất làm say, và loại thuốc hay rượu làm ngây dại, đê mê. Năm giới cấm khác mà chúng không cần kể ra đây, nên được thọ trì bởi những ai muốn đạt tới, nhanh chóng hơn người thường cư sĩ tại gia, sự giải thoát khổ đau và luân hồi.

XIV.- Phật giáo không khuyến khích tính cả tin (dị đoan mê tín). Đức Phật Cồ Đàm dạy rằng bổn phận của cha mẹ là giáo dục cho con cái hiểu biết khoa học và văn chương. Ngài cũng dạy rằng mọi người đừng nên tin vào điều gì do bất cứ thánh nhân nào thuyết giảng, ghi chép ở kinh sách, hay được thừa nhận bởi tập quán, trừ khi điều đó phù hợp với lý trí. 

Bản dự thảo được xem như nền tảng chung mà tất cả mọi Tông Phái Phật Giáo đều có thể đồng ý.

H.S. Olcott


 
 

THƯ MỤC 

Cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp (The Buddhist Catechism) đã soạn ra do sự nghiên cứu riêng (của tác giả) tại Tích Lan (Ceylon), và được tham khảo các sách dưới đây.

Vinaya Texs... Davids and Oldenberg.

Buddhist Literature in China... Beal.

Catena of Buddhist Scriptures... Beal.

Buddhaghosa’s Parables... Rogers.

Buddhist Birth Stories... Fausboll and Davids.

Legend of Gautama... Bigandet.

Chinese Buddhism... Edkins.

Kalpa Sutra and Nava Patva... Stevenson.

Buddha and Early Buddhism... Lillie.

Sutta Nipàta... Sir Coomaraswami.

Nàgananka... Broyd.

Kusa Jataka... Steele.

Buddhism... Rhys-Davids

Dhammapada... Fausboll and Max Muller.

Romantic History of Buddha... Beal.

Udanavarga... Rockhill.

Twelve Japanese Buddhist Sects... B, Nanjio.

The Gospel of Buddha... Paul Carus.

The Dharma... Paul Carus.

Ancient India... R. C. Dutt.

The “Sacred Books of the East” Max Muller’s Edition.

Encyclopadia Britannica.

[1]“Tôn giáo” là một danh từ không thích hợp nhất để áp dụng chỉ cho Phật giáo, vì Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là một triết học luân lý, như tôi sẽ trình bày sau.

Nhưng theo cách dùng thông thường, danh từ này (tôn giáo) nhằm áp dụng cho tất cả những nhóm người tự nhận cho nó là một học thuyết luân lý đặc biệt và đã được dùng như thế bởi các chuyên viên thống kê.

Người Phật tử Tích Lan chưa bao giờ có quan niệm về điều như ngưòi Châu Âu ngụ ý dùng trong cách cấu tạo từ nguyên theo nguồn gốc La Tinh của danh từ này. Theo tín ngưõng của họ (Tích Lan), không có điều đó như một sự “ghép lại” trong cái ý nghĩa của Cơ Đốc Giáo - Sự phục tùng hay hòa hợp tự ngã vào với đấng Thượng Đế. Àgama là tiếng bản xứ của người Tích Lan dùng để diễn tả sự tương quan giữa Phật Giáo và Đức Phật. Nó là một danh từ tiếng Phạn (Sanskirt) thuần túy, có nghĩa là “lại gần hay sự đến” còn “Buddha” (Phật) là Giác ngộ, nên danh từ ghép này nhằm chỉ cho Phật Giáo – Buddhàgama - được dùng thật sự để diễn tả cái ý tưỏng “Sự lại gần hay đạt tới sự Giác ngộ” hoặc có nghĩa là đi theo Giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni).

Các nhà truyền giáo tìm thấy có sẵn chữ Àgama đã chấp nhận dùng nó như đồng nghĩa với “tôn giáo”; và đạo Cơ Đốc đã được người Tích Lan viết là Christianàgama, trong khi nó đúng ra viết là Christianibandhana, vì bandhana, theo từ nguyên đồng nghĩa với “tôn giáo”. Từ ngữ Vibhajja Vada, hay ngưòi nghiên cứu – là một danh từ khác dùng để chỉ cho Phật tử, và Adhayuradi là một danh từ thứ ba. Với sự giải thích này, tôi tiếp tục miễn cưõng dùng danh từ quen thuộc khi nói về triết lý Phật giáo cho sự tiện dụng của hàng độc giả bình dân.

[2] Xin xem định nghĩa Thiên thần (deva) sau.

[3] Tường thuật về cuộc thăm viếng này, xin xem sách “Gospel of Buddha” (Chân lý của Đức Phật) của Dr. Paul Carus, trang 20.

[4] Danh từ “Hindu” một từ ngữ tỏ vẽ sự khinh miệt, ngưòi Hồi giáo (Musalmans) dùng để chỉ dân tộc Sindh mà họ đã chinh phục; ngày nay nó được dùng trong cái nghĩa chỉ cho thầy tu(Ấn Độ giáo).

[5] Trong các kinh điển không thấy nói lý do tại sao (Đức Phật) đã chọn hướng này của cây Bồ Đề. tuy nhiên người ta tìm thấy có sự giải thích theo truyền thuyết bình dân, mà nó đã làm nền tảng cho các sách viết của Giám mục Bigander và nhiều nhà bình luận Âu Châu khác. Các phương hướng khác nhau trong bầu trời, chắc luôn luôn có ảnh hưởng đến chúng ta. Đôi khi từ hướng này có ảnh hưỏng tốt nhất, nhiều lúc lại từ hướng khác. Nhưng Đức Phật dạy rằng ngưòi toàn thiện vượthẳn lên trên tất cả mọi ảnh hưỏng bên ngoài. 

[6] Kinh sách Phật ghi chép rằng đấng Phạm Thiên đã thỉnh cầu đức Thế Tôn nên thuyết giảng giáo pháp vi diệu cứu độ chúng sanh.

[7] Đạo Bà La Môn (Bràhmanism) không đựoc thuyết giảng cho những người không theo Ấn Độ Giáo, bởi thế cho nên Phật Giáo là một tôn giáo có đoàn truyền giáo xưa nhất thế giới. Các sứ giả hoằng pháp đầu tiên (của Đức Phật) đã phải chịu đựng nhiều gian khổ, sự tàn bạo và ngược đải với lòng can đảm quả quyết.

[8] Tại Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ hai, vì thế cho nên đã có hai vị đệ tử của Ngài A Nan, sống đến 100 tuổi, và trong kỳ Đại Hội của vua A Dục (Asoka), lại có nhiều vị đệ tử của hai ngài đệ tử của Đức A Nan.

[9] Ông Childers có ý kiến hết sức bi quan về cảnh giới Niết Bàn, xem đó như là sự hủy diệt. Về sau, các sinh viên đều bất đồng ý kiến với ông.

[10] SARANAM – Wijesinha Mudaliar viết cho tôi: “Danh từ này, cho đến nay, đã được dịch một cách rất sai lầm và không thích hợp là Refuge (nơi trú ẩn) bởi các học giả cổ ngữ Pali ngưòi Châu Âu; và các học giả Pali địa phương (Tích Lan) đã không suy nghĩ chấp nhận như vậy. Cả về mặt ngữ nguyên học Pali lẫn triết học Phật giáo đều không biện minh được cho lối dịch thuật này. Refuge, trong ý nghĩa của sự ẩn trốn phía sau hay chỗ ẩn náu là hoàn toàn xa lạ đối với Phật giáo chân chính mà nó đòi hỏi mọi người cần thực hiện sự giải thoát cho chính mình. Ngữ căn Sr. trong  tiếngSanskrit(Sara: tiếngPali)cónghĩalàdichuyển,  đi tới, như thế Saranam diễn tả sự chuyển động, hoặc hành giả hay người ấy đi đến trước hay cùng với kẻ khác – Hướng dẫn viên hoặc người giúp đỡ. Tôi phân tích câu này như sau: Gachchàmi: Tôi đi đến; Buddham: với Đức Phật: Saranam: như bậc hưóng dẫn cho tôi. Cách dịch chữ Tisarana là “Ba nơi ẩn náu” (Three Refuges) gây ra nhiều sự hiểu lầm và tạo nên lý do tốt cho ngưòi chống đối Phật giáo, nhạo báng các Phật tử rằng họ đã phi lý đi tìm nơi ẩn trốn trong sự bất tồn tại (non-entities) và tin tưỏng vào những điều không thực tế. Thuật ngữ refuges (nơi ẩn náu) dùng thích hợp hơn cho ý tưỏng Nirvàna (Niết Bàn) mà Saranam là một tiếng đồng nghĩa. Thượng Tọa Sumangala cũng đã bảo tôi chú ý đến sự kiện rằng nguồn gốc Pali của chữ Sara có một nghĩa thứ hai là sự tiêu diệt (killing) hay điều làm phá hủy. Vậy thì, câu Buddham saranam gachchàmi có thể diễn đạt như sau: “Tôi quy y Phật, Pháp và Tăng như những ngưòi diệt trừ các điều sợ hãi của tôi - trước hết bằng lời dạy của Đức Phật, thứ hai bằng chân lý rõ ràng của giáo pháp, và thứ ba bằng gương mẫu và giới đức của chư Tăng”.

[11] Hình thức này, dĩ nhiên, dành cho cư sĩ tại gia, những ngưòi chỉ phát nguyện giữ 5 giới: Một Tỳ Kheo (Bhikkhu) nên tuyệt đối giữ cuộc sống độc thân (không dâm dục). Do đó, người cư sĩ cũng phải tự buộc mình thọ trì 8 trong toàn thể 10 giới vào những thời gian ấn định; và trong thời kỳ này, hành giả phải giữ giới không dâm dục (độc thân). Ngũ giới Đức Phật chế ra cho tất cả mọi ngưòi. Vì vậy, một ngưòi dù không phải là Phật tử, nhưng sự thọ trì 5 và 8 giới này đều có thể lợi ích cho tất cả. Chính do hành động thọ “Tam Quy” (Three Refuges) đã khiến một người trở thành một Phật tử.

[12] Nghiệp (Karma) được định nghĩa như tổng số các hành động của con ngưòi. Luật nhân Quả đựoc gọi là Giáo Pháp Mười Hai Nhân Duyên (Paticca Samuppada Dhamma). Trong bộ Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Auguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng Nghiệp của Như Lai là vật sở hữu và di sản của Như Lai. Nghiệp của Như Lai là phước huệ thai đã cưu mang Như Lai, là thân quyến và nơi ẩn trú của Như Lai.

[13]Sau lần xuất bản đầu tiên tôi nhận được từ một trong các học giả Pali có uy tín nhất tại Tích Lan, cố học giả L. Corneille Wijesinha Exq., Mudaliar ở Matale, ý kiến về cách dịch thuật ngữ Dhammacakkap-parattana, hình như được hoàn chỉnh hơn danh từ đã dịch trước kia. Ông ta dịch là: “Sự thành lập triều đại của Chánh Pháp”. Giáo sư Rhys Davids thích dịch “Nền tảng Vương Quốc của sự chánh đáng” hơn. Học giả Wijesinha viết cho tôi: Đạo hữu cũng có thể dùng “Vưong Quốc của sự Chánh Đáng” nhưng nó có vẽ thoáng giáo điều thần học hơn đạo đức triết học. Dhammacakkaappa Vattama Suttam là bài kinh có tên “Sự ThànhLập Triều Đại của Chánh Pháp”. Khi trình bày điều này với Thưọng Tọa Sumangala tôi hân hạnh có thể nói rằng Thượng Tọađồng ý với cách dịch của ông Wijesinha.

[14] Sự pha trộn giữa những pháp thuật và thực hành này với Phật giáo là một dấu hiệu của sự suy đồi. Các sự kiện và hiện tượng của chúng là có thực, và có thể dùng khoa học để giải thích. Chúng bao hàm trong ý nghĩa “pháp thuật”, nhưng khi được xử dụng nhằm mục đích ích kỷ sẽ mang lại ảnh hưỏng xấu cho con người; và làm trở ngại đến sự tiến bộ tinh thần. Khi chúng đựơc dùng vào các mục tiêu vô hại và lợi ích như chữa trị bịnh nhân, cứu mạng sống v.v... Đức Phật cho phép dùng đến.

[15] Nhà tu khổ hạnh Phật giáo, qua một thời gian ấn định tu tập, sẽ đạt tới một trình độ siêu đẳng trong sự phát triển tinh thần và trí tuệ. Chư vị A La Hán (Arhats) có thể chia làm hai nhóm đại cương là chuyên tu về Chỉ và Quán. Hạng trước đã diệt trừ hết dục vọng, và hoàn toàn phát triển được năng lực tinh thần hay trí tuệ huyền bí; hạng sau tuy đã chế ngự được lòng tham dục, nhưng chưa có thể chứng đắc thần thông.

Các vị thứ nhất có thể thực hiện phép lạ (thần thông), nhưng vị thứ hai không làm được. Đức A La Hán của hạng trước, khi trí tuệ phát triển đầy đủ (toàn giác), không còn là nạn nhân cho sự lừa dối của các giác quan, hay nô lệ cho lòng ái dục, và phạm trọng tội nữa. Vị nầy thấu triệt nguồn gốc của bất cứ vấn đề nào tâm họ nghĩ tới mà không theo tiến triển chậm chạp của sự suy luận. Ngài hoàn toàn chế ngự được tâm mình, và thay vì tình cảm cũng như dục vọng làm khuấy động và mê hoặc ở một người thường. Ngài vượt thoát tiến lên tình trạng mà diễn đạt theo thuật ngữ thích hợp nhất gọi là “Niết Bàn” (Nirvanic).

Tại Tích Lan có quan niệm phổ biến sai lầm cho rằng ngày nay không ai có thể tu chứng A La Hán (Arhatship), và chính Đức Phật đã tiên đoán là khả năng chứng quả đó sẽ tiêu diệt khoảng 1.000 năm, sau khi Ngài nhập diệt. Tin đồn trên và sự việc tưong tự cũng được nghe ngưòi ta nói tới khắp nơi tại Ấn Độ, là vào thời kỳ mạt pháp này, sự tu theo pháp môn Du Già (Yoga Vidya), hay môn học tinh thần cao siêu cũng không thể thực hiện được. Tôi cho là vì tài trí của những người đáng lý phải giữ thanh tịnh và nội tâm sáng suốt (nói theo từ ngữ thông dụng không Phật giáo) như các bậc tiền bối của họ; nhưng vì không đạt được quả vị siêu phàm đó, nên họ đã tìm cách tự bào chữa. Đức Phật dạy ý kiến hoàn toàn trái lại. Trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) Ngài bảo: “Hãy lắng nghe, này Tu Bạt Đà La (Subbhadra), thế gian sẽ không bao giờ hết các vị A La Hán nếu trong giáo hội (đoàn thể Tăng Già) của Như Lai còn những nhà tu khổ hạnh (Tỳ kheo) chân thành lãnh thọ và nghiêm trì giới luật”.

[16] Trong cuốn “Lịch sử văn hóa”: (History of Culture), ông Kolb viết: “Chính Phật giáo chúng ta nên cảm ơn về hành động ân xá các tù binh chiến tranh mà trước kia thường bị giết; cũng như sự đình chỉ bắt đi cầm tù các thường dân ở những nơi bị xâm chiếm”.

[17] Giới thứ năm liên quan đến sự dùng các chất say và loại thuốc làm (trí óc) đần độn, cuối cùng đưa tới nghiện rượu.

[18] “Linh hồn” (Soul) nói tới ở đây đồng nghĩa với tiếng psyche của Hy Lạp (Greek). Chữ “material”bao hàm ý nghĩa chỉ các trạng thái vật chất hơn là tình trạng của cơ thể.

[19]  Về ý tưỏng tôi thay thế danh từ “bản ngã” (personality) cho chữ cá nhân (individuality), như tôi đã soạn trong lần xuất bản đầu tiên. Sự liên tục tái sinh tại một hoặc nhiều thế giới, hay “sự lưu truyền qua thế hệ”của những phần tử ái dục kết hợp (skandhas: Uẩn) của một chúng sanh là sự tiếp nối của những bản ngã. Trong mỗi lần sinh ra, bản ngã hiện nay khác biệt với bản ngã đời trước hoặc ở kiếp sau. Nghiệp (Karma) tự ẩn giấu (hay chúng ta sẽ bảo là phản ảnh?) đời này trong bản ngã của một hiền triết, kiếp nọ như một người thợ và vân vân, suốt qua chuỗi dài sinh tử (luân hồi).

Mặc dù các bản ngã luôn biến đổi, nhưng một dòng sống tựa như một xâu chuỗi hột liên tục tuôn chảy không gián đoạn; và luôn luôn là dòng sống đặc biệt đó, chứ không bao giờ là cái gì khác. Cho nên, chính cá nhân - một gợn sóng cá nhân - chảy nhanh qua bề mặt khách quan của Thiên Nhiên, dưói sự thúc đẩy của Nghiệp và chiều hưóng tạo tác của Ái Dục (Tanhà), được duy trì qua nhiều biến đổi luân hồi. Giáo sư Rhys Davids bảo rằng dòng sống đó hiện hữu từ trong bản ngã này chuyền qua bản ngã khác cùng với chuỗi cá nhân gồm “cá tính” hay “nghiệp” (hành động). Vì “cá tính” không những chỉ là sự trừu tượng siêu hình, mà còn là tổng số các năng tánh (qualities) tinh thần và khuynh hướng đạo đức của con người; phải chăng cá tính đó không giúp ích để làm tiêu tan cái mà giáo sư Rhys Davids gọi là “mưu chước ghê gớm của một sự huyền bí” (Buddhism, trang 101) nếu chúng ta xem gợn sóng của dòng sông chẳng khác gì một cá nhân; và mỗi chuỗi những hiện tưọng phát sinh của làn sóng nước như một bản ngã riêng biệt?

Chúng ta cần có hai danh từ để phân biệt giữa hai ý niệm, và tôi nhận thấy không có chữ nào rõ ràng và ý nghĩa như hai từ ngữ (bản ngã và cá nhân) mà tôi đã chọn. Tôi có thể bảo Đức Phật, nói theo nghĩa Phật giáo, là một cá nhân toàn thiện; vì Đức Phật không có gì khác hơn là đóa hoa hiếm có của nhân loại, mà không pha trộn một chút siêu nhiên nào. Và, phải trải qua vô lượng kiếp – “bốn A Tăng Kỳ và trăm ngàn lần sinh tử luân hồi” (Xem Buddhist Birth Stories của Fausboll và Rhys Davids, No. 13) để từ một con ngưòi tu tập tiến lên quả vị Phật; và ý chí sắt đá muốn trở thành Đức Phật trải qua liên tục nhiều kiếp tái sinh, như vậy chúng ta gọi cái gì đã quyết chí và kiên trì? Cá tính hay cá nhân? Một cá nhân, nhưng lại đựoc phần nào thể hiện trong bất cứ mỗi lần sinh ra, đã tạo nên những giai đoạn (sống) từ nhiều kiếp luân hồi.

Sự phủ nhận có một “Linh hồn” (Soul) của Đức Phật (Xem Bộ Tập A Hàm trong Kinh Tạng) nhằm vạch ra cho chúng ta thấy sự tin tưỏng sai lầm vào một bản ngã độc lập; một thực thể mà sau đời sống này, sẽ đựoc sanh vào một quốc độ hay cảnh giới nhất định, nơi mà như một thực thể toàn hảo, nó có thể vĩnh viễn hạnh phúc hay đau khổ. Và Đức Phật dạy cái quan niệm cho rằng “tôi là cái Ngã” ý thức, được xem như thưòng còn, là điều không hợp lý, vì những yếu tố cấu tạo căn bản của nó luôn luôn biến đổi và cái “Tôi” của đời này không giống với cái “Tôi” của những kiếp sống khác. Song những điều tôi tìm thấy trong Phật giáo đều phù hợp với lý thuyết về sự tuần tự tiến hóa của một con ngưòi toàn giác - gọi là Đức Phật – qua vô luợng kiếp tái sinh. Và trong tâm thức của cá nhân đó, người mà khi chấm dứt được vòng luân hồi, trở thành Đức Phật (Buddhahood), hoặc sự thành tựu đạt tới tầng Thiền (Dhỳana) thứ tư; hay sự giác ngộ mầu nhiệm trong bất cứ đời sống quá khứ nào của họ cho đến kiếp cuối cùng, cảnh tượng của tất cả những tiền kiếp này đều được thấy hiện ra.

Trong tập Jàtakatthavannana - dịch giả là giáo sư Rhys Davids - lối diễn đạt liên tục sự hồi tưởng, mà tôi nghĩ đúng là đã chứng minh cho ý kiến này, nghĩa là: “Đức Thế Tôn rõ ràng đã tạo nên một việc xảy ra, được che giấu trong nhiều kiếp luân hồi” hay “điều đó đã đựoc giữ kín bởi” v.v... Ngoài ra, Phật giáo Nguyên Thỉ cũng đã minh bạch duy trì đối với sự lâu dài ghi trong tập Akasha và tiềm năng của con người để thấu hiểu điều trên, khi hành giả đạt tới trình độ của sự giác ngộ cá nhân đích thực. Vào lúc lâm chung (cơ thể con người) rung chuyển và thần trí hôn mê, tốc hành tâm (Javana citta) được chuyển đến đối tượng do các dục vọng cuối cùng tạo nên. Ý chí muốn sống đem tất cả những tư tưởng để tạo thành một khách thể (chúng sanh) mới.

[20] Sinh viên có thể tham khảo một cách hữu ích với Schopenhauer trong vấn để này. Arthur Schopenhauer, một triết gia Đức tài danh nhất đã bảo rằng: “Nguyên lý hay Nguồn gốc của vạn vật và các đối tượng của nó bao gồm thân thể con người, thực chất chỉ là điều chúng ta nhận thức rõ nhất ngay từ trong cơ thể của chúng ta, gọi là Ý Chí (Will). Trí tuệ là năng lực thứ hai của ý tưởng chính yếu; sự hoạt động của óc não trong đó ý chí này tự phản ảnh vạn vật, đối tượng và thể xác như trong một tấm gương... Trí tuệ dù là (năng lực) thứ yếu, nhưng có thể hướng dẫn đến sự từ bỏ hoàn toàn ý chí, cho tới khi trí tuệ thúc đẩy “sự sống” và rồi nó được tận diệt trong Niết Bàn (Nirvana)” (L.A. Sanders trong tập Theosophist, số tháng 5 năm 1882, trang 213)

[21] Nói theo sinh lý học, cơ thể con người hoàn toàn thay đổi trong mỗi 7 năm.

[22] Nguyên lý căn bản và chủ yếu này, danh từ Pali gọi là “Nidàna” - chuỗi nhân quả hay “Nhân Duyên Sanh”. Mười hai nhân duyên (Nidànas) là: Vô Minh (Avijjà): mê lầm, không biết chân lý của tôn giáo tự nhiên; Hành (Samkhàra): hành động hay Nghiệp (Karma); Thức (Vinnàna): vọng thức về bản ngã. “Ta là Ngã”; Danh sắc (Nàma-Rùpa): tinh thần, thể chất; Lục Nhập (Salayatana): sáu căn; Xúc (Phassa): tiếp xúc: Thọ (Vedanà): Sự lãnh thọ; Ái (Tanhà): lòng ham muốn hưởng thụ: Thủ (Upàdàna): sự giữ lấy; Hữu (Bhava): sự hiện hữu: Sanh (Jàti): sự sanh ra; và Lão Tử (Jaramarana): suy yếu, chết chóc, sầu khổ, khóc than, tuyệt vọng.

[23] Ưu Bà Tắc (Upàsaka) và Ưu Bà Di (Upàsika) thọ trì các giới này vào những ngày trai kỳ (ăn chay) của Phật giáo (Uposatha). Đó là các ngày mùng 8, 14, và Rằm (15) của mỗi nửa tháng âm lịch.

[24] Sự liên hệ giữa đệ tử với Bổn Sư (Guru) giống như mối tương quan giữa vị Chúa con và đức Chúa Cha trong Cơ Đốc Giáo hay nói đúng hơn, vị bổn sư trở thành như cha mẹ, gia quyến và tất cả đối với ngưòi đệ tử.

[25] Xem bản Phụ Lục (Appendix) ở sau.



[26] Thượng Tọa Sumangala Sthavira giải thích với tôi rằng thần thông ấy chỉ tồn tại lâu dài nơi người đã diệt trừ hết lòng ái dục (Klesa), nói cách khác là vị A La Hán (Arhat). Ngưòi xấu cũng có thể luyện đắc thần thông, và dùng để làm các việc bất chính, nhưng chúng chỉ hoạt động được trong thời gian ngắn ngủi; lòng dục vọng bất trị lại khống chế vị thầy pháp, và sau cùng, ông ta trở thành nạn nhân của các phép thần thông đó.

[27] Khi thần thông được biểu diễn thình lình, điều ấy có nghĩa là hành giả đã tự mình tu luyện trong đời trước. Chúng tôi không tin vào những cơ may khác thường trong luật 

tải về 0.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương