*PHỎNG VẤN CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN VĂN CHỨC
Đặng Phú Phong
Lời tòa soạn:* Phần đất của anh Đặng Phú Phong thuộc về Văn Hóa Nghệ
Thuật. Nhận được bài về cựu tướng Nguyễn Văn Chức, chúng tôi hơi ngạc
nhiên. Ảo tưởng mơ hồ về một "Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa" thuộc loại
"không giống ai" do Tướng Chức được người khác "nặn ra" dùm đang xì
xèo um sùm trước khi chợt tắt...
Không ai bầu - Không ai bán... Quý "Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa" không
thể đại diện cho khối Người Việt Hải Ngoại. Trò dùng biểu tình để
"phá" biểu tình. Dùng người Việt Nam Cộng Hòa để "làm hề" Việt Nam
Cộng Hòa khá được phổ biến gần đây. Tướng Nguyễn Văn Chức tự xưng
"Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa" mà không ai biết không ai hay "Chính
Phủ" đó từ đâu ra(?). Xin mời quý vị đọc cho vui bài phỏng vấn này, mà
đừng nổi giận. Khi có dịp, Take2Tango sẽ cố tìm xem tổ chức này "chui"
ra từ lổ nẻ nào hầu bạn đọc.
Đặng Phú Phong (DPP): Kính chào Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức , trước
khi vào chuyện xin ông vui lòng giới thiệu tiểu sử. Cũng xin thưa
Chuẩn Tướng, sắp tới đây xin cho phép tôi được gọi Chuẩn Tướng bằng
ông để nhẹ bớt không khí của câu chuyện.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức (NVC): Vâng, anh cứ tự nhiên. Tôi tốt
nghiệp khóa II trường Võ Bị Địa Phương Nam Việt năm 1950 với cấp bậc
Chuẩn úy và chuyển sang quân đội Liên Hiệp Pháp, phục vụ ngành Công
Binh. Tôi du học ở trường Công Binh Pháp tại thành phố Anger (Maine et
Loire). Trở về Việt Nam, tôi được trả về Quân Đội Việt Nam và thuyên
chuyển đến trường Công Binh Việt Nam tọa lạc tại Bình Dương với chức
vụ Giảng viên.
Sau đó, tôi thuyên chuyển ra các đơn vị Công Binh Quân Lực VNCH, giữ
chức vụ từ Tiểu Đoàn Truởng đến Liên Đoàn Trưởng các đơn vị Công Binh
Chiến Đấu. Tôi tham dự các quân trường Mỹ, trong đó có trường Tham Mưu
Chỉ Huy Cao cấp ở Tiểu Bang Kansas năm 1966. Năm 1970, với cấp bậc Đại
Tá, tôi được chỉ định theo học Khóa II, trường Cao Đẳng Quốc Phòng.
Sau khi tốt nghiệp, trường giữ tôi lại, đảm nhiệm chức vụ Trưởng Khoa.
Tháng 12, 1971, Tổng Thống VNCH chỉ định tôi ra tỉnh Bình Định giữ
chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng, đồng thời Tư Lệnh Hành Quân
Sư Đoàn 22 Bộ Binh VN và Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn đồn trú trong tỉnh
Bình Định.
DPP: Ông có thể cho biết nguyên nhân về việc ông nhận chức Tỉnh Trưởng
Bình Định và lý do nào đã đưa ông rời khỏi chức vụ ?
NVC: Tôi nhận chức vụ Tỉnh trưởng do quyết định của Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu. Ngòai ra, ông John P. Van, Cố Vấn trưởng Quân Đoàn II ở
Pleku, đã khuyến khích tôi nên nhận chức vụ này để có cơ hội thăng cấp
trong binh nghiệp, đồng thời ngăn chận Tướng Chu Huy Mân và Sư Đoàn 3
Sao Vàng với ý đồ chiếm đóng và chia cắt lãnh thổ miền Nam ra làm hai
của Hà nội trong mùa hè đỏ lửa 1972.
Ngày 01 tháng Giêng năm 1972, tôi được Đại Tá Bách bàn giao chức vụ
Tỉnh truởng kiêm Tiểu Khu truởng và bắt đầu làm việc ngay. Tôi nhóm
họp với các vị công chức, ban Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Định và các vị
Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng. Ngày hôm sau, tôi đi thăm viếng đền
thờ Đức Quang Trung Đại Đế tại quận Bình Khê. Sau đó, quân dân cán
chính Bình Định đã cùng tôi chen vai sát cánh trong việc phản công Sư
Đoàn 3 Sao Vàng. Ba quận miền Bắc tỉnh Bình Định là các quận Tam Quan,
Hòai Nhơn và Hòai Ân bị địch chiếm đóng. Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn đang
tập trung về Phú Tài để chuẩn bị rút quân về Nam Hàn nên chỉ hành quân
ngăn chận dọc theo quốc lộ 19. Sư đoàn 22 Bộ Binh VN đồn trú tại cầu
Bà Gi và các Trung đoàn trú đóng ở phía bắc Bình Định. Vị Tư Lệnh Sư
Đoàn 22 Bộ Binh mang theo một Trung đoàn, trấn đóng ở Tân Cảnh, phía
Bắc tỉnh lỵ Kontum. Phần còn lại của Sư đoàn 22 Bộ binh đuợc Đại Tá Tư
Lệnh Phó Nguyễn Hữu Vị chỉ huy.
Sau khi Trung tướng Nguyễn Văn Tòan đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Quân
Đoàn II thay thế Trung Tuớng Ngô Du, ông đến thăm tôi và khuyên tôi
nên trở về Sài gòn phục vụ ngành Công Binh, công việc đánh nhau với VC
không thuộc phần chuyên môn của tôi. Cuối tháng 6/1972, Tổng Thống
VNCH ra Bình Định thị sát tình hình chiến truờng, ông có chỉ thị cho
tôi một công tác mà tôi không làm được. Ngay tối hôm đó, tôi gửi một
công điện về Phủ Tổng Thống xin từ chức Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng và
thông báo cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn II. Sáng ngày 30 tháng 6/1972, tôi
bàn giao mọi chức vụ cho Đại Tá Hòang Đình Thọ và trở về Sàgòn, chờ
ngày trình diện Bộ Nội Vụ và Bộ Quốc Phòng.
DPP: Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh cho ông làm việc gì, và tại sao ông
không làm được?
NVC: Rất tiếc là tôi không thể trả lời câu này được
DPP: Có quá nhiều giai thoại về ông khi ông còn đương kim Tỉnh Trưởng
Bình Định . Tôi xin nêu ra vài chuyện:
Chuyện thứ nhất : Khi ông mới về nhậm chức một thời gian ngắn (?) thấy
đường sá Qui Nhơn hư quá nhiều mà Công chánh không tu bổ, ông bèn mời
ông Trưởng Ty Công Chánh cùng ngồi với ông trên chiếc xe jeep đã lấy
đi nệm ghế rồi chạy một vòng thành phố .
Chuyện thứ hai : Ông đi thanh tra một quận , ông Quận Trưởng sở tại tổ
chức một bữa ăn thịnh soạn để chiêu đãi . Khi ngồi vào bàn tiệc ông
điềm nhiên lấy bánh mì và bi đông nước ra để cùng ăn uống với họ.
Chuyện thứ ba Thỉnh thoảng ông mời các trưởng ty hay các quan chức
trong tỉnh đến tư dinh của ông dùng cơm. Bữa cơm thật đạm bạc (rau
luộc chấm nước mắm ?). Việc này làm cho các trưởng ty kiên dè với ông
rất nhiều .
Qua 3 giai thoại tiêu biểu trên, nếu đúng, xin ông cho biết tại sao
ông đã làm như thế? Và nếu không đúng, thì theo ông ai và tại sao
nguời ta lại thêu dệt như vậy để làm gì?
NVC: 1) Tôi có thảo luận với ông Truởng Ty Công Chánh, ông cho biết là
ngân sách quá eo hẹp nên không đủ ngân khỏan sửa chữa đường sá trong
tỉnh lỵ. Tôi bèn nhờ Công Binh Sư Đoàn 22 giúp sửa chữa. Tôi không có
ác ý bắt ông ngồi xe Jeep không có ghế ngồi như thế.
2) Không có.
3) Tôi vẫn thường mời quý vị Dân Cử, các Nghị Viên Hội Đồng Tỉnh dùng
cơm để bàn việc và tìm hiểu nhau. Là một quân nhân, tôi vốn ăn uống
đạm bạc nên khi mời dùng cơm tại dinh Tỉnh truởng tôi chỉ dùng tiền
lương hàng tháng của tôi để chi cho thức ăn. Khi quí vị Đại Sứ Mỹ,
Anh, Úc, Tân Tây Lan đến thăm tỉnh Bình Định, thực đơn bữa cơm trưa
gồm có cơm trắng, canh cải xanh nấu với tôm khô, cá cơm kho khô, trứng
gà luộc và nuớc tương. Quí vị Đại sứ ăn uống ngon lành, chỉ riêng ông
Đại sứ Anh bị ói ra sau khi dùng món cá cơm kho nước mắm. Ông vội vàng
xin lỗi quan khách và tôi.
Có lẽ lâu lắm rồi, tỉnh Bình Định chưa có vị tỉnh trưởng nào đi sát
với cuộc sống của nhân dân, lại chủ trương sống tiết kiệm nên họ vì
quí trọng tôi mà nói ra những việc như thế.
DPP: Trong thời gian ông làm Tỉnh trưởng Bình định , theo ông, trận
đánh nào đáng ghi nhớ nhất?
NVC: Tôi bị thua các trận Hòai Ân, Tam Quan và Hòai nhơn. Đại Tá Đức
(tôi quên họ của ông) vì thiếu kinh nghiệm chỉ huy đã không thi hành
đúng theo lệnh hành quân nên bị thua địch tại mặt trận Hòai Ân, phải
rút về Quốc lộ 1. Địch thừa thắng mở cuộc tấn công mau lẹ, chiếm đuợc
hai quận Tam Quan và Bồng Sơn. Sư đoàn 22 Bộ Binh đã ngăn chận kịp
thời cuộc tiến quân của địch xuống phía Nam giữ từng tấc đất cho đến
ngày tôi rời Bình Định.
Quân Lực VNCH, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và quân Đồng Minh cũng đã
chiến thắng Sư Đoàn 3 Việt cộng ở các Chi Khu An Khê, Phù Mỹ, Phù Cát,
An Nhơn. Các vụ oanh kích của Không Quân VN từ phi trường Phù Cát đã
gây nhiều thiệt hại, đặc biệt nhất là tiêu diệt gần hết thành phần
Tham Mưu và Chỉ huy của Sư đoàn 3 Việt Cộng trong lãnh thổ quận Hòai Ân.
DPP: Xin ông vui lòng nói rõ hơn về trận đánh mà VNCH đã mất ba quận
thuộc bắc Bình Định. Chẳng hạn như về mặt tình báo (chúng ta đã có tin
tình báo trước không? Tướng Nguyễn Hữu Hạnh với vai trò Cố Vấn quân sự
đã có ý kiến như thế nào? Qua lần bại trận này ông nghĩ gì về trách
nhiệm của mình?
NVC: Chúng tôi đã có tin tức tình báo của Mỹ lẫn VN về ý đồ của VC
trong việc tiến đánh quận Hòai Ân trong 5 ngày sắp đến. Lập tức tôi
đến Bộ Tư Lệnh Sư Đòan (BTLSĐ) 22 Bộ Binh chỉ thị ngày hôm sau cho
trực thăng vận Trung đòan 40 đến chiếm đóng các cao điểm phía Tây và
phía Nam Quận Hòai Ân và ra lệnh Chi Khu Trưởng Hòai Ân cho trinh sát
bung rộng để tìm tin tức chính xác về việc chuyển quân và hậu cần tiếp
vận gần nhất của địch. Trung Đòan Trưởng Trung đòan 40 cũng nhận lệnh
cho đơn vị Trinh Sát họat động ra nhiều phía để chuẩn bị chiến trường.
Ngòai ra, cuộc hành quân này do (BTLSĐ) 22 trực tiếp điều động và chịu
trách nhiệm thẳng với tôi và Bộ Tư Lệnh Quân Đòan II.
Sáng hôm sau, lúc 7 giờ sáng, tôi và cố vấn Mỹ đã có mặt ở Bồng Sơn,
nơi tuyến xuất phát. Tôi thấy các quân nhân không mang theo thùng 20
lít chứa nước vì cuộc hành quân này có thể kéo dài nhiều ngày, tôi hỏi
Đại Tá Đức, Trung Đòan Trưởng Trung Đòan 40 sao không mang theo nước
uống, Đại Tá Đức chỉ vào cây dừa có trái và nói với tôi rằng đó là
nước uống của anh em Bộ Binh, cần gì phải mang theo thùng 20 lít. Sau
đó, tôi đi thăm Chi Khu Tam Quan và duyệt xét việc phối trí công cuộc
phòng thủ. Tôi tăng cường thêm một Tiểu Đòan Địa Phương Quân (TĐĐPQ)
giúp Chi Khu này. Lối 5 giờ chiều tôi trở lại Chi Khu Hòai Ân và trước
sự ngạc nhiên của tôi và vị cố vấn, các đơn vị của Trung Đòan 40 đang
từ đỉnh đồi phía Tây bỏ vị trí kéo xuống dưới ruộng hướng về Chi Khu
Hòai Ân và Đại Tá Đức đang đứng nhìn. Một Chi Đội Thiết Vận Xa do Sư
Đòan 22 tăng phái có mặt tại đó, máy đang nổ. Khi Trung đòan 40 xuống
đến chân đồi và mở rộng đội hình trên thửa ruộng trống hướng về Chi
Khu Hòai Ân thì VC đã lên tới đỉnh đồi và bắn xuống đòan quân ta bằng
đủ các lọai súng mà chúng có. Đại Tá Đức không có phản ứng gì, tôi bèn
bảo Đại Tá Đức cho Chi Đòan Thiết Vận Xa lập tức giải vây cho quân ta,
lúc ấy ông ta mới giật mình ra lệnh cho Chi Đòan Trưởng phóng ra tiếp
viện. Về đến Chi Khu Hòai Ân, kiểm lại phần tổn thất cũng không nặng
lắm. Tôi cùng với Đại Tá Đức và Ban Tham Mưu Trung Đòan cùng cố vấn Mỹ
bàn đến việc rút quân ra quốc lộ 1 vào sáng sớm ngày hôm sau. Kế họach
rút quân như sau: 7 giờ sáng phi cơ đến thả bom khói bao trùm vùng
chuyển quân, 7:30 giờ, phi cơ khu trục đến xạ kích các cao điểm vạ
nhửng ổ phục kích của địch và không yễm đường rút quân, 8:00 giờ sáng
bắt đầu chuyển quân, với sự tăng viện của một Trung Đòan từ Phù Mỹ
tiến quân giữ an ninh phía Nam và phía Bắc cầu Bồng Sơn.
Đúng 6:45 giờ sáng, tôi đến cầu Bồng Sơn bằng trực thăng nhỏ và không
liên lạc được với Bộ Chỉ Huy Trung Đòan 40, tôi cho lệnh phi công bay
thẳng về hướng Chi Khu Hòai Ân dọc theo bờ sông Bồng Sơn. Nhìn xuống
dưới ruộng, tôi thấy Trung Đòan 40 tự chuyển quân ra quốc lộ 1 với Chi
Đòan Thiết Vận Xa và đang bị hỏa lực địch bắn xuống từ các cao điểm
phía Nam. Phi công trực thăng cho tôi biết có tín hiệu cầu cứu của
quân nhân Mỹ dưới một lùm cây phía sau doanh trại Chi Khu Hòai Ân. Tôi
bảo nên cứu ngay. Khi trực thăng xuống thấp gần mặt đất, tôi nhìn ra
là cố vấn Mỹ, vội đáp xuống cứu 5 cố vấn Mỹ đang mặc quần đùi, trét
bùn vào khắp người, tay cầm máy truyền tin nhỏ và vũ khí cá nhân và
lập tức bay ra thẳng quốc lộ 1 thả họ xuống chổ phối trí quân của
Trung Đòan từ Phù Mỹ đã bố trí xong. Tôi hối thúc phi cơ thả trái khói
và các phi cơ khu trục bắn phá các muc tiêu trên cao điểm xung quanh
Chi Khu Hòai Ân. Đại Tá Đức bị các cố vấn Trung Đòan 40 phiền trách đả
rút quân đi trước, bỏ họ ở lại Hòai Ân. Với trách nhiệm chỉ huy, tôi
chỉ định Trung Ta Mễ, Trung Đòan Phó, thay Đại Tá Đức chỉ huy Trung
Đòan 40 và báo cáo về BTL Sư Đòan 22 Bộ Binh.
Trung đòan 40 rút về hậu cứ ở Bồng Sơn và chờ tái bổ sung quân số tổn
thất. Hôm sau, địch tấn công Chi Khu Tam Quan vào lúc 5 giờ sáng. Sau
3 tiếng đồng hồ giao tranh với tiền pháo hậu xung, địch chiếm được Chi
Khu Tam Quan. Tòan bộ Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đồng rút về Chi
Khu Hòai Nhơn. Sau đó, Sư Đọàn 22 Bộ Binh hành quân tảo thanh các đơn
vị VC trên các cao điểm phía Tây Chi Khu Hòai Nhơn, giết được hơn 100
quân địch và tịch thu nhiều vũ khí.
Trong lúc đó, tôi gửi công điện khẩn cho Bộ Tổng Tham Mưu xin tăng
cường một Liên Đòan Biệt Động Quân để cùng Sư Đòan 22 Bộ Binh tái
chiếm lại 2 quận đã rơi vào tay địch. Đại Tướng Tổng Tham Trưởng cho
tôi biết là không còn đơn vị Tổng Trừ Bị nào nữa vì chiến trận đã xẩy
ra trên khắp lãnh thổ, tôi phải chờ tình hình lắng dịu mới được có
quân tăng viện. Tôi phát họa kế họach tái chiếm Chi Khu Hòai Ân và sau
đó là Chi Khu Tam Quan thì gặp sự chống đối mạnh mẽ của Chuẩn tướng
Nguyễn Hửu Hạnh, Tư lệnh phó Lãnh Thổ Quân Khu II. Sau này, khi tôi
rời chức vụ Tỉnh Trưởng Bình Định trở về Sàigòn, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh
cũng bị Bộ Tổng Tham Mưu triệu hồi về và cho giãi ngũ. Ba ngày sau,
đich tấn công Chi Khu Hòai Nhơn và Trung Đòan 40 Bộ Binh vào sáng sớm
với quân số 2 Trung Đòan. Sau 3 tiếng đồng hồ, Trung đòan 40 và Chi
Khu Hòai Nhơn thất thủ, một số quân sĩ rút qua sông Bồng Sơn chạy về
phía Nam và một số khác tử thủ bị bắt làm tù binh. Cuối cùng, ba quận
miền Bắc của tỉnh Bình Định đã rơi vào tay địch…
Trách nhiệm nặng nhất bị mất ba quận miền Bắc tỉnh Bình Định trong mùa
hè đỏ lửa năm 1972 vẫn thuộc về tôi, và niềm cay đắng này vẫn còn mãi
trong tâm trí tôi.
DPP: Có phải ông đã cho thả bom CBU để phản công Việt Cộng chiếm 3
quận thuộc bắc Bình Định?
NVC: Sau khi nhận chức Tỉnh Trưởng, tôi đến thăm Căn Cứ Không Quân Phù
Cát do Đại Tá Không Quân Nguyễn Hồng Tuyền chỉ huy. Ông là một trong
những người bạn thân của tôi và cùng học Tai Chi ở Cần Thơ. Đại Tá
Tuyền đưa tôi đi thăm căn cứ và cho tôi xem một kho chứa 60 quả bom
lọai đặc biệt. Nhìn thấy tôi biết ngay là lọai bom nhẹ, khi nổ ra tạo
một vòng sát hại trực kính 1500 thước, đốt hết dưỡng khí trên mặt đất,
xuống đến các hầm hố, hang động, không làm nguy hại nhà cửa và cây cối.
Tôi đã xin Đại Tá Tuyền đánh hai mục tiêu. Mục tiêu 1 là đánh vào đòan
quân địch đang di chuyển trong rừng, phía Tây-Bắc quận An Khê, giết
hơn 300 địch quân. Mục tiêu 2 đánh vào địa điểm lễ ăn mừng chiến thắng
của Sư đòan 3 địch cách 10 cây số phía Tây quận Hòai Ân, sát hại hơn
600 bộ đội và Sĩ Quan. Tôi không dám xử dụng lọai bom này trong việc
tái chiếm 3 quận miền Bắc vì bom không phân biệt địch và dân, sẽ giết
nhiều thường dân vô tội. Sau này Đại Tá Tuyền có xử dụng hai quả bom
để đánh vào một trung đòan địch ở Đèo Nhông, giết 2 tiểu đòan địch và
một quả phía Tây phi trường sát hại hơn 400 địch quân tiến đến gần sát
hàng rào phi trường.
Tất cả chúng ta lưu vong hải ngọai vì miền Nam bị miền Bắc xâm chiếm.
Chúng ta bị mất miền Nam vì đồng minh yểm trợ chúng ta theo chính sách
nhỏ giọt, miền Bắc được yễm trợ dồi dào của khối Cộng sản quốc tế.
Nhưng chung qui, chúng ta mất miền Nam do cơ Trời đã định sẳn, xin quí
vị nghe câu chuyện sau đây:
Tháng Sáu năm 1975 tôi đến Mỹ và tháng 11 năm 1975 tôi được ông bạn
Mỹ, mời tôi lên thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Tôi được ông tiếp đón và
mời về nhà dùng cơm tối. Sau bửa cơm, ông và tôi ra sau nhà ngồi uống
trà, ông buộc miệng hỏi tôi: “60 quả bom đặc biệt chúng tôi để lại Phù
Cát sao các ông không dùng đến để tiêu diệt Cộng Sản trong Nam và tòan
bộ miền Bắc vào đầu năm 1975 mà lại chịu thua bỏ chạy như thế
này?”.Nghe xong, tôi cho ông ta hay là không biết vì cớ gì mà tôi quên
mất không nhớ tới lọai vũ khí đặc biệt này từ lúc tôi rời khỏi Bình
Định năm 1972 .
Bốn năm trước ngày ông mất, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hẹn gặp
Đại Tá Không Quân Nguyễn Hồng Tuyền tại San José, Bắc Cali. Ông Dân (
một người bạn của tôi và cũng là bạn của Đại Tá Tuyền) cùng với Đại Tá
Tuyền đến chổ hẹn gặp ông Thiệu. Ông Thiệu có hỏi Đại Tá Tuyền về số
vũ khí đặc biệt dự trữ trong kho bom phi trường Phù Cát từ năm 1972
đến 30/04/1975. Đại Tá Tuyền nói rằng số vũ khí đặc biệt đó đã được
ông ta báo cáo hàng tháng về BTL Sư Đòan 2 Không Quân, Phòng Tiếp Vận
Quân Đòan II, Phòng Tiếp Vận BTL Không Quân, Tổng Cục Tiếp Vận Bộ Tổng
Tham Mưu. Nếu Tổng Thống và các nơi nhận báo cáo không biết trong tay
mình có vũ khí mạnh mẽ thì đây là số Trời…Ông Thiệu bật lên tiếng nấc
nghẹn ngào…”Đúng vậy! Quả là số Trời”.
Tháng 10, năm 1978, CS Hà Nội được tin quân Trung Cộng sẽ tấn công
vùng thượng du Bắc Việt và có thể tiến quân vào Hà Nội. Tòa Đại sứ
Liên Sô tại Hà Nội cho CS Bắc Việt biết Trung Cộng sẽ điều động 2 Quân
đòan Thiết Giáp và 2 Quân đòan Bộ Binh từ phía Bắc tràn xuống. Vị Đại
sứ Nga báo cho Tướng CS tại Bộ Quốc Phòng Hà Nội biết là phi trường
Phù Cát cũ của Không Lực VNCH còn dự trữ 55 quả bom đặc biệt, có thể
dùng để tiêu diệt Chiến xa và quân Trung quốc. Phải dùng lọai khu trục
phản lực A-37 của Không Quân VNCH mới ném lọai bom này được. CS Hà Nội
ra lệnh thả ra khỏi các trại Cãi Tạo một số lớn Phi Công A-37 và các
chuyên viên bảo trì, sau đó CS tập trung 40 khu trục cơ A-37 còn bay
được từ miền Nam ra miền Bắc và chuyên chở 55 quả bom đặc biệt ấy theo.
Đầu năm 1979, Trung Cộng ồ ạt đổ quân tràn sang Việt Nam, tấn chiếm
các Tỉnh cực Bắc của Việt Nam. Đòan Khu Trục Cơ A-37 nầy bay lên không
phận Cao Bằng – Lạng Sơn và trong 3 ngày đã tiêu diệt 80 phần trăm
chiến xa địch và giết 2 Sư đòan Bộ Binh Trung Cộng. Đặng Tiểu Bình
phải mau lẹ ban lệnh rút quân về Tàu. Theo tin tức của Siêu Cường, tỷ
lệ thương vong giữa Việt Nam và Trung Cộng là 1/28.
DPP: Sau khi thất trận ông tái phối trí lực lượng và phòng thủ như thế
nào để ngăn chận Việt Cộng sẽ tiếp tục tiến công?
NVC: Tôi giao trách nhiệm tái phối trí phòng thủ từ phía Nam cầu Bồng
Sơn và mạn sườn phía Tây của hai quận Phù Cát và Phù Mỹ cho Bộ Tư Lệnh
Sư Đòan 22 Bộ Binh. Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư Lệnh Quân Đòan II chỉ
thị tôi trách nhiệm tái phối trí để giữ vững phần lãnh thổ còn lại và
chỉ phản công khi có lệnh củ Quân Đòan II. Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và các
Chi Khu trách nhiệm thu nhận tàn quân của Địa Phương Quân và Nghĩa
Quân, tập trung về Qui Nhơn để tái huấn luyện tinh thần và trang bị vũ
khí. Tôi được biết ông Võ Trấp với cương vị Trưởng Đòan Nhân Dân Tự Vệ
Tỉnh Bình Định. Ông Võ Trấp là người có khả năng Lãnh Đạo-Chỉ Huy và
có tinh thần quốc gia vững chắc. Cơ sở NDTV của ông ở Ghềnh Ráng đủ
rộng để trú đóng một Tiểu Đòan nên thay vì đưa tàn quân về Trung Tâm
để tái huấn luyện, tôi đặt việc trách nhiệm tái huấn luyện tinh thần
cho tàn quân thì ông Vỏ Trấp nhận trách nhiệm thi hành với sự hổ trợ
của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Định. Ông Võ Trấp đã hòan tất nhiệm vụ
theo đúng thời gian hạn định. Các tân Tiểu Đòan Địa Phương Quân và các
tân Đại Đội Nghĩa Quân được tăng phái ra các Chi Khu để tham gia hệ
thống phòng thủ diện địa. Thêm vào đó, hộp thơ Dân Nguyện được đặt ở
nhiều ngả tư trên các đại lộ trong thị xã Qui Nhơn và chỉ trong một
đêm, ngành An Ninh tỉnh đả bắt được trên một trăm tên VC nằm vùng.
DPP: Xin ông thuật lại việc Việt Cộng(?) đã ném lựu đạn tại sân Vận
động Qui Nhơn làm chết nữ giáo sư Yến và một số người bị thương, trong
đó có ông?
NVC: Việc nhóm họp tại sân vận động Qui Nhơn vào 6 giờ chiều thứ bảy
để huy động giáo chức và học sinh, thân hào nhân sĩ, đại diện các Tôn
Giáo để phát động phong trào họat động xã hội, làm sạch sẽ thành phố
Qui Nhơn và các quận lỵ trong tỉnh, đồng thời trùng tu các đền thờ,
lăng tẩm của các bậc Tiền Nhân có công đức giữ nước và dựng nước trong
tỉnh nhà. Buổi họp mặt qui tụ trên hai ngàn người, đa số là các em học
sinh đại diện các trường trung học trong tỉnh dưới sự hướng dẫn của
các giáo sư, Đòan Hướng Đạo Qui Nhơn…
Sau khi lễ khai mạc chấm dứt, vị đìều hợp viên tuyên đọc chương trình
họp và mọi người tán thành các chương trình đề ra. Sau đó tôi quyết
định xuống khán đài, vừa duyệt đòan ngũ và chào hỏi các người có trách
nhiệm đứng với đòan thể của họ. Tháp tùng với tôi có ông Phó Thị
Trưởng, Thiếu Tá Quân Trấn Trưởng, Trung Úy Ba Chánh Văn Phòng Tỉnh
Trưởng, một Thượng Sĩ và một Trung Sĩ cận vệ. Khi đến trước đòan Hướng
Đạo, một Hướng Đạo sinh mang cây đàn lục huyện cầm bước ra, trao cây
đàn cho tôi và yêu cầu tôi cùng đàn và hát với các em một bài hát Dân
Tộc. Sau đó tôi trao cây đàn lại cho một Hướng Đạo sinh và có người
trao cho tôi một loa phóng thanh, tôi nổi hứng nói liền hai câu: Các
thanh niên, thiếu nữ Bình Định nên nhớ rõ lời dạy của Tiền Nhân “Trai
Trung không thờ hai Chúa – Gái Chính Chuyên chẳng lấy hai Chồng”. Cả
hội trường vỗ tay ầm ĩ. Ngay khi đó, một quả lựu đạn chống biểu tình
lọai lớn của Mỹ từ sau ném tới. rớt phía trướ mặt tôi một thước và nổ
bùng lên. Tôi bị bất ngờ, thóang ngạc nhiên và vẫn đứng yên tại chổ.
Nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều người chết và bị thương. Trung Úy Ba
trao cho tôi cây gươm Lệnh của Đức Thánh Trần đã rút khỏi bao. Tôi cầm
lấy, thủ ngang trước ngực, máu từ trên mặt tôi chảy xuống, thắm đỏ
lưởi gươm. Lúc đó, ông Trung Tá Mỹ cố vấn chạy xe Jeep vào, ôm tôi lên
xe và đưa thẳng đến bệnh viện Mỹ. Tôi được nhân viên y tế Mỹ cởi quần
áo trận ra, tôi mới nhìn thấy áo quần trận của tôi rách bươm vì mãnh
lựu đạn. Họ lau rửa, cầm máu ở các vết thương và đưa máy quang tuyến
đến chụp hình tôi từ đầu xuống chân. Ba mươi phút sau họ trưng bày các
phim chụp được và cho tôi biết là không nguy hại đến tính mệnh. Họ nói
đến sáng mai họ sẽ giải phẩu lấy miểng lựu đạn ra. Tôi lập tức yêu cầu
họ chuyển tôi về Quân Y Viện QLVNCH tại Qui Nhơn để được các Bác Sĩ
Quân Y Việt Nam chăm sóc tôi, đồng thời cám ơn những gì họ đã giúp tôi
lúc đầu. Lập tức, họ thông báo cho Quân Y Viện Qui Nhơn. Sáng hôm sau,
họ đưa tôi về đó. Ba giờ chiều tôi được đưa vào phòng giãi phẩu, có
rất nhiều Y sĩ và y tá. Y sỹ Thiếu tá Minh phụ trách giải phẫu. Ông
giải thích cho tôi biết là chỉ giải phẩu một vết thương để quan sát,
nếu vết thương thứ nhất không làm độc thì không cần phải giải phẫu
phần còn lại vì miểng lựu đạn đã dính chặc vào xương rồi. Sau khi giải
phẫu vết thương, Bác sĩ Minh tuyên bố: “Vết thương không làm độc,
chúng tôi không cần giải phẫu nữa, Đại Tá có thể dưỡng thương ở đây
trong 5 ngày và sẽ xuất viện. Về sau tôi được Phòng Ba Tiểu Khu báo
cáo có 4 người lớn bị tử thương, trong đó có giáo sư Yến, 8 người lớn
và hơn 40 thanh thiếu nam nữ bị thương.
DPP: Ông vừa nhắc đến cây gươm lệnh của Đức Thánh Trần, Tại sao ông có
được cây gươm nầy?Hiện giờ nó ở đâu?
NVC: Đến Qui Nhơn được hai ngày, Trung Tướng Ngô Du Tư Lệnh Quân Đòan
II từ Pleiku xuống Qui Nhơn mời tôi đi với ông đến viếng đền thờ Đức
Thánh Trần Hưng Đạo trong thị xã. Tôi và Thượng Sĩ Châu lái xe theo
Trung Tướng Tư Lệnh đến đền thờ. Trung Tướng Tư Lệnh vào cửa chính
diện của Đền Thờ, tôi và Thượng Sĩ Châu vào cửa sau và ngồi ở dảy nhà
hậu uống trà. Mười phút sau, có một vị lớn tuổi trong Ban Thờ Tự,
xuống gặp tôi và nói to: “Thánh mời Tổng Trấn Bình Định”. Tôi và
Thượng Sĩ Châu im lặng. Cụ già trở lên Đền và 5 phút sau lại trở xuống
nói: “Thánh mời Nguyễn Văn Chức”. Tôi và Thượng Sĩ Châu cùng đứng lên
và theo cụ lên trên Đền.
Tôi thấy Trung Tướng và mọi người đang ngồi ở dãy ghế đối diện với vị
đồng cốt Đức Thánh Trần. Tôi được mời ngồi và Thánh nói chuyện với
Trung Tướng Tư Lệnh : “Vị này là Tổng Trấn Bình Định, có trách nhiệm
lớn với Tỉnh trong việc phòng thủ chống trả cuộc tấn công của địch
trong mùa hè này, Trung Tướng phải hổ trợ Tổng Trấn Bình Định”. Nói
xong, Thánh truyền lệnh lấy gươm Lệnh. Một cụ già lấy thang gỗ leo
thang lên trang thờ phía trên, lấy xuống một thanh gươm dài, bọc trong
bao vải màu điều, trao cho Thánh. Thánh đỡ lấy cây gươm, mở bao vải
điều lộ ra võ gươm bằng gổ thường. Thánh rút gươm ra khỏi võ, cán gươm
màu đen xạm, dài lối ba tấc, lưỡi gươm dài hơn một thước, rĩ sét và
lưỡi gươm bị sứt mẻ nhiều chỗ. Thánh gọi lấy chén son và bút tàu rồi
vẻ bùa ngoằn ngòeo lên lưỡi gươm. Xong Thánh đứng lên hướng về tôi,
tôi đứng dậy. Thánh bảo tôi rằng: “Thanh gươm này đã theo ta trong
suốt cuộc đời binh nghiệp, nay ta trao lại cho Tổng Trấn. Hãy nối chí
ta, giúp nước khi có nguy biến. Khi nào máu của Tổng Trấn nhuộm lên
lưỡi gươm sẽ giúp gươm thiêng này phát triển hết sức mạnh nhiệm mầu
của nó. Tôi đưa hai tay ra nhận lưỡi gươm và chuyển sang Thượng Sĩ
Châu giữ hộ tôi. Sau đó, Thánh trao đổi vài câu chuyện với Trung Tướng
Tư Lệnh và thăng. Tôi ra về lại văn phòng tỉnh, Nữa tiếng sau, các cụ
trong Ban Thờ Tự Thánh ở đền thờ mang đến cho tôi một khám thờ khá
đẹp, đặt trên lầu hai của dinh tỉnh trưởng và để thanh gươm vào đấy.
Từ đó, mỗi ngày, Thượng Sĩ Châu đến dinh, lấy gươm mang vào lưng và
đến văn phòng Tỉnh chờ tôi đi công tác. Trong thời gian ở Bình Định
tôi và Thượng Sĩ Châu bị địch bắn rơi trực thăng chỉ huy ba lần nhưng
không bị thưong tích gì, chỉ có phi hành đòan Mỹ bị thương nhẹ. Tôi đã
thóat ra khỏi nhiều trận phục kích của địch trên núi và đánh kiểu độn
thổ dưới chân núi. Thượng Sĩ Châu lúc nào cũng theo sát bão vệ tôi.
Ông là một quân nhân kỷ luật, can đảm và trầm tĩnh. Trước khi rời Tỉnh
Bình Định trở về Nam, tôi mang thanh gươm đến giao trả lại cho Ban Thờ
Tự, các cụ không nhận và bảo rằng Thánh chỉ thị Đại Tá mang theo về
nhiệm sở mới. Tôi cám ơn và mang theo về Sàigòn.
Về đến Sàigòn tôi trình diện Tổng Thống và được bổ nhậm vào chức vụ
Chỉ Huy Trưởng Công Binh và được thăng cấp Chuẩn Tướng sau đó. Tôi
mang cây gươm Thần đến Căn Cứ 40 Công Binh và nhờ một Thiếu Úy cho rèn
lại lưỡi gươm, sửa chữa những chổ bị sứt mẽ và làm vỏ gươm mới. Tôi
ngồi lại chổ xưởng thép và theo dõi. Vị Thiếu úy lấy cán gươm ra
trước, cho vào máy thổi cát chạy lối 5 phút, tắt máy, lấy cán gươm ra,
cả tôi và vị Thiếu Úy đều kinh ngạc. Cán gươm màu đen, cho vào máy
thổi sạch biến thành một thỏi vàng tròn nặng lối 5 kí lô. Vị Thiếu Úy
và hai Hạ Sĩ Quan chuyên môn hòan tất bao gươm và lưỡi gươm trong vòng
2 tiếng đòng hồ. Tôi đưa cán gươm ra cho họ tra vào lưỡi gươm và từ
biệt họ, ra về.
Tôi đã chôn cây gươm nầy ở một nơi thuộc Sài Gòn.
DPP: Về mặt dân sự, ông đã làm gì để an dân? Ông có gặp gỡ các thân
hào nhân sĩ, các tôn giáo, giới trí thức và dân chúng. Họ có sẵn sàng
hợp tác với chính quyền để ngăn chận sự phá rối trị an của thành phần
du đảng tại Qui Nhơn lúc bấy giờ?
NVC: Trong quá khứ, tôi đã làm nhiều công tác xây cất Công Binh trong
tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi và Kontum, Pleiku. Tôi biết rõ người dân
Bình Định rất hào hùng và sĩ khí mạnh mẽ. Tôi có một ngân khỏan lớn
tại Ty Ngân Khố Qui Nhơn để dùng vào các công tác Dân Sự Vụ và tình
báo. Được quân đội Mỹ cấp cho một trực thăng nhỏ dùng vào việc chỉ huy
và liên lạc, tôi thường thăm viếng các xã ấp nghèo ở xa quốc lộ 1,
giúp tiền bạc để xây cất trường tiểu học, bệnh xá, nhà hộ sinh, xây
dựng các đập giữ nước để làm ruộng. Tôi đã trả tiền nợ cho các chủ đất
đã bị trưng dụng để xây cất phi trường Phù Cát lúc Trung Tá Trần Đình
Vọng làm tỉnh trưởng…
Tại thị xã Qui Nhơn, tôi thường tiếp xúc với vị Đầu Tộc đạo Cao Đài,
ông Thái Giáo Hòai, Đại Diện Tổng Liên Đòan Lao Công, ông Mạc Như Tòng
và một số nhân sĩ, trí thức để nhờ họ giúp tôi tìm hiểu dân tình. Tôi
đã cố gắng thuyết phục các cấp Hành Chánh và Quân Sự trong tỉnh giúp
tôi diệt trừ tội ác và tệ nạn tham nhũng. Bộ Tham Mưu Tiểu Khu gíup
tôi thiết lập các kế họach bảo vệ an ninh trong thị xã Qui Nhơn, diệt
trừ các nhóm băng đảng, trộm cắp và lùng bắt VC nằm vùng. Ông Trưởng
Ty Cảnh Sát báo cáo rằng băng đảng của Ba Lực tại Qui Nhơn là khó trị
nhất. Tôi mời ông Thái Giáo Hòai dùng cơm tối với tôi và nhờ ông giúp
ý kiến cho tôi dẹp băng đảng này. Ông Hòai cho tôi biết là khó mà dẹp
được băng đảng bằng súng đạn, mà cần phải đặt vấn đề này qua tinh thần
Dân Tộc và lương tri của người Việt Nam Yêu Nước.
Sáng hôm sau, tôi viết thơ, nhờ người Thượng Sĩ của tôi mang đến tận
nhà anh Ba Lực và chờ lấy thư phúc đáp của anh Ba. Vài giờ sau anh
Thượng Sĩ mang thư của anh Ba hẹn tôi sáu giờ chiều đến nhà anh dùng
cơm tối. Đúng sáu giờ tôi đến trước cửa nhà anh Ba Lực. Vừa bước ra
khỏi xe Jeep với y phục Xây Dựng Nông Thôn, tôi được anh Ba ra tận xe
bắt tay tôi và đưa vào một sân rộng có kê bàn hình chử T và mời ăn cơm
có rượu mạnh. Nhìn trong mắt anh Ba Lực, tôi thấy anh là một người có
nghị lực và cương quyết.
Lúc vào trong sân, tôi đã thấy dưới gầm bàn có một số súng đạn và lựu
đạn nhưng tôi làm như không thấy gị cã. Cơm nước xong, anh em dọn bàn
sạch sẽ và mời uống trà.
Lúc bấy giờ anh Ba đứng lên, cám ơn tôi đã đến dùng cơm với anh em và
mời tôi phát biểu ý kiến, nói xong anh ngồi xuống. Tôi đứng lên cám ơn
anh Ba và anh em đã mời tôi đến tham dự bửa cơm thân mật và tôi xin
phép được nói lên cảm nghĩ của tôi vào thời điểm quan trọng này. Tôi
phát họa tình hình an ninh tổng quát trong tỉnh và cuộc chiến lớn sẽ
xảy ra tại tỉnh Bình Định với Sư Đòan 3 CS ngay trong lãnh thổ tỉnh
nhà. Tôi rất mong muốn thị xã Qui Nhơn có được an ninh trật tự để lo
đánh nhau với địch ngòai tiền tuyến. Đất nước lâm nguy, tôi xin anh Ba
và quí vị giúp nhân dân và tôi giữ được an ninh thị xã bằng cách di
chuyển đến nơi khác làm ăn. Xin cám ơn anh Ba và quí vị. Tôi ngồi
xuống. Mọi người giữ im lặng. Anh Ba đứng lên với lời lẽ mạnh: “ Tôi
nghỉ rằng Đại Tá nói đúng. Tình hình rất nguy ngập. Ngay đêm nay tôi
sẽ giúp anh em mỗi người một số tiền và chúng ta sẽ rời Qui Nhơn, sống
cuộc đời bình thường”. Mọi người vỗ tay tán thưởng. Tôi và anh Ba cùng
đứng lên, tôi bắt tay anh Ba và chào từ biệt mọi người. Anh Ba tiển
tôi ra tận xe.
DPP: Tại sao việc chính phủ lấy đất của dân để xây dựng phi trường Phù
Cát từ thời Tỉnh trưởng Trần Đình Vọng mà đến khi ông về trấn nhậm mới
bồi thường? Ngân khoản này phải là rất lớn, ông có từ đâu?Xin ông cho
biết chi tiết.
NVC: Tôi không rõ vị Tỉnh Trưởng tiền nhiệm( Đại Tá Bách) có giải
quyết chuyện này hay không nhưng khi tôi làm Tỉnh trưởng được 8 ngày
thì nhận được báo cáo Khẩn của Chi Khu Phù Cát lúc 7 giờ sáng, dân
chúng đã biểu tình chận quốc lộ 1 và đòi tiền bồi thường đất bị trưng
dụng thuộc phi trường Phù Cát. Ông Phó Tỉnh trưởng đã gửi một Đại Đội
Cảnh Sát Dã Chiến đến tại chổ để ngăn chận cuộc nổi lọan của đồng bào.
Tôi lập tức báo cho Thiếu Tá Bồng, Chi Khu Trưởng chờ tôi tại hiện
trường để tôi đến giải quyết tại chổ. Thật ra, Bộ Tổng Tham Mưu đã gữi
tiền đến tỉnh Bình Định lúc Trung Tá Trần Đình Vọng giữ chức vụ Tỉnh
Trưởng để trả tiền cho những người bị trưng dụng đất để xây cất phi
trường Phù Cát. Trung Tá Vọng làm thất thoát số tiền này và bị phạt tù.
Đến nơi, tôi được Thiếu Tá Bồng giới thiệu là Đại Tá Tỉnh Trưởng mới
của Tỉnh. Đồng bào thấy tôi mặc bộ đồ bà ba đen, mang giày săn đan cao
su, không có mang cấp bậc Đại Tá, họ có vẻ không tin tôi là Tỉnh
Trưởng. Một vị Trung Tá Mỹ đi theo tôi nói tiếng Việt rất sõi, trình
bày với đồng bào đây là Đại Tá Nguyễn Văn Chức, đương kim Tỉnh Trưởng.
Tiếp theo lời của vị cố vấn Mỹ, tôi chào hỏi đồng bào xong, đưa ra
chương trình trả tiền trưng dụng đất đai của phi trường Phù Cát. Tôi
nói: “ Kể từ ngày mai, mỗi ngày Chi Khu sẽ đưa 10 người chủ đất vào
Khu Tạo Tác Qui Nhơn, quí vị nên mang theo đầy đủ hồ sơ trưng dụng đất
để trình cho Ủy Ban. Nếu đúng theo hồ sơ, quí vị sẽ được trả tiền bằng
chi phiếu và lãnh tiền tại Ngân Khố Qui Nhơn với 7 % tiền lời kể từ
ngày trưng dụng đất. Trung Úy Ba sẽ giao cho quí vị ngân phiếu trả
tiền. Sau đó, một vị lớn tuổi đứng ra thay mặt đồng bào cám ơn chính
quyền Tỉnh rồi họ tự động giải tán. Những ngày về sau, các nhân viên
hữu trách đã giúp tôi mau mắn giải tỏa món nợ đã làm đồng bào đau khổ
từ nhiều năm.
Tôi không nhớ rõ tổng số tiền bồi thường là bao nhiêu. Còn ngân khoản
mà tôi có được để bồi thường là lúc tôi về nhậm chức Tỉnh Trưởng, tôi
được đại sứ Bunker giúp cho 100 triệu đồng chuyển thẳng vào Ty Ngân
Khố Bình Định. Số tiền này dùng làm quĩ Dân Sự Vụ và tình báo.
DPP: Tại sao ông chỉ mặc bộ đồ bà ba đen của Xây Dựng Nông Thôn ?
Những khi tiếp khách hay tiếp những vị sĩ quan cao cấp hơn ông thì ông
mặc y phục gì?
NVC: Tôi đến Bình Định nhận chức vụ Tỉnh Trưởng với quân phục trận,
mang cấp bậc Đại Tá. Sau lễ bàn giao, tôi vào văn phòng Tỉnh và thay
bộ quần áo đen của Xây Dựng Nông Thôn , mang giày săn đan cao su. Thật
ra, tôi không thể mang quân phục Đại Tá vì thượng cấp giao cho trách
nhiệm điều khiển hành quân Sư Đòan 22 Bộ Binh VNCH và Sư Đòan Mãnh Hổ
Đại Hàn. Cả hai vị Tư Lệnh đều mang cấp bậc Thiếu Tướng nên phải mặc y
phục XDNT. Tôi vẫn giữ nguyên bộ y phục XDNT trong công vụ hằng ngày,
cũng như tiếp đón các phái đòan ngọai quốc và trung ương ra thăm viếng
tỉnh Bình Định hay vào Sài Gòn họp, trình diện thượng cấp.
DPP: Có lời đồn là ông không được lòng của một ông dân biểu Bình Định,
nên ông ta đã vận động để thuyên chuyển ông. Điều này đúng hay sai?
NVC: Tôi không hề nghe nói về việc này. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương
có nói với tôi là một số các vị Linh Mục ở Bình Định có xin Tổng Thống
thuyên chuyển tôi đi nơi khác vì tôi quá mê tín. Nhưng đó là chỗ tư
riêng ông Phó Tổng Thống đã nói với tôi như vậy, còn việc tôi đi khỏi
tỉnh Bình Định thì không phải do việc đó.
DPP: Việc ông kỷ luật Trưởng Ty Xã Hội Bình Định thực hư như thế nào ?
Tôi đang đẩy mạnh phong trào bài trừ tham nhũng trong tỉnh. Một vị
Nghị Viên Hội Đồng Tỉnh đến gặp tôi tại văn phòng, cho tôi xem một bản
danh sách có tên những người được Bộ Xã Hội cấp tiền bồi thường về một
vụ thiên tai mấy tháng trước Bản danh sách do Ty Xã Hội Tỉnh thiết lập
có chử ký của người nhận trợ cấp. Có những người trong bản danh sách
lãnh tiền nhiều lần mà ông Nghị Viên đã hight light lên và đưa tôi
xem. Tôi cám ơn ông Nghị Viên và hứa sẽ đem việc này ra công lý. Tôi
mời ông Trưởng Ty Xã Hội đến gặp tôi tại văn phòng trước sự hiện diện
của 2 vị Quân Cảnh Tư Pháp. Tôi đả đưa cho 2 vị Quân Cảnh xem tài liệu
trước khi ông Trưởng Ty đến. Lát sau, ông Trưởng Ty đến, tôi mời ngồi
và đưa bản danh sách lãnh tiền có gạch vàng tên họ của những người đã
lãnh tiền nhiều lần.
Xem xong, ông Trưởng Ty tái mặt và nói rằng đây là bản danh sách do
nhân viên của ông sọan thảo. Tôi chỉ vào chử ký và con dấu của ông
trên trang cuối. Tôi chỉ thị 2 vị Quân Cảnh còng tay ông Trưởng Ty và
đưa đến giam giữ tại Trung Tâm Cải Huấn. Tôi gọi điện thọai cho Ông
Giám Đốc Trung Tâm Cải Huấn, yêu cầu dùng một văn phòng nhỏ, để một
giường và một bàn ăn, không điện thọai, radio. Mỗi ngày mang đến cho
ông ấy ba bửa ăn đầy đủ do ngân khỏan của tôi đài thọ. Không ai được
phép thăm viếng ông ta mà không có giấy cho phép của tôi. Hai hôm sau,
ông Tổng Trưởng Xã Hội ở Sàigòn điện thọai báo cho tôi biết hôm sau
ông sẽ đến gặp tôi tại Qui Nhơn. Tôi ra phi trường đón ông về văn
phòng Tỉnh Trưởng và trình bầy tội trạng của ông Trưởng Ty. Ông Tổng
Trưởng hỏi tôi sẽ xử lý như thế nào. Tôi nói với ông Tổng Trưởng là
tôi sẽ đưa ông ấy đi làm lao công chiến trường ở Phù Mỹ độ một tuần lể
và cho ông phục chức lại, không báo cáo về Trung Ương. Sau đó tôi đưa
ông Tổng Trưởng đi thăm ông Trưởng Ty Xã Hội tại Trung Tâm Cải Huấn.
Ông Tổng Trưởng bằng lòng về cách trừng phạt của tôi. Sau khi dùng cơm
trưa xong, tôi đưa ông ra phi trường trở về Sàgòn.
Ông Trưởng Ty đã thi hành công tác tải đạn cho một Trung Đòan phía Bắc
Qui Nhơn trong 7 ngày và được trả về Qui Nhơn và đảm nhận lại chức vụ
Trưởng Ty Xã Hội.
DPP: Được biết ông có tặng cho trường Tham Mưu Chỉ Huy Cao Cấp ở tiểu
bang Kansas tượng của vua Quang Trung, xin ông kể lại việc này.
NVC: Năm 1966, tôi và 28 Sĩ quan cấp Tá được Bộ Tổng Tham Mưu chỉ định
theo học lớp “Tham Mưu Chỉ Huy Cao Cấp” tại Trường Đại Học Lục Quân
Hoa Kỳ, Fort Leavenworth, Tiểu Bang Kansas. Tôi được chỉ định làm Sĩ
quan Đại diện khóa học này.
Mọi người cùng chung góp tiền cho tôi để thực hiện món quà lưu niệm có
ý nghĩa để tặng cho trường trong ngày khai giảng khóa học.
Từ thuở ấu thơ, tôi được nghe ông Nội tôi kể chuyện về các danh tướng
Việt Nam trong quá khứ của lịch sử. Trong số quí vị danh tướng đó, tôi
thích nhất là Tướng Nguyễn Huệ, khi lên ngôi lấy hiệu “Quang Trung Đại
Đế” trong thế kỷ thứ 18, đã đánh tan quân nhà Mãn Thanh phương bắc,
trong thời gian chớp nhóang vào dịp Tết Kỷ Dậu, giải phóng Thủ Đô
Thăng Long, đem lại thanh bình cho nhân dân miền Bắc và Triều Đình nhà
Lê. Thời gian cho phép ngắn ngủi nhưng tôi hết sức cố gắng để hoàn
thành được tượng vua Quang Trung cưỡi trên lưng chiến mã đang phi nước
đại, miệng thét to, với thanh gươm chỉ về phía trước, hàm râu bị gió
thổi ngược về phía sau, được xưởng Thanh Lễ ở Bình Dương thực hiện.
Tôi rất hài lòng về bức tượng. Tổng cộng chiều cao 1 mét 70, chiều dài
1mét 90. Tôi nhờ ông đóng thùng và bên trong được ràng buộc kỷ lưỡng.
Quà lưu niệm được mang lên máy bay và theo chúng tôi từ SàiGòn đến San
Fransis- co, rồi đến phi trường Kansas City. Học viên và quà lưu niệm
được chở về trường Đại Học Quân Sự. Tôi nhờ hai vị cố vấn cũ của tôi
đang làm giáo sư trong trường giúp tôi cho chiếu ánh sáng vào món quà
của phái đòan Việt Nam khi trình diễn trên sân khấu.
Đúng 8 giờ sáng học viên Đồng Minh và Mỹ lối 400 người cùng vào Đại
Giảng Đường an tọa. Kế tiếp là ban Giáo Sư và Trung Tướng Giám Đốc đến
chủ tọa. Ban quân nhạc trổi lên quốc thiều Mỹ, mọi người đứng lên chào
quốc kỳ Mỹ. Sau thủ tục khai mạc là phần trình bày quà lưu niệm của
đại diện học viên từng quốc gia theo mẫu tự a, b, …Mỗi quốc gia được
dành 20 phút để trình bày ý nghĩa quà lưu niệm của mình nhưng họ chỉ
dung có 3 hay 5 phút là xong. Việt Nam đứng cuối sổ nên khi tới phiên
tôi thì còn quá nhiều thì giờ. Sau khi được giới thiệu tôi đẩy chiếc
xe bốn bánh với tượng một ông Tướng đang cưỡi ngựa ra trận, ai nấy đều
ngạc nhiên vì món quà lưu niệm của Việt Nam quá lớn. Tôi đẩy bức tượng
đến gần máy vi âm và xoay ngang cho mọi người thấy rõ.
Tôi đến máy vi âm, mở lời chào Trung Tướng Giám Đốc, ban Giáo Sư, quan
khách và các học viên Hoa Kỳ và Đồng Minh. Kế đó tôi xin phép Trung
Tướng Giám Đốc được trình bày trong vòng 30 phút. Trung Tướng chấp
thuận. Tôi bắt đầu:
Kính thưa Trung Tướng,
Kính thưa tòan thể quí vị,
Hôm nay, tôi rất hân hạnh được đứng đây để trình bày cùng quí vị lịch
sữ của tượng này được chúng tôi mang đến Trường Đại Học của Lục Quân
Hoa Kỳ tặng làm quà lưu niệm đánh dấu khóa học của phái đòan học viên
Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta đều là thành phần ưu tú của Hoa Kỳ và của
mỗi quốc gia. Lẽ cố nhiên là chúng ta luôn luôn văn ôn – võ luyện, học
tập quân sử của các siêu cường và nhiều quốc gia khác liên quan đến
quốc gia của mỗi chúng ta. Bây giờ, tôi xin trình diện quí ngài vị
Tướng lừng danh của Việt Nam hồi thế kỷ thứ 18. Đó là Đại tướng quân
Nguyễn Huệ, Quang Trung Đại Đế, người đã đánh bại quân đội Thanh Triều
của phương Bắc trong một tuần lể giao tranh. Quang Trung Đại Đế là một
chiến thuật gia và một thiên tài Tiếp Vận.
Xuất phát từ Qui Nhơn thuộc tỉnh Bình Định với 60 ngàn quân sĩ và phần
tiếp vận tiên khởi. Đường sá từ Qui Nhơn ra Thanh Hóa rất hiểm trở thế
mà đòan huấn luyện quân sĩ, mua sắm lương thực và mọi thứ hàng tiếp
vận thật đầy đủ và chỉ mất 40 ngày là đại quân của ngài đã đến Thanh
Hóa với quân số tham chiến là 200 ngàn cộng với 90 ngày lương thực cho
tòan quân. Ông liên tiếp giáng những đòn chí tử vào quân Thanh và đã
tiêu diệt gần hết, chỉ còn một số rất ít chạy được về Tàu. Quân nhà
Thanh chọn quân Thiết Kỵ cao lớn, cưỡi ngựa Mông Cổ, ngựa và người
mang giáp sắt khó bị sát hại. Vua Quang Trung huấn luyện một đạo quân
tại An Khê gồm 6 ngàn người Bình Định thấp, nhỏ, đặt tên là quân Đằng
Giáp và được trang bị một mã tấu nhỏ nhưng rất bén với một cái khiên
bằng mây nhẹ nhưng bền bĩ. Khi xáp chiến với quân thiết kỵ Mãn Thanh
cao lớn, quân Đằng Giáp đứng gần chân ngựa huơ mã tấu chặt vào đầu gối
ngựa, ngay chổ hở của giáp sắt. Ngựa khụyu chân trước, anh lính Mãn
Thanh gục đầu xuống, hở cổ ra chổ nối của bộ giáp, quân Đằng Giáp chỉ
quay mã tấu lại, chặt một nhát vào cổ anh Tầu phù, người và ngựa đổ
xuống chết như rạ…
Buổi tặng quà bế mạc. Trung Tướng Giám Đốc mời tôi lên văn phòng của
ông và yêu cầu tôi giúp ông viết tiểu sử và công trạng của vua Quang
Trung lên một trang giấy. Ông Trung Tướng quyết định đặt tượng vua
Quang Trung ngay trước cửa ra vào Đại Giảng Đường, bao bọc bởi một bức
tường bằng kính dày với tấm bảng mạ vàng đặt trên vách viết về chiến
công hiển hách của người mà tôi kính mến suốt đời: QUANG TRUNG ĐẠI ĐẾ.
DPP: Xin chân thành cảm ơn Chuẩn Tướng đã dành nhiều thì giờ để trả
lời phỏng vấn của chúng tôi. Trân trọng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |