Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1976-1980



tải về 482.61 Kb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích482.61 Kb.
#13401
1   2   3   4   5   6   7

 

Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng, phải chủ động giải quyết vấn đề nguyên liệu bằng việc xây dựng các cơ sở nguyên liệu trong nước đi đôi với việc sử dụng tổng hợp nguyên liệu, tận dụng phế liệu, phế phẩm và nguyên liệu tái sinh. Đối với các mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân và cho xuất khẩu, chúng ta tranh thủ nhập thêm nguyên liệu.



 

 Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cần phấn đấu nâng cao chất lượng, mỹ thuật công nghệhạ giá thành sản phẩm.



Công nghiệp thực phẩm phải bảo đảm chế biến tốt nguồn nông sản và thuỷ sản, góp phần cải tiến bữa ăn của nhân dân.

 

Trong 5 năm tới phải phát triển công nghiệp chế biến lương thực, bảo đảm xay xát đại bộ phận thóc của Nhà nước, chế biến hết số lúa mì và bột mì nhập khẩu, phát triển rộng rãi việc chế biến các loại màu, nhất là sắn, khoai, ngô. Chú ý sản xuất các loại bột cho trẻ em.



 

Tận dụng các nguồn nguyên liệu thuỷ sản và nông sản, đẩy mạnh sản xuất nước mắm nước chấm. Tổ chức rộng rãi việc chế biến thức ăn làm sẵn, phát triển việc chế biến các loại dầu thực vật, các loại nước giải khát. Mở rộng các nhà máy đường hiện có, xây dựng thêm một số nhà máy cỡ 1-2 nghìn tấn mía/ngày trở lên và nhiều cơ sở nhỏ làm đường, mật, sản xuất thêm đường nha, đường gờluycô, đưa sản lượng đường và mật năm 1980 đạt khoảng 22-25 vạn tấn.

 

Phát triển công nghiệp chế biến rau quả xuất khẩu, xây dựng thêm nhiều cơ sở đông lạnh để sản xuất rau quả ướp đông, đặc biệt là dứa ướp đông. Phát triển chế biến chè, thuốc lá.



 

Nghề muối phải thoả mãn nhu cầu muối ăn và muối nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp.

 

2. Xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng



 

Phải đẩy mạnh xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng trước hết là ngành cơ khí, để phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp nặng, phục vụ tốt nhu cầu rất lớn trước mắt của nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành kinh tế khác, đồng thời chuẩn bị khả năng đáp ứng nhu cầu trang bị kỹ thuật lớn hơn cho nền kinh tế trong kế hoạch sau.

 

Cơ khí là ngành then chốt có nhiệm vụ trang bị kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động của gần 22 triệu lao động hiện nay. Phát triển mạnh ngành cơ khí là một trọng tâm của kế hoạch 5 năm này.

 

Phải kết hợp chặt chẽ lực lượng sản xuất cơ khí của các ngành kinh tế và quốc phòng, của quốc doanh, hợp tác xã và của các thành phần kinh tế khác. Tổ chức lại sản xuất trong toàn ngành cơ khí, phân công hợp lý giữa các lực lượng cơ khí trong cả nước, bổ sung thiết bị, đồng bộ hoá một bước năng lực sản xuất cơ khí. Ra sức phát huy công suất của các nhà máy hiện có, tích cực xây dựng thêm một số nhà máy cơ khí quan trọng. Trong kế hoạch 5 năm này, ngành cơ khí phải phấn đấu đáp ứng những nhu cầu chủ yếu sau đây:



 

- Nhanh chóng cung ứng đủ công cụ thường và công cụ cải tiến cho các ngành kinh tế, trước hết là cho nông nghiệp và xây dựng.

 

- Cung ứng một phần quan trọng máy móc, thiết bị lẻ phục vụ nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng cơ bản và giao thông vận tải, nhất là về các loại sản phẩm như máy công cụ, máy kéo nhỏ, máy bơm, tàu hút bùn, tàu cá, tàu ven biển, toa xe...



 

- Bước đầu sản xuất một số loại thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp sản xuất gạch, ngói, xi măng, chế biến phân lân, sản xuất đường, chè, xay xát gạo, chế biến màu...

 

- Đáp ứng phần lớn nhu cầu phụ tùng thông thường của các ngành công nghiệp; nâng cao đáng kể mức đáp ứng nhu cầu phụ tùng ô tô, máy kéo; đáp ứng phần lớn nhu cầu sửa chữa máy móc, thiết bị của các ngành.



 

Phải rất coi trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm cơ khí.

 

Để có năng lực đáp ứng nhu cầu lớn hơn về trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế trong kế hoạch sau, cần tích cực chuẩn bị và khởi công xây dựng một số công trình cơ khí rất quan trọng như nhà máy sản xuất máy kéo cỡ vừa, các nhà máy sản xuất máy mài, nhà máy sản xuất máy rèn dập, nhà máy rèn đúc tập trung, nhà máy cơ khí nặng và một số nhà máy cơ khí phục vụ chuyên ngành quan trọng khác.



 

Hiện nay và trong nhiều năm tới, chúng ta đặc biệt quan tâm phát triển ngành điện, ngành than và tích cực xây dựng công nghiệp khai thác và chế biến dầu mỏ, khí đốt.

 

Để đưa sản lượng điện đến năm 1980 đạt 5 tỷ kwh trở lên, đồng thời chuẩn bị nguồn điện cho các năm sau, phải khẩn trương xây dựng nhiều nhà máy điện vừa và lớn, trong đó có các Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Đáp Cầu, Đông Hà, Nhà máy Thủy điện Đa Nhim mở rộng, chuẩn bị khởi công Nhà máy Thuỷ điện Cốc San (Hoàng Liên Sơn). Chúng ta sẽ khởi công xây dựng công trình thuỷ điện lớn trên sông Đà. Khi công trình này hoàn thành và phát huy đầy đủ công suất thiết kế, chúng ta sẽ có thêm hàng năm khoảng 7,5 tỷ kwh điện với giá thành rẻ, việc chống lũ cho đồng bằng Bắc Bộ sẽ được giải quyết một bước rất quan trọng. Phải phát triển mạng lưới điện cân đối với nguồn điện, mở rộng mạng lưới điện phục vụ nông nghiệp, thuỷ lợi, nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tận dụng khả năng xây dựng thêm các trạm thuỷ điện nhỏ và vừa, đồng thời rất coi trọng việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm điện.



 

Phấn đấu đưa sản lượng than năm 1980 lên 10 triệu tấn. Ngoài nhiệm vụ cung ứng than cho nhu cầu công nghiệp, phải bảo đảm có đủ than cho nông dân làm chất đốt thay rạ và sản xuất ngói. Xây dựng một số mỏ than công suất cỡ 1 đến trên 2 triệu tấn/năm, chú trọng xây dựng nhanh mỏ Cao Sơn; đồng thời tích cực xây dựng nhiều mỏ vừa và nhỏ, khai thác thêm than địa phương, thu hồi và tận dụng triệt để các loại than nhiệt lượng thấp. Đẩy mạnh việc chế biến các loại than. Thực hiện phân phối than chặt chẽ, tăng cường quản lý và cải tiến kỹ thuật để sử dụng than hợp lý và tiết kiệm.

 

Đặc biệt coi trọng đẩy mạnh công tác thăm dò và tiến tới khai thác dầu mỏ, khí đốt ở cả phía Bắc và phía Nam, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy chế biến dầu mỏ đầu tiên ở nước ta.



 

Nhìn chung, nguồn năng lượng trong thời gian tới chưa tăng được nhiều, vì vậy càng cần tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng, tích cực nghiên cứu sử dụng thêm các nguồn năng lượng khác như trồng cây lấy củi, dùng khí sinh vật, dùng năng lượng mặt trời, sức gió, v.v..

 

Hết sức coi trọng phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu trong nước, trước hết là tăng sản xuất thép, phân bón, hoá chất và vật liệu xây dựng.



 

Để đáp ứng được một phần nhu cầu cấp bách về thép, phải hoàn chỉnh các cơ sở gang thép ở khu vực Lưu Xá, Gia Sàng, tăng thêm năng lực sản xuất thép ở các tỉnh phía Nam, phát triển sản xuất thép đúc trong các nhà máy cơ khí. Tổ chức phong trào quần chúng thu nhặt thép vụn và các phế liệu kim loại khác, tích cực thu hồi phế liệu kim loại, cung ứng cho các cơ sở luyện kim. Phấn đấu năm 1980 đạt sản lượng thép cán 30 vạn tấn. Để tăng sản xuất thép vào kế hoạch 5 năm sau, cần chuẩn bị và khởi công xây dựng nhà máy gang thép mới ở khu vực Thái Nguyên với công suất 25 vạn tấn thép/năm. Mở rộng sản xuất crômít, thiếc. Tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng khu gang thép mới và một số cơ sở luyện kim màu khác khi có điều kiện.

 

Trong công nghiệp hoá chất, sản lượng các loại phân bón hoá học năm 1980 tăng lên 1,3 triệu tấn, chủ yếu là phân lân và apatít nghiền. Mở rộng sản xuất thuốc trừ sâu, trừ cỏ, các hoá chất kích thích cây trồng và gia súc sinh trưởng. Ra sức phát huy năng lực sản xuất săm lốp ô tô và đắp lại lốp ô tô hiện có, đồng thời tăng thêm công suất mới. Đẩy mạnh sản xuất thuốc chữa bệnh. Tận dụng khả năng của các cơ sở công nghiệp hoá chất, đặc biệt là khả năng của lực lượng tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, dùng nguyên liệu trong nước làm ra các loại hoá chất công nghiệp thông thường.



 

Để tăng đáng kể năng lực của công nghiệp hoá chất vào những năm sau, trong kế hoạch 5 năm này sẽ khởi công xây dựng một số nhà máy hoá chất quan trọng, trong đó có Nhà máy phân đạm (công suất 80 vạn tấn phân tiêu chuẩn/năm), công trình mở rộng khai thác và làm giàu quặng apatít, Nhà máy sợi Vítcô (công suất 2 vạn tấn/năm), Nhà máy xút cốttích (công suất 6,6 vạn tấn/năm) và một số nhà máy hoá chất khác.

 

Trong những năm tới, việc phát triển mạnh mẽ và rộng khắp công nghiệp sản xuất các loại vật liệu xây dựng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, tạo điều kiện mở rộng xây dựng trong cả nước. Đi đôi với việc xây dựng một số nhà máy xi măng lớn cỡ trên dưới 1 triệu tấn/năm, cần phát triển nhiều cơ sở xi măng vừa và nhỏ ở các địa phương, sản xuất thêm các chất kết dính cấp thấp dùng cho các công trình ít chịu lực và xây dựng ở nông thôn. Phấn đấu đến năm 1980 sản xuất được 2 triệu tấn xi măng.



 

Quy mô xây dựng rộng lớn trong cả nước đòi hỏi mở rộng sản xuất gạch, ngói, tấm lợp, bê tông đúc sẵn, kính xây dựng, đồ sứ vệ sinh, đồ gốm xây dựng, gạch lát các loại, v.v.. Đồng thời với việc phát triển các xí nghiệp quốc doanh sản xuất trung ương, phải phát triển mạnh các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng của địa phương, của hợp tác xã, tận dụng mọi nguồn vật liệu địa phương để phục vụ xây dựng ở địa phương. Coi trọng cung ứng vật liệu xây dựng cho nông nghiệp, thuỷ lợi, cho xây dựng nông thôn. Chú trọng mở rộng khai thác đá và nung vôi, vừa để đáp ứng nhu cầu xây dựng, vừa để cung ứng cho nhu cầu bón ruộng và cải tạo đất.

 

3. Phát triển giao thông vận tải. Đẩy mạnh xây dựng cơ bản



 

Giao thông vận tải và xây dựng cơ bản gắn liền với sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, nối liền hoạt động của các ngành sản xuất công - nông nghiệp và phục vụ cho các ngành sản xuất công - nông nghiệp thực hiện các mục tiêu của kế hoạch.

 

Quy mô phát triển kinh tế và việc phân bố lại lực lượng sản xuất đòi hỏi mở rộng hoạt động của giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong phạm vi cả nước, cũng như trong từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu trước mắt rất lớn của các ngành kinh tế, đồng thời chuẩn bị đáp ứng những nhu cầu to lớn hơn trong kế hoạch sau. Muốn vậy, phải kiên quyết sớm khắc phục tình trạng năng lực giao thông vận tải và thông tin liên lạc không cân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và không cân đối giữa các bộ phận trong nội bộ ngành.



 

Phát huy những thuận lợi lớn của vận tải đường biển, trong 5 năm này, xúc tiến cải tạo và phát triển một bước các cảng biển (chú ý cảng Hải Phòng), mở rộng các cảng than, xây dựng cảng mới ở Cửa Lò, tăng cường có trọng điểm năng lực thông qua của các cảng ở miền Trung và miền Nam. Đẩy mạnh công tác nạo vét các luồng lạch. Tăng thêm tàu biển và sà lan.

 

Vận tải đường sắt giữ vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tiếp tục củng cố các tuyến đường đã thông xe, cải tạo, mở rộng và trang bị hệ thống thông tin tín hiệu nửa tự động cho một số tuyến đường quan trọng. Chấn chỉnh tổ chức quản lý để tăng năng lực vận chuyển trên các trục đường chính. Chú ý làm thật tốt những công trình lớn trong 5 năm này là khu đầu mối Hà Nội, cầu Thăng Long, mở rộng đường Hà Nội, Hải Phòng lên 1,435m, bắt đầu mở rộng đường sắt Bắc - Nam.



 

Trong thời gian tới, để tận dụng hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch rất thuận lợi cho vận tải đường sông, ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Bắc Bộ, cần cải tạo và phát triển hệ thống cảng sông, nạo vét luồng lạch, cơ giới hoá khâu bốc dỡ, phát triển rộng rãi việc đóng các phương tiện vận tải cơ giới và thô sơ trên sông và phương tiện vừa đi sông vừa đi ven biển.

 

Về đường bộ, đi đôi với việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp hệ thống đường quốc lộ, chú trọng xây dựng và mở rộng hệ thống đường giao thông ở nông thôn, đường giao thông miền núi và đường ra vào các vùng kinh tế mới. Sắp xếp lại lực lượng ô tô vận tải hiện có để sử dụng hợp lý. Phát triển thêm các loại phương tiện vận tải thô sơ và cải tiến để phục vụ nông thôn, phục vụ miền núi.



Cải tạo và xây dựng hệ thống đường ống vĩnh cửu với lưu lượng lớn hơn. Phát triển một bước ngành hàng không dân dụng để phục vụ việc đi lại trong nước và với các nước ngoài.

 

Ngành vận tải hành khách phải tăng thêm thích đáng phương tiện vận tải công cộng, coi trọng cải tiến tổ chức quản lý và nâng cao chất lượng phục vụ.

 

Cùng với việc phát triển giao thông vận tải trên các tuyến do trung ương quản lý, cần hết sức coi trọng phát triển giao thông vận tải địa phương ở từng tỉnh, từng huyện và xã, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và tổ chức lại sản xuất ở địa phương.



 

Trong giai đoạn mới, phải coi trọng phát triển bưu điện, tăng cường hệ thống thông tin đường dài, đặc biệt là hệ thống thông tin từ trung ương đến các tỉnh phía Nam, song song với việc tăng cường mạng lưới thông tin trong các thành phố, khu công nghiệp. Từng bước mở rộng trang bị điện thoại đến các huyện, đến phần lớn xã ở đồng bằng, trung du, đến các nông trường và các hợp tác xã nông nghiệp lớn.

 

Quy hoạch hợp lý hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong cả nước cho phù hợp với quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất.



 

Nâng cao trình độ tổ chức và quản lý để phát huy hơn nữa hiệu quả của phương tiện vận tải và phương tiện thông tin hiện có.

Trong kế hoạch 5 năm, quy mô phát triển sản xuất và xây dựng đòi hỏi công tác xây dựng cơ bản tăng lên vượt bậc. Bên cạnh khối lượng xây dựng của trung ương, khối lượng xây dựng của địa phương, của hợp tác xã, của nhân dân rất lớn. Ngành xây dựng giữ vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu của các ngành kinh tế, nhất là của nông nghiệp và thuỷ lợi. Phải bảo đảm đưa vào sản xuất đúng hạn nhiều công trình quan trọng đáp ứng sự phát triển cân đối giữa ngành này với ngành khác. Phải xây dựng nhanh nhà ở cho dân để mọi người được an cư lạc nghiệp và có đời sống gia đình yên vui. Phải quy hoạch các khu vực dân cư ăn khớp với sự phân bố mới của lực lượng sản xuất. Từng bước xây dựng theo quy hoạch đã định Thủ đô của nước nhà thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng các khu công nghiệp, các thành thị phải tiến hành đồng bộ, vừa có các cơ sở kinh tế, vừa có đủ kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của dân cư.

 

Để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng đó, trong những năm tới, ngành xây dựng phải được phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, lớn mạnh cả về lực lượng khảo sát, thiết kế, thi công, lực lượng sản xuất vật liệu và lực lượng nghiên cứu khoa học. Ngoài lực lượng xây dựng của Bộ Xây dựng, phải phát triển lực lượng xây dựng của các ngành kinh tế khác, lực lượng xây dựng chuyên nghiệp của quân đội và lực lượng xây dựng của các địa phương, của các hợp tác xã nông nghiệp.



 

Tăng cường nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong xây dựng, tăng cường lực lượng cán bộ nghiên cứu và tăng cường trang bị cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu mới về khoa học, kỹ thuật xây dựng của thế giới vào điều kiện nước ta, sáng tạo ra những kinh nghiệm của ta về xây dựng ở vùng nhiệt đới.

 

Xây dựng nhanh, có hiệu quả, với chất lượng tốtgiá thành rẻ là những yêu cầu cấp bách hiện nay. Vì vậy, phải tập trung lực lượng làm dứt điểm và đồng bộ từng công trình, nhất là những công trình quan trọng về kinh tế và phục vụ đời sống nhân dân. Càng rút ngắn thời gian thi công, đưa nhanh công trình vào sử dụng, nâng cao chất lượng của công trình bao nhiêu, càng đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế bấy nhiêu.

 

Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương phải có kế hoạch xây dựng cơ bản vững chắc. Kế hoạch đầu tư xây dựng công trình phải dựa trên cơ sở làm tốt các khâu chuẩn bị ban đầu, phải cân đối kế hoạch thiết kế, kế hoạch thi công, kế hoạch cung ứng vật liệu xây dựng và thiết bị lắp đặt vào công trình. Hết sức chống xu hướng bố trí phân tán vốn đầu tư và vật tư trong xây dựng cơ bản, gây ra lãng phí, kéo dài thời gian xây dựng và chậm phát huy hiệu quả.



 

Đặc biệt coi trọng cải tiến tổ chức quản lý thi công, mở rộng việc áp dụng các phương pháp tổ chức lao động khoa học, các phương pháp quản lý thi công theo sơ đồ mạng.

 

Coi trọng đúng mức công nghiệp hoá ngành xây dựng. Trang bị đủ công cụ với chất lượng ngày càng tốt cho đội ngũ lao động xây dựng. Nâng cao hiệu suất sử dụng thiết bị thi công hiện có, tăng cường việc trang bị máy thi công, chủ yếu cho các công việc xây dựng nặng nhọc, có khối lượng lớn, trước hết là trong xây dựng các công trình đầu mối về thuỷ lợi, các công trình công nghiệp lớn.



 

Để góp phần khắc phục khó khăn về vật liệu xây dựng, phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vật liệu xây dựng từ thiết kế đến thi công, tích cực tìm các giải pháp kỹ thuật để tiết kiệm vật liệu, nhất là thép, gỗ, xi măng, tích cực dùng vật liệu thay thế được sản xuất trong nước.

 

Một khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng của kế hoạch 5 năm là gấp rút tăng cường công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng, trước hết là tăng cường các công tác khảo sát, quy hoạch, thiết kế. Ra sức tăng cường đội ngũ thăm dò, khảo sát, trang bị thêm thiết bị khảo sát, đo đạc, nghiên cứu, thử nghiệm...



 

4. Chuyển hướng mạnh công tác lưu thông, tài chính, ngân hàng theo yêu cầu cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa

 

Trong 5 năm này, phải chuyển hướng mạnh công tác lưu thông, phân phối, phù hợp với yêu cầu tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất, cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.



 

Các ngành làm công tác lưu thông phải chuyển biến căn bản về quan điểm, tổ chức, phương thức và chất lượng kinh doanh để nối liền sản xuất với tiêu dùng, công nghiệp với nông nghiệp, làm người hậu cần tốt cung ứng vật tư kỹ thuật cho sản xuất và xây dựng, làm người nội trợ giỏi cung ứng hàng tiêu dùng cho toàn dân.

 

Hệ thống cung ứng vật tư hiện nay còn gây nhiều trở ngại cho sản xuất và xây dựng, cần được cải tiến mạnh. Sự phân công về cung ứng vật tư, tổ chức màng lưới và phương thức cung ứng vật tư, cần được đổi mới theo hướng thực hiện bán buôn tư liệu sản xuất một cách đúng đắn, khắc phục lối quản lý bao cấp, chống tệ cửa quyền, móc ngoặc, phục vụ tốt các cơ sở sản xuất và xây dựng, từng bước thực hiện đưa vật tư kịp thời, đúng với yêu cầu về số lượng và chất lượng, đến tận xí nghiệp, tận hợp tác xã hoặc đến địa điểm gần nơi sản xuất. Cải tiến việc cung ứng vật tư, đáp ứng tốt các nhu cầu về công cụ lao động, các phương tiện làm việc, hiện nay là nhân tố có tác dụng rất quan trọng để nuôi dưỡng phong trào quần chúng thi đua lao động và sản xuất với nhiệt tình cao. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều thành phần, ngành nội thương còn phải đảm nhận chức năng cung ứng một số vật tư, bán một phần tư liệu sản xuất. Phương thức hoạt động của ngành nội thương trong lĩnh vực này phải đáp ứng yêu cầu khuyến khích tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển các mặt hàng phong phú và đa dạng, thoả mãn các nhu cầu nhiều mặt của nhân dân mà kế hoạch nhà nước không bao quát hết.



 

Về cung ứng hàng tiêu dùng cho nhân dân, ngành thương nghiệp phải nhạy cảm trước yêu cầu của quần chúng, tìm cách tác động, kích thích phát triển thêm nguồn hàng, tăng rất mạnh những mặt hàng thiếu để thoả mãn thị trường, bảo đảm phục vụ tốt nhất, kịp thời nhất các nhu cầu của nhân dân, bảo đảm phân phối hàng hoá thuận tiện đến tay mọi người lao động.

 

Bằng những mối quan hệ bán tư liệu sản xuất và hàng công nghiệp tiêu dùng, ký hợp đồng hai chiều, thương nghiệp phải kích thích sản xuất nông nghiệp và thu mua nắm nguồn hàng nông sản. Thông qua việc cải tiến rõ rệt cách gia công, bán nguyên liệu, thu mua thành phẩm, bằng chính sách giá cả hợp lý, thương nghiệp phải nắm phần lớn nhất hàng công nghiệp tiêu dùng của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp.



 

Nhà nước phải có kế hoạch nắm và điều động hàng hoá trong phạm vi cả nước, tổ chức lưu thông hàng hoá giữa các vùng kinh tế. Các địa phương phải đề cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt nghĩa vụ thu mua, giao nộp sản phẩm và điều động hàng hoá, nhất là lương thực và nông sản thực phẩm, theo kế hoạch của trung ương. Khắc phục tình trạng lỏng lẻo và xu hướng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa hiện nay trong việc thu mua, giao nộp sản phẩm và điều động hàng hoá.

 

Với việc phân bố lại lao động và dân cư trên nhiều vùng kinh tế mới, màng lưới thương nghiệp phải trải rộng ra, đi sâu vào nông thôn, các khu vực công trường, nông trường, lâm trường mới. Mở rộng và sắp xếp lại màng lưới thu mua, màng lưới bán lẻ, tăng thêm nhiều điểm thu mua, bán hàng và quầy hàng lưu động.



 

Bố trí hợp lý thời gian thu mua và bán hàng, dùng nhiều hình thức thu mua và bán hàng thuận tiện nhất cho người sản xuất, cho khách hàng, nâng cao nghiệp vụ thương nghiệp, xây dựng thái độ phục vụ đúng đắn, chống thái độ cửa quyền, gây phiền hà cho người sản xuất và người tiêu dùng.

 

Đặc biệt coi trọng mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ ăn uống công cộng, phát triển màng lưới phục vụ sinh hoạt cho nhân dân.



 

Phát triển mạnh thành phần thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân, tiếp tục chuyển phần lớn những người buôn bán nhỏ sang sản xuất, đấu tranh chống đầu cơ, tích trữ và quản lý tốt thị trường tự do, nhất là ở vùng mới giải phóng. Tăng cường chỉ đạo và hướng dẫn các hoạt động lưu thông ở chợ nông thôn, duy trì chợ nông thôn làm nơi trao đổi trực tiếp sản phẩm kinh tế phụ gia đình giữa nông dân với nhau và với những người tiêu dùng khác.

 

Tuỳ theo tình hình phát triển sản xuất, từng bước thu hẹp các mặt hàng bán theo định lượng. Trong việc phân phối hàng hoá phục vụ nhân dân, ngành thương nghiệp phải kiên quyết thực hiện phân phối công bằng, hợp lý, luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên".



 

Dự kiến đến năm 1980, tổng mức hàng hoá bán lẻ toàn xã hội tăng trên 50% so với năm 1976, trong đó mức bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sẽ tăng gần gấp đôi và chiếm 80% tổng doanh số bán lẻ.

 

Trong khi tổ chức lại nền sản xuất xã hội, hệ thống tài chính phải bảo đảm huy động đầy đủ và sử dụng tốt tất cả mọi nguồn vốn trong nước để đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, cũng như nhu cầu nâng cao phúc lợi cho nhân dân.



 

Để làm được nhiệm vụ đó, cần kiểm kê, nắm vững và kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng mọi nguồn tài sản cố định và tài sản lưu động hiện có, kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chế độ hạch toán kinh tế và các chế độ, thể lệ tài chính khác, thúc đẩy các cơ sở sản xuất và kinh doanh tận dụng hết mọi nguồn dự trữ về sức lao động, thiết bị, vật tư và tiền vốn hiện có, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đồng vốn sản xuất. Vận dụng tốt để phát huy tác dụng tích cực của chế độ thu quốc doanh, chế độ nộp lợi nhuận và phân phối lợi nhuận, trích lập ba quỹ của xí nghiệp quốc doanh, các chế độ thưởng, phạt... Nghiên cứu cải tiến và thực hiện đầy đủ chế độ thuế công bằng, hợp lý đối với khu vực kinh tế tư doanh, tập thể và cá thể, góp phần điều tiết đúng đắn nguồn thu nhập của các tầng lớp dân cư. Tóm lại, tài chính phải tìm mọi cách tạo ra những nguồn tích luỹ mới từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, chủ yếu là tích luỹ từ nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú và năng lực sản xuất sẵn có.

 

Trong kế hoạch 5 năm, phải xây dựng được một ngân sách tích cực, thống nhất cả nước, bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các địa phương. Phải quản lý chặt chẽ việc thu chi tài chính thống nhất trong tất cả các cấp ngân sách, bảo đảm sử dụng tập trung, đúng hướng mọi nguồn vốn của Nhà nước vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và củng cố quốc phòng. Đồng thời, cần xác định đúng đắn quyền hạn về thu, chi tài chính của các cấp chính quyền địa phương, tương ứng với nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho mỗi cấp tỉnh, huyện, xã. Trong việc phân phối vốn, nhất là vốn đầu tư, cần hết sức chặt chẽ, tập trung cao để tránh lãng phí và phát huy được hiệu quả lớn. Phải tiết kiệm các khoản chi, nhất là chi về quản lý hành chính.


Каталог: coltech -> sites -> default -> files
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Cơ học kỹ thuật
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> I- nhậN ĐỊnh tình hình miền bắC
files -> Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đảng Cộng sản Việt Nam
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 2020 Ngày 4/3/2011. Cập nhật lúc 16
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 2010 Ngày 12/7/2003. Cập nhật lúc 15
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Khoa học máy tính

tải về 482.61 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương