Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1976-1980



tải về 482.61 Kb.
trang2/7
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích482.61 Kb.
#13401
1   2   3   4   5   6   7


 

Dự kiến bình quân hàng năm sản phẩm xã hội tăng từ 14 - 15%, thu nhập quốc dân tăng 13 - 14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8 - 10%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 16-18%. Năng suất lao động xã hội tăng 7,5 - 8%. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, cần phấn đấu đạt tốc độ phát triển cao hơn các chỉ tiêu đó, nhất là về những lĩnh vực có điều kiện, đặc biệt trong nông nghiệp.

 

Nhằm đạt các chỉ tiêu tổng hợp trên đây, nhiệm vụ phát triển các ngành kinh tế và văn hoá như sau:



 

1. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tập trung cao độ mọi lực lượng của chúng ta để đưa nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc; đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng

 

Trong kế hoạch 5 năm này, chúng ta tập trung lực lượng của cả nước, của tất cả các ngành, các địa phương phục vụ cho nông nghiệp, làm cho nông nghiệp phát triển rất mạnh mẽ cả về trồng trọt và chăn nuôi, trên khắp các vùng của đất nước để giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực và thực phẩm, tăng nguồn cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp và tăng nhanh hàng xuất khẩu.



 

Xuất phát từ yêu cầu cấp bách và cơ bản hiện nay về lương thực (cho người và cho chăn nuôi), cả nước ta phải đẩy mạnh cao trào sản xuất lương thực, đồng thời đẩy mạnh sản xuất các loại thực phẩm, cả về thực vật và động vật, để đến năm 1980 đạt ít nhất 21 triệu tấn lương thực quy thóc, 1 triệu tấn thịt hơi các loại.

 

Trên địa bàn cả nước, các địa phương ở đồng bằng và trung du cần tăng nhanh diện tích cây lương thực đi đôi với thâm canh để có sản lượng lương thực cao nhất, bảo đảm đủ cho nhu cầu của nhân khẩu nông nghiệp ở địa phương mình, làm tốt nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước; các địa phương ở miền núi, trong khi phát huy ba thế mạnh về lâm nghiệp, cây công nghiệp và chăn nuôi, vẫn phải rất coi trọng việc trồng các loại cây lương thực trên những diện tích thích hợp, nhằm tăng thêm sức giải quyết lương thực tại chỗ cho địa phương mình.



 

Phải rất coi trọng hoa màu. Đẩy mạnh sản xuất hoa màu phải gắn liền với việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp ở từng vùng. Các địa phương phải có kế hoạch trồng cây hoa màu các loại: ngô, khoai, sắn, khoai tây, cao lương, dong riềng, các loại cây có bột khác..., phấn đấu đưa tỷ trọng hoa màu lên 30% sản lượng lương thực như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Trung ương đã nhấn mạnh. Đi đôi với sản xuất, phải tổ chức tốt việc chế biến hoa màu, việc vận chuyển và phân phối hoa màu đã chế biến, làm cho việc dùng hoa màu trong bữa ăn hàng ngày trở thành một tập quán của nhân dân các vùng trên đất nước ta.

 

Tăng cường hơn nữa diện tích và sản lượng rau, đậu các loại. Đậu tương, một nguồn đạm quan trọng cho người và gia súc, cần được phát triển mạnh ở khắp nơi; tăng nhanh diện tích cây có dầu như lạc, vừng, dừa, sở, cọ dầu, v.v. để cung ứng dầu và đạm thực vật cho bữa ăn.



 

Phải rất coi trọng việc trồng cây công nghiệp cây ăn quả theo hướng sản xuất tập trung và trên quy mô lớn nhằm phục vụ cho công nghiệp và xuất khẩu. Kiên quyết dành diện tích trồng mía để đẩy mạnh sản xuất đường. Phát triển thêm diện tích mía ở một vài địa phương trên miền Bắc, trồng tập trung trên diện tích lớn ở miền Đông Nam Bộ và một phần ở Tây Nguyên. Ưu tiên dành diện tích ở những vùng có điều kiện khí hậu và đất đai thích hợp (Phú Khánh, Thuận Hải, Cheo Reo) cho cây bông. Chăm sóc diện tích đã trồng cao su để có thu hoạch tốt, đồng thời mở rộng diện tích trồng loại cây nguyên liệu quan trọng này ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Phát triển mạnh diện tích trồng đay, cói ở các tỉnh phía Bắc và Nam Bộ, đồng thời phát triển những cây có sợi khác như gai, lanh, gòn, dứa dại... Mở thêm diện tích trồng cà phê ở Tây Nguyên, phát triển trồng chè thuốc lá ở các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc và một phần ở phía Nam. Tăng nhanh diện tích các loại cây ăn quả, nhất là dứa, chuối..., phát triển mạnh các loại cây làm thuốc, cây tinh dầu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

 

Tận dụng mọi khả năng để đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, đưa chăn nuôi thành một ngành chính, từ đó mà tăng thêm thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, tăng nhanh nguồn phân bón hữu cơ, tăng thêm sức kéo cho nông nghiệp và lâm nghiệp. Sớm hình thành các vành đai thực phẩm xung quanh các thành phố lớn, các khu công nghiệp để có thịt, cá, rau các loại cung ứng trực tiếp và thuận lợi cho nhu cầu ngày càng lớn của các khu dân cư này. Đẩy mạnh chăn nuôi phải bắt đầu từ việc lập kế hoạch bố trí cơ cấu cây trồng. Kiên quyết dành diện tích trồng cây thức ăn cho gia súc đi đôi với việc tổ chức chế biến thức ăn gia súc. Đàn lợn phải được tăng cả về số lượng và trọng lượng đầu con; coi trọng phát triển đàn lợn gia đình, đồng thời tăng nhanh đàn lợn của tập thể và đàn lợn của quốc doanh. Tích cực khôi phục và phát triển đàn trâu, bò; xây dựng các vùng chăn nuôi bò sữa, bò thịt ở Mộc Châu, Lâm Đồng, Tuyên Đức...; từng bước mở rộng việc nuôi trâu sữa ở các vùng có điều kiện. Phát triển mạnh việc nuôi theo kiểu công nghiệp, đặc biệt là ở các vùng quanh thành phố, khu công nghiệp; phát triển nhanh đàn vịt ở các vùng đồng bằng và ven biển. ở những nơi có điều kiện thì phát triển chăn nuôi dê, thỏ, ngựa, ong...



 

Với cơ cấu nông nghiệp như trên đây, chúng ta từng bước cải tiến cơ cấu bữa ăn cho có thành phần dinh dưỡng tốt hơn, phù hợp với khả năng và tập quán từng vùng.

 

Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chúng ta vừa thâm canh, tăng vụ, vừa mở rộng diện tích trồng trọt. Diện tích đất nông nghiệp của chúng ta trong tương lai dù có tăng đến trên 10 triệu hécta (gần gấp đôi mức năm 1975), thì tính theo đầu người diện tích đất nông nghiệp vẫn rất thấp. Do đó thâm canh cao độ là con đường cơ bản và lâu dài trong nông nghiệp nước ta. Trước mắt, để tăng thêm đất canh tác, phải ra sức phục hoá và khai hoang, diện tích được mở đến đâu phải thâm canh ngay đến đó. Trong 5 năm này, chúng ta phấn đấu khai hoang 1 triệu hécta, nhằm chủ yếu vào Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, ngoài ra là một số vùng ở Tây Nguyên, duyên hải Trung Bộ và những nơi có điều kiện ở các tỉnh phía Bắc.



 

Phát triển nông nghiệp gắn liền với việc đẩy mạnh ba cuộc cách mạng trong nông nghiệp.

 

Phải ra sức củng cố và hoàn thiện việc quản lý các hợp tác xã nông nghiệp và các nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, ra sức xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam. Nông nghiệp phía Nam có những điều kiện tốt để đi thẳng và đi nhanh lên sản xuất lớn với những nông trường chuyên canh được trang bị tốt, với những hợp tác xã nông nghiệp có khả năng phát triển nhanh về nhiều mặt.



 

Cần nắm vững ưu thế về thời tiết và khí hậu của đất nước ta để đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp, nghiên cứu sâu những vấn đề đặc thù của nông nghiệp nước ta, ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới, phục vụ ngày càng thiết thực sự nghiệp phát triển nông nghiệp.

 

Kinh nghiệm bao đời nay của nhân dân ta chứng tỏ thuỷ lợi bao giờ và ở đâu cũng là biện pháp hàng đầu để mở rộng diện tích, để thâm canh, tăng vụ, cải tạo đất. Là mũi nhọn quyết định thắng lợi của toàn bộ công cuộc phát triển sản xuất nông nghiệp, khối lượng xây dựng các công trình thuỷ lợi trong 5 năm này của cả nước dự kiến sẽ gấp đôi tổng khối lượng đã thực hiện trong 20 năm qua ở các tỉnh phía Bắc. Khởi công sớm, hoàn thành nhanh và tốt các công trình thuỷ lợi, chúng ta sẽ tận dụng được đất đai sẵn có với hiệu quả cao, thu hút được nhiều lao động vào sản xuất, có thêm nhiều sản phẩm, trước hết là lương thực. Chúng ta phải có những biện pháp đặc biệt mạnh mẽ, nhanh chóng phát triển màng lưới thuỷ lợi ở khắp các địa phương, trước hết ở các vùng trọng điểm lúa và cây công nghiệp quan trọng. Bộ thuỷ lợi phải giúp các tỉnh lực lượng khảo sát, quy hoạch, thiết kế, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho việc động viên quần chúng làm thuỷ lợi. Các ngành công nghiệp phải ưu tiên sản xuất các loại công cụ, phương tiện và vật liệu cần thiết cho công tác này. Chúng ta không chờ đợi và ỷ lại vào máy móc, phải triệt để tận dụng lao động thủ công, tận dụng những khả năng sẵn có để tự làm nhiều công trình ở địa phương. Phải dấy lên một phong trào cách mạng rộng lớn, thu hút hàng triệu quần chúng ở nông thôn, thành thị, quân đội, học sinh, công nhân, viên chức tiến quân mạnh mẽ vào mặt trận thuỷ lợi bằng những ngày công lao động xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, phải tính toán rất kỹ, không để có tình trạng huy động nhân lực ồ ạt mà không chuẩn bị phương tiện và dụng cụ thi công, dẫn đến lãng phí sức người, của cải và đất đai; cố gắng hết sức tránh không để các công trình được xây dựng có thể gây trở ngại cho các quy hoạch phát triển kinh tế lâu dài. Chúng ta phải dành sự chú ý đúng mức đối với Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có những điều kiện địa lý và khí hậu rất thuận lợi để trở thành một vựa lúa quan trọng của nước ta. Chúng ta phải động viên và tổ chức ở đó một phong trào quần chúng hào hứng làm thuỷ lợi, nạo vét hệ thống kênh cũ và đào thêm nhiều kênh, rạch mới, đắp đập ngăn nước mặn và giữ nước ngọt, mau chóng đem lại hiệu quả kinh tế to lớn của vùng đất phì nhiêu này. Các tỉnh phía Nam Trung Bộ cần khôi phục các công trình thuỷ lợi cũ, xây dựng hàng loạt công trình chống hạn, giải quyết nước ăn, nước tưới và nước chăn nuôi gia súc ở các vùng kinh tế mới. Các tỉnh miền Trung cần xây dựng thêm các công trình chống hạn và chống úng. Các tỉnh miền Bắc cần sớm hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông, kiên quyết thanh toán diện tích úng ở đồng bằng Bắc Bộ. Trên địa bàn cả nước, cần mở rộng màng lưới điện phù hợp với kế hoạch xây dựng thêm các trạm bơm điện cỡ lớn. Phát triển đào giếng ở các vùng, bảo đảm có nước ăn và nước tưới.



 

Thâm canh đòi hỏi phải làm tốt việc cải tạo đất. Phải sản xuất đủ vôi, đá vôi nghiền, phân lân, apatít nghiền để bón ruộng và cải tạo đất, nhất là ở đồng bằng Nam Bộ và các vùng đất chua mặn khác. Nhà nước cần tăng mức cung ứng than đá cho nông dân làm chất đốt và sản xuất ngói lợp nhà, tích cực vận động nông dân để lại rạ cho ruộng.

 

Phân hữu cơ là nguồn phân bón chủ yếu của chúng ta. Sau này, khi ta có nhiều phân đạm thì phân hữu cơ vẫn là một nguồn phân không thể thiếu. Chúng ta hoàn toàn có khả năng làm ra nhiều phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân mùn rác...) để thay thế phân hoá học phải nhập khẩu. Cần đưa kinh nghiệm dùng phân hữu cơ vào các tỉnh phía Nam. Đi đôi với phát triển chăn nuôi để tăng nguồn phân bón, cần trồng nhiều cây phân xanh và rất coi trọng bèo hoa dâu.

 

Đẩy mạnh cơ giới hoá nông nghiệp, đó là biện pháp rất quan trọng để thực hiện thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất lao động, đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Việc cơ giới hoá đồng bộ đòi hỏi phải hoàn chỉnh thuỷ lợi, cải tạo và xây dựng đồng ruộng, quy hoạch các điểm dân cư, quy hoạch đường giao thông nông thôn. Trước mắt, chúng ta phấn đấu để bảo đảm đủ sức kéo cho các tỉnh ở đồng bằng Nam Bộ, các vùng mới khai hoang, tích cực mở rộng diện cơ giới hoá tại các vùng sản xuất lúa tập trung ở đồng bằng phía Nam và phía Bắc; riêng phía Bắc thì ưu tiên mở rộng diện cơ giới hoá ở những vùng có điều kiện tăng vụ và rút bớt lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Ngoài việc cơ giới hoá khâu làm đất, cố gắng đẩy mạnh việc cơ giới hoá các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, v.v.. Tiến hành thí điểm cơ giới hoá đồng bộ ở một số huyện, chú ý một số huyện ở đồng bằng Bắc Bộ, để có kinh nghiệm mở nhanh ra các huyện khác. Ngành cơ khí phải đẩy mạnh sản xuất các loại thiết bị đi theo máy kéo, các máy cày loại nhỏ, đặc biệt chú trọng sản xuất phụ tùng, tổ chức tốt màng lưới sửa chữa.



 

Đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống giống cây trồng và giống gia súc, gia cầm của Nhà nước và hợp tác xã, nhằm bảo đảm có đủ giống tốt và được chọn lọc cho các cây trồng và các gia súc, gia cầm.

 

Tăng cường trang bị và cung ứng đủ thuốc cho công tác thú y, bảo vệ thực vật, phòng, trừ sâu, bệnh.



 

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phải kết hợp với việc xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, phải lập quy hoạch xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa, sắp xếp lại các khu dân cư trên tinh thần tiết kiệm đất nông nghiệp, bố trí hợp lý các công trình sản xuất và công trình văn hoá. Việc chuyển các khu dân cư lên đồi núi để có thêm đất trồng trọt phải bàn bạc dân chủ với nhân dân và phải được nhân dân đồng tình; khi thực hiện phải làm từng bước vững chắc, tránh vội vã, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực trong sản xuất và đời sống.

 

Bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp là kết quả của sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự quản lý có hiệu lực của Nhà nước. Tất cả các ngành kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng, tất cả các cơ quan quản lý tổng hợp và toàn thể đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật phải coi việc đáp ứng các nhu cầu của nông nghiệp, thuỷ lợi là nhiệm vụ hàng đầu của mình. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các đơn vị sản xuất, kinh doanh cần tạo mọi điều kiện cho nông nghiệp và thuỷ lợi phát triển nhanh.



 

Phải tăng cường năng lực quản lý và chỉ đạo nông nghiệp cho các tỉnh mới giải phóng, cho cấp huyện; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho huyện, cho các hợp tác xã nông nghiệp và cho tổ chức nông hội các cấp ở các tỉnh phía Nam.

 

Phát triển mạnh lâm nghiệp



 

Một yêu cầu hết sức quan trọng trước mắt và lâu dài của nền kinh tế nước ta là ra sức phát triển lâm nghiệp. Rừng và đất rừng là nguồn tài nguyên to lớn và quý giá nằm trên hơn nửa phần diện tích của đất nước, ở đó mật độ dân số đang còn rất thấp. Phải mau chóng chuyển bớt lực lượng lao động quá đông ở đồng bằng lên góp phần khai thác những tiềm lực kinh tế rất phong phú ở trung du và miền núi. Làm như vậy là tạo ra những lợi ích to lớn và quý báu về nhiều mặt: lợi ích về điều hoà khí hậu và thời tiết, đặc biệt là lợi ích đối với nguồn nước và môi trường sống, lợi ích về nguồn sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân, cho công nghiệp và xuất khẩu, lợi ích về phân bố lao động và phân bố dân cư, lợi ích về kết hợp kinh tế với quốc phòng.

 

Công cuộc phát triển lâm nghiệp đòi hỏi chúng ta coi trọng cả ba khâu: trồng rừng, bảo vệ và tu bổ rừng, khai thác và chế biến lâm sản.



 

Bằng mọi biện pháp tích cực, cần phủ kín đồi trọc trong khoảng hai hoặc ba kế hoạch 5 năm. Phải có quy hoạch và kế hoạch dài hạn trồng rừng; phát động liên tục, sâu rộng phong trào "trồng cây gây rừng". Gắn chặt công cuộc phát triển lâm nghiệp với việc vận động đồng bào ở miền núi định canh, định cư và tổ chức lại sản xuất lâm nghiệp và nông nghiệp ở miền núi để chấm dứt nạn phá rừng làm rẫy. Đối với đồng bào hiện du canh, du cư, cần giúp đồng bào đẩy mạnh sản xuất lương thực và trong điều kiện cần thiết thì cung ứng thoả đáng lương thực cho đồng bào để tổ chức đồng bào thành những người thợ rừng, những người bảo vệ tài nguyên rừng, hoặc làm các ngành, nghề khác. Phải xem chính sách định canh, định cư ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào miền núi là một chính sách kinh tế có nội dung chính trị to lớn, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

 

Trong 5 năm này, phấn đấu trồng ít nhất 1,2 triệu hécta rừng. Khẩn trương quy hoạch các khu vực đất rừng để trồng rừng, bảo vệ và tu bổ, cải tạo rừng. Xây dựng các cơ sở chọn giống, các vườn ươm, khoanh vùng khai thác giống và tận thu giống nhằm bảo đảm cung ứng đủ giống cây cho các lâm trường quốc doanh, hợp tác xã và nhân dân trồng rừng. Hướng trồng rừng là nhằm hình thành các vùng rừng cây tập trung cho nhu cầu công nghiệp như gỗ trụ mỏ, gỗ cho công nghiệp giấy, sợi, nhất là ở trung du và miền núi phía Bắc. Trong thời gian sớm nhất, phải phủ xanh các đồi trọc, ra sức khôi phục và trồng kín rừng ở vùng bờ biển, khoanh nuôi và gây trồng các khu rừng đầu nguồn. Phát triển rừng cây đặc sản ở những nơi thích hợp. Khoanh những khu rừng nguyên thuỷ thành các rừng quốc gia, ở đó nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác và săn bắn để bảo vệ những loại thực vật và muông thú quý.



 

Phải tăng cường sự chỉ đạo của các cấp đối với công tác lâm nghiệp, làm cho các cấp đủ sức chỉ đạo tốt công tác trồng rừng, bảo vệ rừng. Sử dụng lực lượng quân đội, thu hút nhiều lao động tại chỗ và thu hút ngày càng đông đảo lao động ở đồng bằng lên trung du, miền núi làm lâm nghiệp. Cùng với việc phát triển mạnh quốc doanh lâm nghiệp, xây dựng các lâm trường trồng rừng và khai thác rừng, phải rất coi trọng vai trò của các hợp tác xã và lực lượng nhân dân trong công cuộc phát triển lâm nghiệp. Phải mạnh dạn giao rừng và đất rừng cho hợp tác xã quản lý kinh doanh theo quy hoạch, kế hoạch, và chính sách của Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ đối với nhân dân trồng rừng như đãi ngộ đồng bào đi xây dựng kinh tế mới. Các huyện miền núi phải được từng bước xây dựng thành những đơn vị kinh tế nông nghiệp - lâm nghiệp - công nghiệp, kinh doanh tổng hợp nghề rừng, kết hợp trồng cây công nghiệp với chăn nuôi, ở những nơi có điều kiện thì tận dụng khả năng làm thêm lương thực.

 

Phải khẩn trương củng cố lực lượng kiểm lâm nhân dân để làm nhiệm vụ bảo vệ rừng có hiệu quả. Phải kiên quyết ngăn chặn nạn phá rừng và nạn cháy rừng, hết sức bảo vệ rừng đầu nguồn.



 

Đi đôi với công tác trồng rừng trên quy mô lớn và bảo vệ rừng, phải đẩy mạnh việc khai thác, chế biến gỗ và các lâm sản khác. Phấn đấu đưa sản lượng gỗ khai thác năm 1980 lên 3,5 triệu m3 bằng nhiều biện pháp, trong đó chú ý việc làm thêm đường lâm nghiệp, tăng thêm thiết bị khai thác, vận chuyển, tận dụng những phương tiện khai thác và vận chuyển thô sơ. Tổ chức việc khai thác rừng một cách hợp lý và khoa học, quản lý tốt việc sử dụng và chế biến tổng hợp gỗ nhằm tiết kiệm gỗ. Tận dụng số gỗ cành, ngọn, sơ chế ngay tại nơi khai thác để đưa nửa thành phẩm về nơi sử dụng. Chấn chỉnh các khâu kinh doanh khai thác, vận xuất, chế biến, cung ứng gỗ, khắc phục những chỗ không hợp lý. Hình thành mạng lưới chế biến và cung ứng gỗ ở khắp nơi trong nước, đáp ứng kịp thời yêu cầu của các ngành xây dựng và sản xuất, đáp ứng yêu cầu của nhân dân để làm nhà cửa, phương tiện lao động và sinh hoạt. Phấn đấu hạ giá thành sản xuất để hạ giá bán gỗ và đồ gỗ.

 

Phát triển mạnh ngư nghiệp (hải sản và thuỷ sản)



 

Với điều kiện thiên nhiên và khí hậu thuận lợi của ta, phát triển mạnh nghề nuôi, đánh bắt và chế biến hải sản và thuỷ sản là một nhiệm vụ quan trọng để tăng nhanh nguồn thực phẩm giàu chất đạm cho bữa ăn của người, tăng nguồn thức ăn cho gia súc và tăng nguồn hàng xuất khẩu.

 

Đẩy mạnh nghề đánh cá biểnchế biến hải sản. Phấn đấu đến năm 1980 khai thác được 1 triệu tấn cá biển trở lên, chế biến khoảng 40.000 tấn tôm và cá ướp đông cho xuất khẩu, khoảng 3-4 vạn tấn bột cá làm thức ăn gia súc. Hiện nay sản lượng cá lớn nhất là do khu vực tập thể và cá thể cung ứng. Phải sớm củng cố các hợp tác xã đánh cá và quốc doanh đánh cá ở các tỉnh phía Bắc, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa ngành đánh cá ở các tỉnh phía Nam, tổ chức lại các lực lượng đánh cá, phát triển và tăng cường lực lượng đánh cá quốc doanh, đưa ngành hải sản nước ta thành một ngành công nghiệp quan trọng.



 

Xây dựng thêm các bến cá, kho lạnh, các cơ sở đóng và sửa chữa tàu, thuyền ở các địa phương, trang bị đồng bộ các khâu hậu cần và chế biến để phát huy tốt nhất năng lực sản xuất. Tổ chức lực lượng chuyên xây dựng cho ngành hải sản để đảm nhận khối lượng xây dựng rất lớn của ngành.

 

Trang bị các tàu cá cỡ vừa và cỡ lớn và tàu đánh tôm cho các cơ sở quốc doanh; tăng thêm thiết bị thăm dò nguồn cá, tăng cường hệ thống thông tin liên lạc, chỉ huy trong nghề cá. Phát triển những tàu cỡ vừa và cỡ lớn làm trạm nổi, thu mua cá, cung ứng dịch vụ ngoài khơi. Xây dựng các công ty quốc doanh liên hiệp đánh bắt và chế biến cá.



 

Vùng biển nước ta, nhất là vùng biển phía Nam, có những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ và toàn diện công nghiệp khai thác và chế biến hải sản. Nhà nước cần dành số vốn đầu tư tương xứng để nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp còn non trẻ nhưng rất có triển vọng này. Các ngành công nghiệp phải cung ứng ngày càng đầy đủ vật tư, phương tiện, thiết bị cho nghề khai thác và chế biến hải sản.

 

Cùng với nghề cá biển, phải tích cực đưa nghề nuôi cá, tôm, nuôi các thuỷ sản nước ngọt và nước lợ thành một nghề chăn nuôi quan trọng trong các cơ sở quốc doanh nuôi thuỷ sản, các hợp tác xã nông nghiệp và trong nhân dân. Phải tận dụng các hồ, đầm, sông cụt, các công trình thuỷ lợi lớn và các mặt nước khác để nuôi cá, tôm và các loại thuỷ sản. Mở rộng mạng lưới gây cá giống áp dụng kỹ thuật tiến bộ, sớm bảo đảm đủ cá giống cho khắp các vùng trong nước. Phấn đấu đến năm 1980 đạt sản lượng 35 vạn tấn trở lên cá nước ngọt và nước lợ.



 

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng

 

Nhiều nguyên liệu nông sản, lâm sản, thuỷ sản tăng lên tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển nhanh. Chúng ta đang có những nhu cầu rất to lớn và bức thiết về hàng tiêu dùng, vừa để cải thiện đời sống của nhân dân, vừa để thúc đẩy sự giao lưu giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, kích thích sản xuất nông nghiệp, và tăng nguồn hàng xuất khẩu.



 

Phải khai thác các năng lực sản xuất trong cả nước của công nghiệp quốc doanh, của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, của hợp tác xã và nghề phụ gia đình để làm ra nhiều mặt hàng phong phú.

 

Các ngành sản xuất và kinh doanh hàng tiêu dùng phải quán triệt quan điểm kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phục vụ nhân dân, kiên quyết khắc phục xu hướng kinh doanh bản vị, cục bộ, kiên quyết đả phá tư tưởng chạy theo lợi nhuận đơn thuần.



 

Đồng thời với việc ra sức thực hiện kế hoạch sản xuất hàng tiêu dùng do Nhà nước giao cho, mỗi địa phương cần tận dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ, làm thêm nhiều sản phẩm phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng của địa phương.

 

Ngoài việc tận dụng và mở rộng các cơ sở hiện có, chúng ta xây dựng một số nhà máy mới để sản xuất các mặt hàng thiết yếu.



Để có vải may mặc và để gia công hàng dệt cho nước ngoài, chúng ta xây dựng thêm cơ sở kéo sợi, bổ sung thêm máy dệt, tận dụng năng lực dệt của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đưa sản lượng vải và lụa năm 1980 lên khoảng 450 triệu mét. Mở rộng sản xuất hàng dệt kim, hàng may sẵn, quần áo ấm, bít tất, hàng bằng da và giả da, giầy dép, mũ, áo mưa, trong đó cần chú ý các mặt hàng cho trẻ em, phụ nữ và các trang phục bảo hộ lao động. Phát triển mạnh nghề dệt thảm len và thảm đay, các mặt hàng làm bằng tre, mây, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác, dành chủ yếu cho xuất khẩu.

 

Đi đôi với đẩy mạnh khôi phục và xây dựng các nhà máy giấy lớn, phát triển thêm các cơ sở làm giấy nhỏ, tận dụng mọi nguồn nguyên liệu, kể cả việc thu hồi giấy loại để chế biến lại, đưa sản lượng giấy năm 1980 lên khoảng 13 vạn tấn. Chuẩn bị xây dựng những nhà máy giấy và nhà máy bìa cứng khi có điều kiện.



 

Phấn đấu cung ứng ngày càng nhiều cho nhân dân các đồ dùng sinh hoạt thông thường, nhất là những đồ dùng làm bằng nguyên liệu trong nước. Phát triển mạnh các mặt hàng làm bằng tre, gỗ (bàn, ghế, giường...), các đồ dùng làm bằng sành, sứ, thuỷ tinh. Đẩy mạnh sản xuất các dụng cụ gia đình bằng kim loại, như nồi, xoong, ấm, v.v.. Tăng mức sản xuất xe đạp, quạt điện, đồng hồ báo thức. Coi trọng làm thêm nhiều mặt hàng bảo hộ lao động. Quan tâm đầy đủ đến các đồ dùng phục vụ đời sống văn hoá của nhân dân như đồ dùng giảng dạy, dụng cụ học tập, đồ chơi trẻ em, nhạc cụ, văn hoá phẩm, đồ dùng cho thể dục, thể thao, v.v., đặc biệt chú ý sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu của các cơ sở sinh hoạt công cộng và phúc lợi tập thể.


Каталог: coltech -> sites -> default -> files
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Cơ học kỹ thuật
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> I- nhậN ĐỊnh tình hình miền bắC
files -> Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đảng Cộng sản Việt Nam
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 2020 Ngày 4/3/2011. Cập nhật lúc 16
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 2010 Ngày 12/7/2003. Cập nhật lúc 15
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Khoa học máy tính

tải về 482.61 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương