Phân tích proteomic mô gan của người bị ung thư gan nguyên phát


Chẩn đoán và điều trị ung thư gan



tải về 429.52 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích429.52 Kb.
#29173
1   2   3   4   5

1.1.4. Chẩn đoán và điều trị ung thư gan


1.1.4.1.Chẩn đoán

Gan được cấu tạo chủ yếu bởi các tế bào biểu mô gan, loại tế bào này có khả năng tái sinh mạnh, do đó ung thư gan phát triển rất nhanh. Đồng thời, các triệu chứng của ung thư gan thường biểu lộ khi bệnh đã nghiêm trọng, do đó, việc điều trị ung thư gan gặp rất nhiều khó khăn. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ tử vong do ung thư gan rất cao.

Việc chẩn đoán ung thư gan ở giai đoạn sớm là vô cùng cần thiết. Có hai phương pháp thông dụng nhất hiện nay để chẩn đoán ung thư gan là các xét nghiệm chẩn đoán vật lý và xét nghiệm máu tìm alpha fetoprotein (AFP) trong huyết thanh bệnh nhân bị ung thư.

Để chẩn đoán khi có các triệu chứng của ung thư gan, một số phương pháp chẩn đoán vật lý được áp dụng như: siêu âm, chụp cắt lớp (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI - Magnetic Resonance Imaging), chụp X- quang. Tuy nhiên, những phương pháp này tốn kém, phụ thuộc nhiều vào máy móc và không hiệu quả để phát hiện khối u ở giai đoạn sớm.

Cách chẩn đoán thứ hai rất thông dụng đó là việc xét nghiệm chỉ thị AFP trong huyết thanh. AFP là một glycoprotein có khối lượng 70kDa, được tổng hợp ở gan và túi noãn hoàng trong giai đoạn thai nhi, và sau đó nó được tiết vào huyết thanh ở tuần thứ 13 của thai kỳ. Sau khi sinh, nồng độ AFP trong huyết thanh giảm và hầu như không phát hiện được ở người trưởng thành khỏe mạnh. AFP có thể được dùng để sàng lọc người có nguy cơ bị ung thư gan cao. AFP mất đi ngay sau khi trẻ sinh ra, nếu hiện diện ở máu người lớn có nghĩa là có biến đổi về tế bào gan và có khả năng mắc ung thư gan cao [10].

Tuy vậy, AFP trong máu không đặc trưng cho ung thư gan vì có thể nó cũng tăng ở những người bị viêm gan. Hơn nữa, độ nhạy của phương pháp AFP cũng không cao, có khoảng 20% bệnh nhân bị ung thư gan mà hàm lượng AFP trong máu vẫn bình thường (đặc biệt ở những bệnh nhân có khối u nhỏ hơn 3cm) [11].

Hàm lượng AFP cao có thể cho chúng ta nghi ngờ chứ không thể chắc chắn bệnh nhân đã mắc ung thư gan. Các xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ung thư gan, nhưng trong đa số trường hợp cách duy nhất để chắc chắn là lấy một mảnh của khối u và xem xét nó dưới kính hiển vi. Điều này được gọi là sinh thiết. Có nhiều cách khác nhau để có được những mẫu khối u. Trong một số trường hợp, một mẫu sinh thiết có thể được thực hiện trong khi phẫu thuật. Nếu khối u đã lớn hoặc đã lan rộng khắp gan, một kim rỗng có thể được đặt qua da trong bụng và vào trong gan. Sinh thiết mẫu cũng có thể được thực hiện trong thời gian phẫu thuật nội soi.

1.1.4.2 Điều trị

Có 2 nhóm điều trị chính: phẫu thuật và không phẫu thuật. Nhóm phẫu thuật là phương thức điều trị triệt căn, có dự hậu tốt hơn hẳn, và trong đó cắt gan là điều trị chọn lựa, tuy nhiên chỉ có khoảng 10-20% bệnh nhân có khả năng cắt bỏ UTG. Ghép gan nhằm loại bỏ gan bị xơ hóa và UTG, tuy nhiên, vấn đề là thiếu gan cho để ghép.



  • Điều trị không phẫu thuật có thể dùng: Thuyên tắc mạch hóa trị, chích cồn qua da, phá hủy u bằng nhiệt, phá hủy u bằng sóng tần số radio, hóa trị toàn thân với Doxorubicin, xạ trị qui ước, điều trị nhắm đích.

  • Điều trị phẫu thuât: Phẫu thuật cắt gan, ghép gan, ngoài ra có thể hủy u bằng laser hay đông lạnh cho các u bề mặt.

    1. CÁC CHỈ THỊ SINH HỌC

      1. Khái quát

Như chúng ta biết, việc chẩn đoán và phát hiện sớm ung thư gặp rất nhiều khó khăn. Những phương pháp áp dụng hiện thời hầu như không đủ khả năng để có thể tạo những bước đột phá trong việc chẩn đoán sớm ung thư, đặc biệt là ung thư gan. Trong những năm gần đây có một hướng nghiên cứu trọng yếu đó là việc nghiên cứu tìm kiếm các chỉ thị sinh học.

Chỉ thị sinh học (biomarker) là những phân tử biểu hiện một dữ kiện sinh học. Chỉ thị sinh học có thể đơn thuần là một chất, như glucose là chỉ thị của bệnh tiểu đường, hoặc phân tử protein, như các kháng thể là chỉ thị của bệnh nhiễm trùng, hay các dấu ấn ADN là chỉ thị cho các bệnh liên quan đến di truyền. Với phát triển của những kỹ thuật sinh học hiện đại, người ta có thể nghiên cứu nhiều phân tử trên cùng một mẫu bệnh phẩm như microarray, proteonomics [.

Trong nghiên cứu bệnh học, chỉ thị sinh học có thể là những phân tử gây bệnh hay những phân tử được tạo ra sau khi bệnh phát triển. Biomarker còn được gọi là “chỉ thị” của một hiện tượng sinh học, những nghiên cứu gần đây đã chứng minh tính hữu dụng của chỉ thị sinh học cho nhiều bộ môn sinh học từ nghiên cứu đến ứng dụng. Các nhà nghiên cứu chỉ thị sinh học tin tưởng rằng chỉ thị sinh học chứa đựng những bí ẩn về bệnh lý, cho nên việc truy tìm chỉ thị sinh học sẽ giúp đạt được những kết quả có tầm ứng dụng hữu hiệu và lớn lao trong y học. Những ứng dụng này gồm các phương pháp chẩn đoán chính xác cho các bệnh phức tạp liên hệ đến nhiều gene (ung thư, tiểu đường, tim mạch, thần kinh...), hoặc các bệnh miễn nhiễm, di truyền, nhiễm trùng hay bệnh do yếu tố môi trường. Chỉ thị sinh học cũng có nhiều kỳ vọng trong ứng dụng đo lường hiệu ứng của thuốc .


      1. Các phương pháp nghiên cứu chỉ thị sinh học đối với ung thư

Các chỉ thị ung thư là những đại phân tử xuất hiện ở bệnh nhân ung thư, có nồng độ thay đổi liên quan đến sự phát sinh và tăng trưởng của những khối u ác tính. Chỉ thị ung thư là những chất do các tế bào hoặc mô ung thư tổng hợp và tiết ra từ khối u bị phá vỡ hoặc được tạo ra từ các phản ứng của cơ thể đối với khối u, gồm hai dạng: chỉ thị tế bào và chỉ thị thể dịch. Chỉ thị ung thư dạng tế bào bao gồm các kháng nguyên bề mặt các tế bào, các thụ thể hormon và những biến đổi di truyền của tế bào. Chỉ thị ung thư dạng thể dịch bao gồm các chất hóa sinh phát hiện ở những nồng độ không bình thường có mặt trong huyết thanh, nước tiểu, và các loại dịch của cơ thể.

Hiện nay, có ba phương pháp chính đang được tiến hành để nghiên cứu các chỉ thị phân tử phục vụ cho việc chẩn đoán sớm ung thư:



  • Sử dụng kỹ thuật genomics để xác định, nhận dạng các gen lạ thường có liên quan đến các loại ung thư riêng biệt. Tuy nhiên, các kết quả của những nghiên cứu này mới chỉ cung cấp thông tin về khả năng mắc bệnh chứ chưa tìm được cơ chế thực sự của bệnh. Có hai lý do chính về giới hạn phương pháp genomics trong nghiên cứu chỉ thị ung thư. Thứ nhất, phần lớn các gene liên hệ đến di truyền có tần số rất thấp trong quần thể đa dạng sinh học; thứ hai, các bệnh đều có sự tham gia của một phức hệ gene, mà phần lớn chưa biết tới, chứ không phải từ một gene.

  • Phương pháp proteomics xác định được hầu hết các protein có triển vọng trở thành các protein chỉ thị ung thư. Các kỹ thuật proteomics có thể xác định chính xác các đặc điểm bệnh học phân tử của khối u, tiên lượng bệnh, dự đoán được các ảnh hưởng của việc điều trị và giúp phát triển y học cho từng cá nhân. Hạn chế của phương pháp này là nhiều protein chỉ thị ung thư chỉ được tìm thấy ở mô ung thư mà không có mặt trong máu.

  • Phương pháp sử dụng các hệ thống dò tìm dựa vào kháng thể để nhận dạng các kháng nguyên ung thư. Tuy nhiên, do có hiện tượng phản ứng chéo trong phản ứng miễn dịch, do đó kết quả của phương pháp này không đảm bảo tính đặc hiệu .

Proteomics trong nghiên cứu chỉ thị ung thư

Proteomics ung thư là từ được dùng để chỉ các ứng dụng của kỹ thuật proteomic trong nghiên cứu ung thư. Như chúng ta đều biết ung thư là một bệnh kì lạ bởi các đột biến diễn ra ở tế bào ung thư. Những thay đổi ADN ở các tế bào này được dùng trong chẩn đoán nguy cơ bệnh, chẩn đoán sớm và đưa ra hướng điều trị. Việc sử dụng kỹ thuật proteomic để xác định các tế bào người bệnh sẽ mang lại một cuộc cách mạng trong y học.

Việc tìm các chỉ thị sinh học hiệu quả nhất là việc tìm các chỉ thị protein, vì protein là sản phẩm cuối cùng của gene và tác động trực tiếp đến các hiện tượng sinh học. Lý do quan trọng hơn nữa là protein là thành phần sinh học phong phú nhất của tế bào so với mRNA hay xa hơn nữa là gene. Một gene có thể có nhiều bản sao mRNA, biến đổi dịch mã và sau dịch mã thường tạo ra nhiều protein hơn số bản sao mRNA. Theo ước lượng hiện nay, có khoảng từ 300.000 đến 500.000 protein từ số lượng khoảng 30.000 gene của bộ gene người [2].

Trong những năm gần đây, việc tìm kiếm các chỉ thị ung thư đã trở thành mục đích chính của các nghiên cứu ung thư. Thành công trong ứng dụng của kháng nguyên tuyến tiền liệt (PSA) trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt đã thúc đẩy các nghiên cứu để tìm ra những chỉ thị thích hợp cho các loại ung thư khác. Các chỉ thị sinh học cũng được ứng dụng trong chẩn đoán, theo dõi ung thư, chẩn đoán sự tái phát bệnh, và đánh giá hiệu quả điều trị bệnh. Với các đích đã được xác định, các thuốc điều trị như imatinib (Novartis’ Gleevec), trastuzumab (Roche’s Herceptin), và rituximab (Roche’s Mabthera) đã được tạo ra để tác động đặc hiệu nhằm điều trị có hiệu quả bệnh ung thư. Hiện nay, xu hướng lựa chọn các chỉ thị và bệnh nhân để tiến hành điều trị sẽ tốt cho việc dự đoán tình trạng kháng thuốc. Các chỉ thị sinh học thực sự rất cần cho việc phát triển điều trị cho từng cá nhân. Các protein có thể được tiết ra một cách tích cực hoặc được giải phóng ra bởi các tế bào khối u như là kết quả của sự hoại tử hay quá trình apoptosis và sau đó chúng được lưu thông trong máu. Điều này dẫn đến sự thay đổi hệ thống protein. Sự khác biệt về cường độ tín hiệu có thể được tìm ra bằng cách so sánh với huyết tương của những người bình thường. Các kỹ thuật như Antibody Microarray, điện di hai chiều và khối phổ là những kỹ thuật chính được sử dụng để tìm các chỉ thị cho bệnh ung thư .

Kết quả từ Viện nghiên cứu Y học Hoa Kỳ (NIH) đã cho biết có 14 protein có khả năng dùng làm chỉ thị cho bệnh ung thư vú từ các phân tích khối phổ với mẫu sữa lấy từ vú bệnh nhân[9]. Trong các nhóm được thử nghiệm, độ chính xác của các chỉ thị này rất cao so với việc dùng các gene BRCA (BRCA là gene của bệnh ung thư vú di truyền, tuy nhiên gen này chỉ có tỉ lệ thấp từ 2-5% của bệnh này khi dùng để chẩn đoán chung). Một số chỉ thị protein khác cũng đã được phát hiện từ nghiên cứu các bệnh ung thư tiền liệt tuyến, ung thư phổi, ung thư bàng quang, và ung thư buồng trứng; về các bệnh tim mạch đã có một số chỉ thị protein được cho là có liên quan đến bệnh nghẽn động mạch.


      1. Nghiên cứu chỉ thị sinh học với ung thư gan

Với ung thư gan, việc nghiên cứu các chỉ thị sinh học đã và đang được tiến hành với cả ba hướng, bao gồm việc dò tìm các chỉ thị ADN, protein và các kháng thể đặc hiệu. Trong đó, một trong những hướng nghiên cứu quan trọng nhất là phân tích tìm ra các chỉ thị phân tử để nhận dạng kiểu hình ác tính của các tế bào ung thư gan. Các phân tử chỉ thị này bao gồm: các phân tử tham gia vào quá trình tăng sinh tế bào, gây biến đổi ADN (protein PCNA, Ki-67, Mcm2, MIB1, MIA, và CSE1L/CAS); gen TP53 và phân tử liên quan đến MDM2; các protein khác tham gia điều khiển chu trình tế bào (cyclin A, cyclin E, cdc2, p27, p73); các gen gây ung thư và các thụ thể của chúng (ras, c-myc, c-fms, HGF, c-met, và erb-B); các yếu tố liên quan đến sự chết theo chương trình của tế bào (Fas và FasL) và sự hoạt động của các telomerase. Một hướng nghiên cứu khác là tìm ra các chỉ thị phân tử liên quan đến quá trình xâm lấn và di căn của ung thư, các chỉ thị phân tử loại này gồm các phân tử bám dính (E-cadherin, catenins, các dạng CD44 khác nhau), các enzyme thủy phân protein làm giảm chất gian bào (MMP-2, MMP-9, Upa, Upar, PAI), các yếu tố sinh trưởng tham gia vào sự hình thành mạch giúp khối u phá vỡ vỏ bọc, di căn đến các vị trí khác trong cơ thể …

    1. PROTEOMICS TRONG NGHIÊN CỨU CÁC CHỈ THỊ UNG THƯ GAN

      1. Proteomics

Thuật ngữ “proteomics” lần đầu tiên được Marc Wilkins và cộng sự đưa ra năm 1994 đã mở ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ các nghiên cứu về protein. Proteomics là ngành khoa học nghiên cứu hệ protein, tập hợp tất cả các protein được mã hóa và biểu hiện bởi hệ gen của cơ thể sinh vật .

Proteomics là một nhánh của nghiên cứu chức năng hệ gen, nó được sinh ra khi các nhà nghiên cứu về gen đối mặt với câu hỏi “chức năng của tất cả các protein là gì ?”. Proteomics có thể được định nghĩa là những nghiên cứu rộng rãi mọi mặt protein như là sự biểu hiện, những tương tác của protein trong tế bào cũng như việc mô hình hóa protein. Protein là sản phẩm của ARN thông tin, nó thực hiện phần lớn các phản ứng của tế bào và nó không có một mối quan hệ tuyến tính nào giữa mức độ cấu trúc ARN thông tin và protein hay “proteome”trong tế bào. Ngoài ra, hầu hết các đích tác dụng của thuốc là protein; do đó, các phương pháp để nghiên cứu có hiệu quả phức hợp protein trong tế bào có thể đóng vai trò trực tiếp cho việc phát triển thuốc.

Ngày nay, các nghiên cứu proteomics tập trung vào ba mặt chính là: nhận dạng protein, mô tả sự biểu hiện protein, mô hình hóa hệ thống và sự cải biến protein.

- Nhận dạng protein là nhiệm vụ cơ bản của proteomics nhằm xác định tất cả các protein có trong mẫu nghiên cứu. Mục đích của việc này là đưa ra một danh sách các protein hoàn chỉnh đã được biểu hiện trong thực tế chứ không phải là suy ra từ dữ liệu về biểu hiện gen.

- Mô tả sự biểu hiện protein là việc xác định sự biểu hiện của các protein trong một thời điểm nhất định của tế bào, mô. Mô tả protein thực chất là một trường hợp đặc biệt của việc nhận dạng. Ứng dụng phổ biến nhất là các phân tích sự khác biệt, trong đó có hai trạng thái riêng biệt của hệ được so sánh với nhau. Ví dụ như việc nghiên cứu so sánh các mô bình thường và mô bệnh để xác định xem protein nào biểu hiện khác nhau trong các trạng thái đó. Các protein biểu hiện khác nhau đó có thể trở thành chỉ thị sinh học của bệnh.

- Mô hình hóa hệ protein là xác định xem các protein liên hệ như thế nào với các thành phần khác trong hệ thống sống. Hầu hết các protein thực hiện chức năng của nó trong việc kết hợp chặt chẽ với các protein khác. Nghiên cứu các tương tác này giúp xác định được chức năng của protein. Mô hình hóa sự cải biến protein là nhiệm vụ xác định xem các protein biến đổi như thế nào. Nói chung, nhiều cải biến sau dịch mã đã chi phối cấu trúc, chức năng và hoạt động của các protein.



      1. Hệ protein gan người

Gan là cơ quan lớn nhất trong cơ thể người. Gan có vai trò quan trọng trong các quá trình tiêu hóa, trao đổi chất và cũng là nơi sản sinh ra nhiều loại protein sinh chất, là vị trí có hiệu quả nhất để phân giải các chất ngoại sinh, cho quá trình thực bào đối với các chất rắn, tham gia bảo vệ bộ máy tiêu hóa và các bộ phận khác của cơ thể. Gan có vai trò chính trong việc xác định động dược học của thuốc, vì đây là cơ quan chính để đào thải nhờ khả năng chuyển hóa và bài tiết của mật, và cũng là vị trí chính có ảnh hưởng đến sự phân bố do có quá trình tổng hợp các protein gắn với thuốc.

Tại hội thảo khoa học của Tổ chức Proteome người (Human Proteome Organisation_HUPO) diễn ra ngày 28-29/04/2002 ở Bethesda (Hoa Kỳ), đã đánh dấu cho sự ra đời của dự án Proteome gan người (Human Liver Proteome Project, HLPP) với sự tham gia của đông đảo của các viện, trường đại học và các công ty trên thế giới. Tại hội thảo này đã có sự thống nhất về phương hướng, mục đích, tương lai khoa học của dự án HLPP và đặc biệt nhấn mạnh các mục tiêu khoa học của dự án, bao gồm: tạo được bức tranh tổng thể của proteomics gan; xác định sự phân bố và bức tranh tổng thể của các protein ở mức độ dưới tế bào; lập bản đồ liên kết của các protein gan; làm sáng tỏ các biến đổi tổng thể của proteome gan; liên kết giữa các dự án proteome gan và dự án proteome huyết tương để phát hiện các chỉ thị sinh học của các bệnh về gan [43].



      1. Proteomics trong nghiên cứu ung thư gan

Tác hại của ung thư gan đối với sức khỏe con người và xã hội là vô cùng lớn. Việc phân tích proteomics ung thư gan hứa hẹn sẽ cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết đầy đủ hơn về các tác nhân gây ung thư gan, quá trình tiến triển bệnh và hơn nữa là đưa ra các phương pháp chẩn đoán và điều trị mới cho bệnh nhân HCC. Việc phân tích proteomics không chỉ dừng lại ở việc xác định các chỉ thị trong mô, hay chỉ với nghiên cứu proteomics huyết tương. Việc tìm kiếm các chỉ thị trong huyết tương kết hợp với nghiên cứu trên mô sẽ giúp chúng ta tiến gần hơn đến việc chẩn đoán ung thư một cách đơn giản và chính xác hơn chỉ với một xét nghiệm máu đơn giản. Hiện nay, nhiều nghiên cứu proteomics trên các dòng tế bào ung thư, phân tích trực tiếp trên huyết tương và mô gan của bệnh nhân ung thư gan đã và đang được tiến hành rộng khắp trên toàn thế giới và đã thu được một số kết quả khả quan .

Vì nguyên nhân chính của ung thư gan là viêm gan B, C nên rất nhiều nghiên cứu đã tập trung vào đối tượng là bệnh nhân ung thư gan có tiền sử viêm gan. Để tìm hiểu khác biệt trong biểu hiện protein trong mô ung thư gan có tiền sử viêm gan B nhằm giải thích cơ chế biến đổi của tế bào gan ung thư, các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành phân tích hệ protein các tế bào gan ung thư bằng kĩ thuật điện di 2 chiều DIGE (điện di 2 chiều các mẫu khác nhau trên cùng một bản gel). Mẫu lấy từ 12 bệnh nhân HCC có tiền sử viêm gan B được phân tích. Hàm lượng protein tương đương từ 12 cặp mẫu (bệnh và bình thường) được trộn lại với nhau làm thành nội chuẩn và được đánh dấu bằng Cy2 trong khi đó mẫu ung thư và không ung thư được đánh dấu ngẫu nhiên bằng Cy3 hoặc Cy5. Tổng số 61 spot được xác định là biểu hiện tăng lên trong các mẫu ung thư trong khi đó 158 spot có biểu hiện giảm. Có 71 sản phẩm của gen đã được xác định từ những spot này. Các thành viên của họ protein sốc nhiệt 70 và 90 có biểu hiện tăng, trong khi các protein chuyển hóa lại giảm ở bệnh nhân HCC. Sự giảm các protein ti thể và protein peroxisom trong nghiên cứu này đưa ra cho chúng ta một gợi ý rằng có sự mất đi những chức năng chuyên biệt của cơ quan tử trong tế bào gan ung thư. 4 enzyme chuyển hóa trong chu trình methyl hóa ở gan biểu hiện giảm ở các mô gan ung thư, biểu thị bằng sự thiếu hụt S-adenomethionine trong ung thư gan. Hai sản phẩm của gen là glycerandehyde-3-phosphate dehydrogenase và formimidoyltransferase- cycledeaminase được xác định từ các spot biến đổi nghịch, từ đó chỉ ra rằng các đồng phân hoặc các dạng cải biến sau dịch mã của hai protein này có thể đóng vai trò khác nhau trong ung thư gan. Nghiên cứu này lần đầu tiên chỉ ra rằng sự biểu hiện tăng của protein Hsp70/Hsp90 và các thể dị hợp ribonulceoprotein nhân C1/C2 trong các mô HCC là các chỉ thị ung thư, được khẳng định bằng Western blot và kĩ thuật nhuộm hóa miễn dịch tế bào ở 70 mẫu HCC .

Ung thư gan là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất trên thế giới, nó tác động đến nhiều nước trong những năm gần đây. Theo thống kê có khoảng 53% các trường hợp HCC trên thế giới có liên quan đến HBV. Nguy cơ tiến triển thành HCC từ những người mang HBsAg cao gấp 25~37 lần so với những người không bị nhiễm [27]. Khi các virus viêm gan xâm nhập vào cơ thể sẽ làm cho cơ thể sinh ra các kháng thể chống lại chúng. Bằng việc nghiên cứu sự biểu hiện các protein huyết thanh của người bình thường, người nhiễm virus và người bị ung thư gan đã chỉ ra rằng sự tồn tại của từng kháng thể tự miễn này có liên quan với HCC và là yếu tố chẩn đoán sớm hiệu quả đối với các trường hợp viêm gan nguy cơ cao . Nghiên cứu được thực hiện trên huyết thanh của 37 bệnh nhân HCC và 31 trường hợp viêm gan B/C không bị HCC. Huyết thanh lấy từ các bệnh nhân bị ung thư không phải HCC và 24 trường hợp khỏe mạnh được dùng làm đối chứng. Có 8 loại protein tạo ra đáp ứng thể dịch trong huyết thanh từ 70% trong tổng số 37 bệnh nhân trong nghiên cứu, với tỉ lệ biểu hiện của từng protein riêng biệt từ 11~27%. Các kháng thể tự miễn kháng β-tobulin, creatine kinase B, hsp60 và cytokeratin18 được phát hiện trong huyết thanh của các bệnh nhân viêm gan B/C, trong khi đó, kháng thể kháng calreticulin, cytokeratin8, F1-ATP synthase β-subunit và NDPKA chỉ thấy xuất hiện nhiều ở bệnh nhân HCC. Calretibulin và một dạng bị cắt của nó (Crt32) đã được xác định là phổ biến nhất ở các bệnh nhân HCC với tần suất biểu hiện là 27% .

Việc lựa chọn nguồn bệnh nhân để lấy mẫu và cách lấy mẫu sinh phẩm là rất quan trọng, có vai trò quyết định đến kết quả của một nghiên cứu. Năm 2003, Các nhà khoa học tại Seoul, Hàn Quốc tiến hành một phương pháp lấy mẫu độc đáo với 21 cặp mẫu (các mô ung thư và các mô không ung thư xung quanh gan) được lấy từ 21 bệnh nhân ung thư gan. Các bệnh nhân này được chia ra làm 3 dạng HCC bởi các chỉ thị virus: 7 HBsAg dương tính (HCC dạng B), 7 anti-HCV dương tính (HCC dạng C) và 7 HBsAg và anti-HCV âm tính. Protein tổng số được phân tích bằng điện di 2 chiều và khổi phổ MALDI-TOF-MS và những thay đổi trong hệ protein đã được chỉ ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 60 protein có mức độ biểu hiện khác nhau giữa các mẫu ung thư và không ung thư, trong số đó 14 protein bị thay đổi trong cả 3 dạng HCC, trong khi đó, 46 protein lại là chỉ thị đặc hiệu về virus. Tóm lại, các protein đã xác định được phân loại theo tác nhân virus có liên quan đến HCC dạng B và C. Các kết quả này chỉ ra một cách rõ ràng rằng sự biểu hiện của hệ protein của các mô trong HCC liên quan mật thiết với các yếu tố gây bệnh và cơ chế ung thư gan có thể diễn ra khác nhau do các yếu tố HBV và HCV .

Cũng trên đối tượng các bệnh nhân ung thư gan có tiền sử viêm gan B, tháng 4 năm 2008, Min He và cộng sự đã công bố kết quả nghiên cứu phát hiện và xác định NAP-2 như là một chỉ thị sinh học của ung thư gan liên quan đến viêm gan B bằng kĩ thuật proteomic. Nghiên cứu được tiến hành trên 81 bệnh nhân HCC có tiền sử HBV và 33 người khỏe mạnh với kĩ thuật SELDI-TOF-MS đã mô tả hệ protein của các mẫu huyết thanh.

Năm 2006, nhóm các nhà khoa học Mỹ đứng đầu là Mary Ann Comunale đã tiến hành phân tích proteomic các glycoprotein huyết thanh bị fuco hóa trong giai đoạn đầu ung thư gan. Các tác giả đã chỉ ra rằng với sự gia tăng các mức độ fuco hóa có thể được quan sát qua phân tích polysaccharide với huyết thanh tổng số và có liên quan đến sự tiến triển HCC. Như đã biết AFP là một chỉ thị sinh học trong ung thư gan (trên 50ng/mL gặp ở 30~60% trường hợp HCC tại thời điểm chẩn đoán), tuy vậy, AFP thường biểu thị không đầy đủ ở những mô nhỏ. Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã tiếp cận phương pháp glycoproteomics để xác định các glycoprotein huyết thanh liên quan tới tiến triển ung thư và GP73 đã được phát hiện với mức độ gia tăng trong các đối tượng HCC. Protein này đã được phân tích kĩ và được chỉ ra như là một chỉ thị HCC tốt hơn AFP ở người . Ngoài ra, người ta còn phát hiện ra một dạng đồng phân khác của AFP khi bị fuco hóa là DCP (Desgamma carboxyprothrombin) cũng liên quan đến HCC [.

Nhằm làm rõ hơn bằng chứng về sự biểu hiện của đáp ứng miễn dịch cơ thể, bằng việc chỉ ra sự xuất hiện các kháng thể tự miễn tương tác với các kháng nguyên mô ở người bị ung thư. Nghiên cứu của Paradis và cộng sự (2007) với mục đích đánh giá sự biểu hiện các kháng nguyên liên quan đến khối u trong huyết thanh (tumor-associated antigens-TAAs) trong chẩn đoán ung thư gan. Các tác giả đã sàng lọc huyết thanh của 142 bệnh nhân HCC bằng việc sử dụng 8 TAAs chọn trước (Imp1, p62, Koc, p53, c-myc, Cyclin B1, surviving và p16) không liên quan đến các mô gan. Các TAAs được định lượng bằng ELISA trên mẫu huyết thanh và được so sánh giữa một nhóm HCC và một nhóm huyết thanh bình thường. Nghiên cứu này đã giải quyết vấn đề miễn dịch ung thư từ đó cho phép phân tích toàn diện các kháng thể tương tác với các kháng nguyên trong một khối u và đánh dấu cho sự phát triển trong nghiên cứu chỉ thị sinh học bệnh đặc biệt là ung thư .

Năm 2010, Pleguezuelo và các cộng sự tại đại học Reina Sofia Cordoba Tây Ban Nha đã tiến hành nghiên cứu nhận dạng chỉ thị mới của ung thư gan bằng phương pháp proteomics. Các bệnh nhân HCC với 3 nguyên nhân chính là nhiễm virus viêm gan B, viêm gan C và do rượu. Mẫu được phân tích bằng điện di hai chiều để xác định các protein có biểu hiện khác biệt. Các protein được phân tách trên một thanh trip có gradient pH từ 3 đến 10 và điện di biến tính với SDS. Phân cắt protein bằng trypsin và phân tích nhận dạng peptide. Kết quả là 3 apolipoprotein biểu hiện khác biệt đã được nhận dạng: Apo-A1, Apo-A4 và Apo-E. Apo-A4 có biểu hiện thấp hơn ở bệnh nhân HCC so với mẫu không có HCC. Nhiều ý kiến cho rằng Apo-A4 và Apo-A1 là các nhân tố độc lập liên quan đến chẩn đoán HCC. Nghiên cứu đưa ra kết luận rằng Apo-A4 và Apo-A1 có thể được sử dụng như một chỉ thị có độ nhạy và đặc hiệu cao với HCC .

Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là một trong những nguyên nhân phổ biến gây khối u ác tính gây tử vong cao. Tỷ lệ mắc HCC ở Hoa Kỳ đang gia tăng. Matos và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu proteomics ung thư gan của người Mỹ. Khối u và mô từ ba bệnh nhân HCC người Mỹ bị viêm gan và không liên quan đến viêm gan đã được phân tích để tìm sự khác biệt phổ biến trong biểu hiện protein. Protein đã được phân tách bởi điện di 2D (gel 10% SDS-PAGE). Gel đã được cố định và sau đó nhuộm màu với xanh Coomassie. Số hóa và xử lý được thực hiện bằng cách sử dụng phần mềm PDQuest. Sử dụng kiểm định t-student để phát hiện sự thay đổi protein giữa khối u mà mô lành của tất cả các cặp mẫu với xác suất P < 0,01. Kết quả thu được với 19 spots biểu hiện khác biệt có ý nghĩa (> 2 lần). Trong số 19 spots, 9 spots biểu hiện tăng và 10 biểu hiện giảm ở u. Các protein biểu hiện tăng bao gồm: beta-5-tubulin, beta-actin, vimentin, carbamoyl-phosphate, synthetase-1, methylenetetrahydrofolate dehydrogenase, serum albumin, catalase, autoimmune regulator, and transcription factor, ets. Các protein biểu hiện giảm bao gồm: BiP protein, A-kinase anchoring protein 18 gamma, inorganic pyrophosphatase, keratin 8, repulsive guidance molecule, butyrophilin, superoxide dismutase, TSA, heat-shock 70-kDa protein 9B, and hemoglobin alpha-2. Đặc biệt, các protein tự miễn dịch được biểu hiện cao 14 lần trong mô khối u, cho thấy nó có thể có một vai trò trong HCC. Xác nhận và tiếp tục điều tra về những thay đổi protein này có thể dẫn đến việc phát hiện ra phân tử chỉ thị mới [19].

Trong dự án tin sinh học proteomic, Kondo đã chỉ ra rằng 23 protein xuất hiện trở lại khi tái phát ung thư gan sau phẫu thuật. Hơn nữa, khi tập trung vào những khác nhau về tế bào học, tác giả đã chỉ ra rằng APC gắn protein EB1 là một chỉ thị sinh học mới cho tiên lượng HCC. Protein EB1 liên quan đến con đường dẫn truyền tín hiệu có biểu hiện khác thường ở bệnh nhân HCC và ung thư thực quản. Kiểm tra hóa miễn dịch tế bào sự biểu hiện EB1 sẽ giúp xác định các trường hợp có nguy cơ tái phát cao và tác động điều trị có thể được cải thiện thông qua theo dõi và điều trị bệnh .



      1. Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
        ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
        ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
        ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
        ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
        ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
        ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
        ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
        ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
        ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

        tải về 429.52 Kb.

        Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương