Phân tích hiệu quả kỹ thuật, năng suất nhân tố tổng hợp và khoảng cách trong công nghệ sản xuất giữa các vùng nông nghiệp Việt Nam



tải về 0.84 Mb.
trang1/11
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.84 Mb.
#35643
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11
Phân tích hiệu quả kỹ thuật, năng suất nhân tố tổng hợp và khoảng cách trong công nghệ sản xuất giữa các vùng nông nghiệp Việt Nam
TS. Hồ Đình Bảo

Email: hodinhbao@yahoo.com
Tóm tắt

Nghiên cứu này phân tích khoảng cách trong công nghệ sản xuất nông nghiệp, hiệu quả kỹ thuật và năng suất nhân tố tổng hợp của sáu vùng trong cả nước. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích đường biên sản xuất chung (meta-frontier) và chỉ số Malmquist TFP toàn cục (global Malmquist TFP index) do Oh và Lee phát triển (2010) cho số liệu sản xuất nông nghiệp cấp tỉnh ở Việt Nam trong giai đoạn 1990-2006. Kết quả phân tích thực nghiêm cho thấy: (a) Tiến bộ công nghệ là nguyên nhân chủ yếu của tăng trưởng năng suất nông nghiệp trong thời gian qua; (b) Tồn tại khoảng cách trong công nghệ sản xuất và đây là nguyên nhân chính cho sự khác biệt năng suất giữa các vùng nông nghiệp, Miền núi phía Bắc và Duyên hải miền Trung ngày càng tụt hậu trong công nghệ sản xuất; và (c) Các tỉnh phía Nam có khuynh hướng tập trung nhiều hơn vào đổi mới công nghệ sản xuất trong khi đó các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung tập trung nhiều hơn vào cải thiện hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.
Từ khóa: Năng suất nhân tố tổng hợp, chỉ số năng suất nhân tổ tổng hợp Malmquist toàn cục, hiệu quả kỹ thuật, cải tiến công nghệ, đường biên sản xuất chung, khoảng cách công nghệ.
1. Giới thiệu

Kể từ sau đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Chỉ thị 100 (1981) và Nghị Quyết 10 (1988) đã đặt những nền móng ban đầu hết sức quan trọng về mặt chính sách cho công cuộc đổi mới sản xuất nông nghiệp. Người nông dân trở thành những cá thể kinh tế độc lập. Những chính sách này đã góp phần chuyển Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực thành một nước xuất khẩu lần đầu tiên vào năm 1989. Trong suốt giai đoạn 1990-2011, tổng sản lượng nông nghiệp Việt Nam tăng bình quân 5% mỗi năm hay 188,3% cho toàn giai đoạn (GSO, 2012). Nó góp phần hết sức quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và cung cấp một lượng ngoại hối lớn cho yêu cầu công nghiệp hóa và phát triển kinh tế của đất nước. Đóng góp vào sự tăng trưởng ấn tượng đó của nông nghiệp, bên cạnh sự gia tăng của các yếu tố sản xuất nông nghiệp, tăng trưởng năng suất đóng một vai trò hết sức quan trọng.

Tuy nhiên, với quá trình công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay, các nguồn lực sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp và chuyển sang các khu vực kinh tế khác đặc biệt là lao động và đất đai. Điều này gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Để duy trì sự tăng trưởng nhanh, bền vững của sản xuất nông nghiệp, vai trò của tăng trưởng năng suất trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên thúc đẩy tăng trưởng năng suất không thể chỉ là hoạt động của các hộ sản xuất nông nghiệp, các trang trại, hợp tác xã hay các doanh nghiệp nông nghiệp, mà nó còn là một yêu cầu về chính sách cần đáp ứng.

Để có thể đưa ra những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng năng suất trong khu vực nông nghiệp, thông tin về sự thay đổi năng suất và các thành phần của nó trong giai đoạn vừa qua là hết sức quan trọng. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu đó.

Trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên cứu về phân tích năng suất nông nghiệp và các thành phần của nó. Trong số đó các nghiên cứu định lượng phổ biến sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) (Farell, 1957) để ước lượng chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp Malmquist và phương pháp phân tích hàm sản xuất biên ngẫu nhiên (SFA) (Aigner và Chu, 1968). Ở Việt Nam, có khá nhiều các nghiên cứu về năng suất nông nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Hầu hết các nghiên cứu này sử dụng phân tích định tính và thống kê mô tả. Cũng có một số ít các nghiên cứu phân tích định lượng về năng suất, hiệu quả kỹ thuật và tiến bộ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp tuy nhiên các nghiên cứu này đều dựa trên một giả định truyền thống rằng tất cả tỉnh (hoặc hộ sản xuất) có cùng một trình độ công nghệ sản xuất ở mỗi thời kỳ. Thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam cho thấy giả định này là không phù hợp, mỗi vùng nông nghiệp có những điều kiện, nguồn lực sản xuất đặc thù và do đó cấu trúc sản xuất nông nghiệp rất khác nhau.

Từ thực tiễn đó, nghiên cứu này phá bỏ giả định truyền thống nói trên bằng việc sử dụng một phương pháp phân tích khác – phương pháp phân tích đường biên sản xuất chung và chỉ số năng suất tổng hợp (TFP) Malmquist toàn cục, trong đó coi mỗi vùng nông nghiệp có một trình độ công nghệ khác nhau tại mỗi thời kỳ. Dựa trên giả định đó ước lượng khoảng cách công nghệ sản xuất giữa vùng, năng suất nhân tố tổng hợp của nông nghiệp và các thành phần của nó. Ngoài phần giới thiệu nghiên cứu được kết cấu thành 4 phần: (2) Tổng kết các nghiên cứu có liên quan trong nước và trên thế giới; (3) mô hình lý thuyết; (4) Kết quả ước lượng thực nghiệm; và (5) một số kết luận rút ra từ kết quả nghiên cứu.



2. Các nghiên cứu có liên quan

Để xem xét sự khác biệt giữa các nhóm quan sát (các vùng nông nghiệp trong nghiên cứu này), phương pháp đường biên sản xuất chung được sử dụng rộng rãi nhằm ước lượng cải thiện hiệu quả kỹ thuật, tiến bộ công nghệ và tăng trưởng năng suất kể từ khi Battese và cộng sự. (2002, 2004) xây dựng dựa trên khái niệm về hàm sản xuất chung do Hayami (1969), Hayami và Ruttan (1970) đưa ra. Một số nghiên cứu của Oh (2010) và Oh và Lee (2010) phát triển một mô hình lý thuyết để ước lượng chỉ số Malmquist TFP toàn cục bằng phương pháp đường biên sản xuất chung thông qua bao dữ liệu. Phương pháp luận này được xây dựng dựa trên một số khái niệm do Pastor và Lovell (2005) phát triển như đường biên sản xuất nhóm, đường biên sản xuất đa thời kỳ và đường biên sản xuất chung. Trong phần này tác giả tổng hợp một số nghiên cứu chủ yếu sử dụng DEA và SFA nhằm ước lượng đường biên sản xuất chung.



2.1. Một số nghiên cứu sử dụng DEA nhằm ước lượng đường biên sản xuất chung và chỉ số Malmquist TFP toàn cục

Cho đến nay có đã có rất nhiều các nghiên cứu sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) nhằm ước lượng đường biên sản xuất chung. Rao và cộng sự (2003) và O’Donnell và cộng sự (2008) sử dụng mô hình DEA trong phân tích sự khác biệt năng suất nông nghiệp của 97 nước. Các nước này được chia thành 4 nhóm. Các tác giả chỉ ra rằng Châu Mỹ là khu vực có hiệu quả kỹ thuật cao nhất trong khi đó Châu Phi là thấp nhất. Châu Á nắm giữ vị trí hàng đầu trong công nghệ sản xuất nông nghiệp. Với phương pháp tương tự, Krishnasamy và Ahmed (2009) phân tích tăng trưởng năng suất và chỉ ra khoảng cách giữa 26 nước OECD. Ở cấp số liệu vi mô, Breustedt và cộng sự (2009) phân tích hiệu quả kỹ thuật và khoảng cách công nghệ giữa 2 nhóm: 1.239 nông trại truyền thống và 102 nông trại organic ở Bavaria, Đức vào năm 2005.

Khác với các nghiên cứu sử dụng bao dữ liệu giản đơn chỉ tập trung vào hiệu quả kỹ thuật và khoảng cách công nghệ ở một thời điểm nhất định, Oh và Lee (2010) xây dựng chỉ số Malmquist TFP toàn cục nhằm đo lường xu hướng thay đổi của hiệu quả kỹ thuật, tiến bộ công nghệ và năng suất trong thời kỳ. Các tác giả ước lượng tăng trưởng năng suất và các thành phần của nó đối với một mẫu gồm 58 nước được chia thành 5 khu vực trong giai đoạn 1970-2000. Oh (2010) kết hợp chỉ số này với những khác biệt giữa các nhóm để phát triển thành chỉ số tăng trưởng năng suất “nhạy cảm”. Tác giả đã sử dụng nó trong phân tích tăng trưởng năng suất của 46 nước được chia thành 3 khu vực trong giai đoạn 1992-2003.

2.2. Một số nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích sản xuất biên ngẫu nhiên để ước lượng đường biên sản xuất chung

Được Battese và cộng sự (2002, 2004) đưa ra và O’Donnell và cộng sự (2008) phát triển cho đến nay phương pháp phân tích sản xuất biên ngẫu nhiên để ước lượng đường biên sản xuất chung được sử dụng trong rất nhiều nghiên cứu đo lường hiệu quả và năng suất. Rao và cộng sự (2003) và O’Donnell và cộng sự (2008) phân tích sự khác biệt năng suất nông nghiệp giữa 97 quốc gia trong các khu vực: Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á và Châu Âu trong giai đoạn 1986-1990. Cũng sử dụng phương pháp này, Jemaa và Dhif (2005) đo lường năng suất nông nghiệp và khoảng cách trong công nghệ sản xuất giữa khu vực MENA và một số nước Châu Âu. Chen và Song (2008) ước lượng hiệu quả kỹ thuật và khoảng cách trong công nghệ sản xuất giữa 4 khu vực bao gồm 31 tỉnh của Trung Quốc vào những năm 1990. Ở cấp số liệu vi mô, Moreira và Bravo-Ureta (2010) đo lường hiệu quả kỹ thuật và tỷ lệ khoảng cách công nghệ của các trang trại bò sữa ở 3 quốc gia: Argentina, Chile và Uruguay. Tương tự, Mariano và cộng sự. (2010) phân tích hiệu quả và khoảng cách công nghệ của 2,000 trang trại trồng lúa trong 4 vùng khí hậu ở Phillipine trong giai đoạn 1997-2007.

Cho đến nay chưa có một nghiên cứu được công bố nào sử dụng những phương pháp này để ước lượng khoảng cách trong công nghệ sản xuất nông nghiệp cũng như các khu vực khác ở Việt Nam. Hầu hết các nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực hiệu quả kỹ thuật và năng suất nông nghiệp chủ yếu theo hướng sử dụng các phân tích định tính và thống kê mô tả. Một số nghiên cứu định lượng trong lĩnh vực này đều sử dụng phương pháp bao dữ liệu để ước lượng chỉ số Malmquist TFP truyền thống hoặc sử dụng phương pháp phân tích hàm sản xuất biên ngẫu nhiên truyền thống như: Son, Coelli và Fleming (1993) – các trang trại cao su; Nghiêm và Coelli (2002) – ngành lúa gạo; Rios và Shively (2005) – các trang trại trồng cà phê; Linh (2008) – nông nghiệp nói chung; Minh và Long (2008) – nông nghiệp nói chung; Kompas và cộng sự (2009) – ngành lúa gạo. Các nghiên cứu này không chỉ ra được sự khác biệt, mức độ thay đổi về công nghệ sản xuất giữa các vùng nông nghiệp do chúng đều giả định rằng tất cả các tỉnh (hộ/trang trại sản xuất nông nghiệp) có cùng công nghệ tại mỗi thời kỳ.

3. Mô hình lý thuyết

Trong phần này chúng ta sẽ xem xét phương pháp đường biên sản xuất chung được sử dụng như thế nào trong việc đo lường hiệu quả kỹ thuật và tỷ số khoảng cách công nghệ của các nhóm khác nhau cũng như tiến bộ công nghệ và năng xuất nhân tố tổng hợp.



3.1. Đo lường hiệu quả kỹ thuật và tỷ lệ khoảng cách công nghệ

Phương pháp đo lường hiệu quả kỹ thuật được sử dụng trong phạm vi của mô hình biên sản xuất chung cũng tương tự như trong phương pháp DEA truyền thống. Hình 1 mô tả định nghĩa về hiệu quả kỹ thuật so với đường biên sản xuất chung và đường biên sản xuất nhóm.

Trong hình 1, xét hãng A thuộc nhóm 1, ta có hai đại lượng đo lường phi hiệu quả kỹ thuật. Thứ nhất là phi hiệu quả kỹ thuật tương ứng với đường biên sản xuất chung:

TE(x,q) = Do(x,q)= OB/OF (1)

Trong đó D(x,q) được hiểu là hàm khoảng cách sử dụng để đo lường phi hiệu quả kỹ thuật.



Thứ hai là phi hiệu quả kỹ thuật tương ứng với đường biên sản xuất nhóm, được định nghĩa tương tự nhưng sử dụng đường biên sản xuất nhóm thay vì đường biên sản xuất chung:

TEk(x,q) = Dko(x,q) = OB/OD (2)

TE(x,q) luôn nhỏ hơn hoặc bằng TEk(x,q).

Hình 1: Hiệu quả kỹ thuật và tỷ lệ khoảng cách công nghệ trong

mô hình đường biên sản xuất chung


Đường biên sản xuất nhóm 3

Cũng trên hình 1, ta thấy luôn tồn tại khoảng cách giữa các đường biên sản xuất nhóm và đường biên sản xuất chung. Khoảng cách này phản ánh mức độ lạc hậu của công nghệ sản xuất nhóm so với công nghệ sản xuất chung. Tỷ lệ khoảng cách công nghệ (Battese và cộng sự, 2004) của nhóm k được định nghĩa là:



(3)

TGR có giá trị trong khoảng (0,1). TGR càng gần tới 1, khoảng cách giữa đường biên sản xuất nhóm và đường biên sản xuất chung càng nhỏ. Điều này phản ánh công nghệ sản xuất nhóm càng gần công nghệ sản xuất chung.



Phương trình (3) có thể được viết thành:

(4)

Phương trình (4) cho thấy hiệu quả kỹ thuật so với đường biên sản xuất chung (TE) bao gồm 2 phần: (a) kiến thức sản xuất hiện tại, môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc trưng của từng nhóm (TEk) và (b) khoảng cách công nghệ của nhóm so với mức chung của toàn bộ các quan sát (TGR) (O’Donnell và cộng sự, 2008). Phương trình này cung cấp một cơ sở hữu ích cho việc nâng cao hiệu quả kỹ thuật. Nó cho thấy các nhà hoạch định chính sách có thể cân nhắc giữa việc tập trung vào bản thân nội bộ các hãng thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng (cải thiện TEk) hoặc tập trung vào các vấn đề của môi trường hoạt động như đầu tư hạ tầng và chuyển giao công nghệ nhằm thu hẹp khoảng cách trong công nghệ sản xuất (O’Donnell và cộng sự, 2008). Sự thay đổi của khoảng cách công nghệ nói trên giữa các thời kỳ được đo lường như sau (Oh và Lee, 2010):



(5)


Каталог: Portals
Portals -> Phan Chau Trinh High School one period test no 2 Name: English : 11- time : 45 minutes Class: 11/ Code: 211 Chọn từ hoặc cụm từ thích hợp A, B, C, d để điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau
Portals -> PHẦn I: thông tin cơ BẢn về ĐẠi hàn dân quốc và quan hệ việt nam-hàn quốc I- các vấN ĐỀ chung
Portals -> Năng suất lao động trong nông nghiệp: Vấn đề và giải pháp Giới thiệu
Portals -> LẤy ngưỜi học làm trung tâM
Portals -> BÀi tậP Ôn lưu huỳnh hợp chất lưu huỳnh khí sunfurơ so
Portals -> TỜ trình về việc ban hành mức thu phí tham gia đấu giá quyền sử dụng đất
Portals -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Portals -> GIẤY Ủy quyền tham dự Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2016

tải về 0.84 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương