Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay



tải về 258.5 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích258.5 Kb.
#5770
1   2   3   4

Thứ nhất : Phát triển sản xuất kinh doanh và tiết kiệm . Đây là mục tiêu và là điều kiện để có thể huy động và sử dụng vốn một cách tốt hơn.

Chúng ta có tập trung cho phát triển sản xuất thì mới có thể khai thác tối đa những nguồn vốn mà chúng ta huy động được. Khi đó sẽ tạo ra tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, từ đó họ sẽ tiếp tục bỏ vốn vào đầu tư tại thị trường nước ta.

Việc huy động vốn đã khó nhưng vấn đề nữa đó là sử dụng vốn như thế nào. Nếu chúng ta sử dụng vốn một cách lãng phí thì không thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả được, từ đó sẽ không thể huy động vốn cho đầu tư được. Do đó chúng ta phải thực hành tiết kiệm, có tiết kiệm thì mới tạo ra của cải vật chất, có tiết kiệm thì mới tạo ra nguồn vốn đầu tư được, nhất là đối với Việt Nam hiện nay. Xuất phát điểm của chúng ta thấp rất nhiều so với các nước khác, vốn ít , công nghệ lại lạc hậu nên rất khó phát triển kinh tế . Do đó phải tận dụng mọi nguồn lực tối đa cho phát triển kinh tế có như vậy mới đảm bảo được tăng trưởng kinh tế một cách bền vững .

2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.

Sự ổn định của môi trường vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định đầu tư. Để thu hút được mọi nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư thì trước hết phải đảm bảo nguồn vốn của các nhà đầu tư phải được an toàn. Một nhà đầu tư thông thường sẽ không bao giờ đầu tư vào những nơi mà ở đó nguồn vốn của họ luôn trong tình trạng có nguy cơ bị mất, đồng tiền luôn đi liền khúc ruột.

Ngoài ra thì sự ổn định kinh tế vĩ mô còn thể hiện ở khả năng trả nợ đối với những nguồn vốn đi vay nợ nước ngoài. Sẽ không một tổ chức hay quốc gia nào sẵn sàng cho vay mà không có một cam kết trả nợ. Do đó phải đảm bảo được khả năng sản xuất , mức độ tăng trưởng xuất khẩu tối thiểu để chủ nợ có thể thu hồi lại vốn.

Nền kinh tế còn phải đảm bảo được vấn đề kiểm soát được quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Muốn kiểm soát được tình hình kinh tế thì nhà nước thông qua những công cụ trên thị trường tài chính mà từ đó kiểm soát được tình hình kinh tế như : ổn định giá trị đồng nội tệ, lãi suất và tỉ giá hối đoái .

Tuỳ vào tình hình cụ thể của từng nước cũng như trong từng giai đoạn mà từ đó đưa ra những điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế đang diễn ra.

Chẳng hạn muốn đảm bảo được việc xuất khẩu một cách ổn định thì nhà nước phải đảm bảo được tính ổn định của giá trị đồng nội tệ, ít nhất là phải trong một thời gian dài. Hơn nữa để có thể kiềm chế lạm phát hoặc giảm phát thì cần phải tạo ra tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế như khả năng sản xuất , hệ thống tài chính và cơ chế lưu thông tiền tệ.

Lãi suất và tỉ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư thông qua việc tạo lập môi trường ổn định nền kinh tế vĩ mô mà còn tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư và mức tạo ra lợi nhuận của nguồn vốn đầu tư.

Tuy nhiên cái gì cũng có tính hai mặt của nó, không có cái gì là hoàn thiện cả. Nếu ta tăng lãi suất để huy động vốn thì đồng nghĩa với chi phí sử dụng vốn trong đầu tư cũng sẽ cao. Điều này lại giảm lợi nhuận của nhà đầu tư, sẽ làm giảm đầu tư hơn và ngược lại. Điều này cũng tương tự với tỉ giá hối đoái . Giá trị đồng nội tệ càng giảm thì khả năng thu lợi từ đồng nội tệ càng cao. Việc này cũng đồng nghĩa với việc nếu sẽ phải trả một khối lượng nợ thực tế lớn hơn giá trị danh nghĩa trên hợp đồng. Điều này lại làm giảm khả năng vay vốn của nước ngoài để đi đầu tư.

Do vậy, chính phủ cần phải tiến hành một cách đồng bộ các chính sách kinh tế của mình, chính điều này sẽ thu hút được vốn đầu tư nhiều hơn nữa. Nhất là đối với nước ta đang rất cần nguồn vốn cho đầu tư để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

3. Xây dựng các chính sách , hành lang pháp lý mang tính đồng bộ cao hơn.

Chính phủ sử dụng các công cụ của mình mà điều chỉnh nền kinh tế theo định hướng.

Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thì cần phải:

thứ nhất : Nâng cao năng lực Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong hoạch định chính sách và quản lý thị trường chứng khoán, và liên kết cổ phần hóa với phát triển thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán xuất hiện ở nước ta chỉ mới vài năm gần đây nên việc hiểu biết về thị trường chứng khoán còn rất nhiều hạn chế, do đó khả năng quản lý và điều hành thị trường chứng khoán còn rất nhiều bất cập trong việc xử lý trên thị trường chứng khoán, nhất là việc xem xét và đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường.



thứ hai : Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian thị trường và thúc đẩy hoạt động đào tạo, nghiên cứu và nâng cao nhận thức về thị trường chứng khoán cho công chúng đầu tư.

Hiện nay chúng ta chỉ có hai thị trường giao dịch chính là trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với một vài công ty , tổ chức tài chính trung gian như Tập đoàn tài chính Bảo Việt, và một số tổ chức tài chính quốc tế có mặt tại Việt Nam như Tập đoàn tài chính City Group, hay VinaCapital... So với thị trường tài chính các nước trên thế giới thì chúng ta có quá ít do đó đã làm hạn chế khả năng phát triển và huy động vốn đầu tư cho các doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho công chúng đầu tư sẽ rất thiếu thông tin từ thị trường và sẽ hạn chế đầu tư vào thị trường chứng khoán.



thứ ba: cần sớm ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư và Luật chứng khoán trên tinh thần tiến đến mục tiêu tự do hoá nguồn vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.

Tính đồng bộ trong các chính sách kinh tế của Việt Nam được đánh giá không cao, thậm chí có thể nói là yếu. Văn bản trước chồng chéo lên văn bản sau, luật này đề ra thì luật kia hạn chế cho nên các nhà đầu tư rất khó có thể nhận biết được văn bản nào còn có tác dụng, văn bản nào bị hạn chế , bị hạn chế ở điều nào khoản nào. Theo ông Đào Lê Minh_Giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học và đầu tư chứng khoán thuộc Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước thì đối với thị trường chứng khoán nước ta thiếu bền vững, thiếu minh bạch, hệ thống pháp lý và các quy chuẩn, quy phạm còn chưa hoàn thiện, việc quản trị công ty còn yếu kém.

đóng góp vào dự thảo Nghị định Chính phủ về việc mua cổ phiếu ngân hàng, VAFI đã có nhận xét Nghị định trên mang tính “khó hiểu, rắc rối, không cần thiết”, “cản trở sự phát triển của ngân hàng” và “không khuyến khích các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần ngân hàng”

Điều này làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán của nước ta hiện nay. Do đó chúng ta cần ban hành một cách đầy đủ và có tính đồng bộ các văn bản hướng dẫn hai Luật quan trọng trên thị trường chứng khoán là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư và tiếp theo là Luật chứng khoán sắp có tác dụng.



thứ tư : Thực hiện minh bạch hoá, khai thông kênh thông tin đối với giới đầu tư. Khuyến khích các công ty định mức tín nhiệm có uy tín như Standard & Poor’s, Moody thành lập chi nhánh tại Việt Nam

Để đánh giá được năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thì cần phải có những tổ chức chuyên nghiệp, những tổ chức tài chính có uy tín thì mới có thể đánh giá được khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cần phải công khai hơn, minh bạch về tài chính hơn thì mới có thể đạt được tín nhiệm trên thị trường. Thực tế của Việt Nam hiện nay lại làm ngược lại, hầu hết các doanh nghiệp lại cung cấp rất ít thông tin cho nhà đầu tư hoặc nếu có cung cấp thì cũng không rõ ràng , thường là khoe cái tốt , cái mạnh và giấu đi điểm yếu. Đây cũng là một cái khó khi phát triển hệ thống định mức tín nhiệm cũng như việc mở rộng quy mô thì trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
thứ năm : khuyến khích các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần ngân hàng, công ty chứng khoán trong nước. Đây chính là một trong các biện pháp giúp tăng năng lực của các công ty chứng khoán Việt Nam, tiến tới phục vụ tốt cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

Đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn của Việt Nam trong những năm qua tăng rất mạnh do đó chúng ta nên khuyến khích các tổ chức tài chính mua cổ phần của các ngân hàng thương mại, của công ty chứng khoán trong nước. Có như vậy thì tiềm lực tài chính của các công ty, các ngân hàng mới có thể cạnh tranh được với các công ty tài chính hàng đầu trên thế giới khi Việt Nam gia nhập WTO . Nếu không thì chúng ta rất có thể sẽ bị thua ngay trên sân nhà .


thứ sáu : Tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp Việt Nam, bãi bỏ giới hạn này đối với các ngành nghề không trọng yếu và nâng giới hạn nắm giữ cổ phiếu đối với cổ phiếu ngân hàng lên 49%, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam."

Các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, với tiềm lực tài chính hạn chế không thể cạnh tranh được các doanh nghiệp , các công ty quốc tế . Nếu không muốn phá sản hoặc bị thôn tính thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải huy động một khối lượng vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất cũng như quy mô về tài chính để có thể cạnh tranh với các công ty lớn khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO . Do đó với những ngành nghề không quan trọng, không phải nắm giữ những khâu then chốt trong nền kinh tế thì cho các doanh nghiệp đó được bán tỉ lệ cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều hơn, không quy định tỉ lệ sở hữu doanh nghiệp như hiện nay. Tuy nhiên, ngành ngân hàng là một ngành then chốt của nền tài chính nước ta nên phải quy định tỉ lệ sở hữu của đầu tư nước ngoài . có như vậy thì nhà nước mới kiểm soát được tình hình tài chính của đất nước. Hiện tại chính phủ quy định tỉ lệ sở hữu đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng, các tổ chức tài chính là 30% vốn điều lệ. Đây là biện pháp có thể kiềm chế sự bành trướng của các tổ chức tài chính nhằm đầu cơ trục lợi.

Chẳng hạn với ngân hàng Sacombank ngân hàng này đã sử dụng hết room 30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3 nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng này. Trong khi đó thì Techcombank là 10% và VPBank là 20%.

4. Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”.

Trước hết cần nhanh chóng đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động, dành cho các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo ra hàng hoá đa dạng cho thị trường. Tăng số lượng Công ty niêm yết, da dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, cần xây dựng và mỏ rộng hoạt động cua các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợt triển thị trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư. Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường trường chiếm khoảng 2 – 3% GDP vào năm 2005 và 10 – 15% vào năm 2010.



5.. Thiết lập một môi trường hấp dẫn

Chính phủ cấn tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn, cởi mở hơn để có thể thu hút các nhà đầu tư, các Công ty niêm yết Công ty quản lý quỹ, Công ty chứng khoán đầu tư vào thị trường chứng khoán như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu hoạt động, không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán (capital gain). Ngoài ra, UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm".



6. Phát triển thị trường OTC (Over-the-counter).

Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, trước khi có rnột thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt. Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm cua các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức cua công chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ diều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán.


II. Xét tầm vi mô

1. Đối với các doanh nghiệp

1.1 Các doanh nghiệp phải công khai hơn , minh bạch về tài khoá tài chính hơn khi tham gia thị trường chứng khoán.

Đây là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nhất là với những công ty đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn đối với các doanh nghiệp muốn được tham gia tại thị trường niêm yết thì cần phải công khai về tài chính hơn nữa, minh bạch trong báo cáo tài chính hàng năm. Việc minh bạch và công khai về tài chính sẽ tạo niềm tin và củng cố niềm tin của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, khi đó họ sẽ tiếp tục đầu tư vào công ty.

Việc minh bạch và công khai về tài chính hàng năm, hàng quý của công ty sẽ là điều kiện tiên quyết cho các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán.

Hàng năm, công ty sẽ phải có một bản báo cáo bạch về tài chính của công ty vào cuối năm tài khóa. Việc công khai này sẽ đưọc công báo tại đại hội đồng cổ đông hàng năm và được gủi cho Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước. Uỷ Ban Chứng Khoán sẽ kỉểm định , xác nhận những thông tin trên và sẽ có xác nhận từ các tổ chức kinh doanh tài chính , các tổ chức đánh giá tín nhiệm.

Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự giác công khai tài chính của mình.

Tuy nhiên, ở Việt Nam thì tính công khai, minh bạch về tài chính của doanh nghiệp vẫn còn yếu. Hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn “phơi áo” cho người thấy, nhất là đối với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Đây là một khó khăn đối với các công ty tín nhiệm cũng như khó khăn của các nhà đầu tư khi đầu tư trên thị trường chứng khoán .Nhiều công ty hàng đầu của Việt Nam chưa thấy sự bị hấp dẫn từ thị trường chứng khoán . Có thể có nhiều lý do cho vấn đề này, như việc không đáp ứng được các tiêu chí niêm yết. Tuy nhiên, cũng có thể là do họ thấy nhiều “bất lợi” hơn từ việc công bố và minh bạch báo cáo tài chính, và phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, so với việc không niêm yết. Một vài đại hội cổ đông của các công ty niêm yết đã cho thấy rằng, ban điều hành phải chịu trách nhiệm về tình hình tài chính yếu kém, và vì vậy cần phải thuyết phục để cho các giám đốc công ty nhận thức được rằng việc gắn kết trách nhiệm này là rất tốt cho họ. Chính phủ hiện đang cố gắng vượt qua các trở ngại này bằng các ưu đãi về thuế và các biện pháp khác tương tự, nhưng trên hết cả vẫn là sự tác động của thị trường, và một số các “điển hình thành công” cụ thể có thể thuyết phục được các giám đốc của các công ty còn đang lưỡng lự khi tham gia thị trường. Thị trường vốn hoạt động hiệu quả là rất tốt cho sự phát triển của một quốc gia, và các nhà lập chính sách cần làm mọi việc có thể để đảm bảo sự thành công của mình, nhưng trên hết cả vẫn là chủ nhân của các công ty chưa niêm yết, những người được lợi nhiều nhất từ việc niêm yết, và cần phải khuyến khích họ thực hiện bước chuyển đổi này.

Ngoài ra , để thu hút vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp còn cần có những chính sách, những định hướng phát triển phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại và trong tương lai.
Với những chính sách đầu tư đúng đắn thì sẽ tạo một niềm tin rất lớn cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào doanh nghiệp. Bởi nhà đầu tư nào cũng muốn đầu tư vào một nơi an toàn và có khả năng thu lại lợi nhuận cao.

1.2 Xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị và điều hành doanh nghiệp.

Khi chúng ta gia nhập các tổ chức quốc tế thì phải có những cam kết nhất định và phải tiến hành theo một lộ trình trong một khoảng thời gian.

Do đó, đối với doanh nghiệp trong nước hiện nay cũng cần học tập những quy tắc, những chuẩn mực trong công tác đìều hành và quản lý doanh nghiệp một cách quy củ hơn, chuyên nghiệp hơn và phù hợp với những thông lệ quốc tế. Có như vậy khi gia nhập các tổ chức quốc tế chúng ta sẽ tránh được trường hợp bỡ ngỡ khi gia nhập vào hệ thống các doanh nghiệp quốc tế. Và cũng tránh trường hợp bị khiếu kiện do làm ăn không theo đúng luật quốc tế .

Việc xây dựng và triển khai và áp dụng những quy chế, quy định của quốc tế như chứng chỉ ISO 9001, ISO 2000 ... sẽ tạo điều kiện rất nhiều cho doanh nghiệp một niềm tin khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới , là điều kiện để doanh nghiệp có thể đảm bảo chất lượng sản phẩm khi xuất khẩu sản phẩm ra quốc tế.



2. Đối với uỷ ban chứng khoán :

Do tình hình kinh tế phát triển mà có những định hướng phát triển thị trường chứng khoán một cách phù hợp với thực tế nhiều hơn nữa, đó là vấn đề sống còn đối với thị trường chứng khoán Việt Nam .



2.1 Phải tạo ra nhiều loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán nhiều hơn nữa.

Quy mô thị trường chứng khoán còn quá nhỏ bé cả về cung và cầu, hàng hoá trên thị trường chứng khoán ít về số lượng và nghèo nàn về chủng loại. Hiện nay hàng hoá chủ yếu là cổ phiếu, trái phiếu và 1 Chứng chỉ quỹ đầu tư(VF1). Thị trường trái phiếu Chính phủ đơn điệu với cách thức phát hành đơn giản, chưa thường xuyên, giao dịch thứ cấp chưa phát triển, thị trường trái phiếu công ty rất sơ khai. Trong khi đó thì công tác tạo hàng cho thị trường còn gặp nhiều khó khăn mặc dù Chính phủ, Bộ Tài chính đã có chỉ đạo cụ thể và quyết liệt. Một số Bộ, ngành, tổng công ty, doanh nghiệp còn e ngại tham gia thị trường, chưa có kế hoạch cụ thể cho việc niêm yết, đăng ký giao dịch.

Do đó, Uỷ Ban Chứng Khoán cần phải đa dạng hoá các sản phẩm để nhà đầu tư có thể có nhiều quyền lựa chọn khi đầu tư vào thị trường này. Và có cơ chế thông thoáng hơn trong điều kiện niêm yết thị trường chứng khoán để doanh nghiệp có điều kiện được niêm yết nhiều hơn.

2.2 Nâng cao công tác quản lý và giám sát doanh nghiệp đã được niêm yết và nâng cao trình độ cán bộ quản lý.

Hiện nay tại các trung tâm giao dịch chứng khoán công tác quản lý, giám sát thị trường còn có sự bất cập do văn bản pháp lý, cơ chế chưa đầy đủ, đồng bộ. Hệ thống công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về giám sát tự động và thêm nữa là trình độ và kinh nghiệm của cán bộ quản lý, giám sát hoạt động thị trường còn có những hạn chế. Đây thực sự là những hạn chế của các trung tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam hiện nay , điều này sẽ làm giảm chất lượng và khả năng thu hút vốn đầu tư qua thị trường vốn.

Để nâng cao công tác quản lý và giám sát thị trường thì cần phải tạo ra hành lang pháp lý cũng như những cơ chế hoàn thiện hơn, đồng bộ hơn. Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán, một thị trường mang lại lợi nhuận rất lớn nhưng rủi ro cũng rất cao.

2.3 Đào tạo và nâng cao kiến thức về thị trường chứng khoán cho công chúng.

Muốn thu hút được nhiều người đầu tư vào thị trường chứng khoán thì phải phổ biến, nâng cao trình độ cho người dân về thị trường chứng khoán.thông qua quảng cáo, những trò chơi về thị trường chứng khoán thì người dân có thể thu nhận lượng thông tin càng nhiều và từ đó khả năng hiểu biết của công chúng về thị trường chứng khoán càng cao thì khả năng thu hút vốn đầu tư từ trong dân chúng sẽ càng lớn.

Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế thì lượng vốn trong dân chúng là rất lớn, khoảng trên dưới 50 tỉ $ . Đây sẽ là một nguồn vốn quan trọng trong sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển thị trường chứng khoán nói riêng.

Thông qua đề tài này, tôi muốn giới thiệu đến với mọi người biết đến thị trường chứng khoán nhiều hơn, và xin chân thành cảm ơn cô Trần Mai Hương đã giúp em thực hiện đề tài này./.

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Tiến Chương

Khoa : Kinh Tế Đầu Tư



Lớp : Đầu tư 45C








Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học văn hóa hà NỘi khóa luận tốt nghiệP

tải về 258.5 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương