Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay



tải về 258.5 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích258.5 Kb.
#5770
1   2   3   4

5.3. Chứng khoán phái sinh

Khi nhắc đến thị trường vốn người ta thường chỉ chú ý đến cổ phiếu và trái phiếu. Nhưng trong thị trường vốn ngoài cổ phiếu và trái phiếu còn có thêm một công cụ nữa là chứng khoán phái sinh.

Vậy, chứng khoán phái sinh là gì? Và chứng khoán phái sinh bao gồm những loại nào?

Trong đề tài này, tôi chỉ xin giới thiệu một vài loại của chứng khoán phái sinh thông thường.

Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lọi nhuận.Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps).

thứ nhất : Hợp đồng tương lai

Hợp đồng tương lai (Futures) là việc thoả thuận giữa các bên về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá thị trường tại thời điểm đó.


Lúc đầu, đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những tháng sau đó. Ví dụ, công ty sản xuất sô- cô- la Hershay đã bao tiêu nguồn cung cấp ca- cao trên thị trường với các hợp đồng futures để giới hạn rủi ro nếu giá ca- cao tăng lên. Future thường được các nhà đầu tư xem là một phương thức tốt để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Đến thập niên 80, các hợp đồng futures bắt đầu nở rộ và phố biến trong các giao dịch thương mại và bao gồm nhiều loại khác nhau, như Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán (index futures), Hợp đồng tương lai lãi suất (interest futures), Hợp đồng tương lai ngoại hối (currency futures), Hợp đồng tương lai nông sản (agricultural futures), Hợp đồng tương lai kim loại và khoáng sản (metal and mineral futures)...

thứ hai : Hợp đồng kỳ hạn.

Hợp đồng kỳ hạn (Forward) là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào: từ nông sản, tiền tệ cho tới các chứng khoán. Điểm khác biệt của forward với future là giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau dựa theo những ước lượng mang tính cá nhân và giá này vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng



thứ ba : Option ( quyền của nhà đầu tư)

trong Option có hai loại là Option mua và Option bán.

OPTION mua: là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua option sẽ trả cho người bán option một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn (option premium) và người mua option sẽ có quyền được mua (nhưng không bắt buộc phải mua) một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ, hàng hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã xác định trong tương lai. Người bán option nhận được tiền từ người mua option nên họ có trách nhiệm phải bán một lượng chứng khoán nhất định theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai (hoặc được thực hiện trước ngày đó) khi người mua option muốn thực hiện cái quyền được mua.

OPTION bán : là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua OPTION bán sẽ phải trả cho người bán option bán một khoản tiền, gọi là phí quyền chọn và người mua option bán nay sẽ có qưyền được bán một lượng tài sản nhất định theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã được xác định trong tương lai.

Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay thì chưa xuất hiện hai quyền này, do nó còn quá mới mẻ và thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện. Nhưng trên tất cả các thị trường chứng khoán khác trên thế giới thì hai quyền này rất phổ biến vì khả năng phân tán rủi ro của nó rất cao.

Thứ tư : SWAPS ( hợp đồng hoán đổi )

SWAPS dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có swap để ấn định tỷ lệ lãi suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Ngoài ra, swap cũng rất hiệu quả trong việc huy động vốn. Đầu thập niên 90, Citi Bank, ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đã mở rộng một số hoạt động đầu tư sang Nhật bản nên cần một lượng tiền yên Nhật rất lớn trong một thời gian ngắn, trong khi vốn của Citibank lại không có đủ đồng yên. Các chuyên gia nghiệp vụ ngân hàng của Citibank lập tức nghĩ ngay đến Chifon Bank của Nhật bản. Citibank đã thoả thuận một swap với Chifon Bank, theo đó Citi Bank chuyển cho Chifon Bank một lượng USD nhất định, đổi lại Chifon Bank sẽ cung cấp đồng yên cho hoạt động đầu tư của Citibank tại Nhật bản. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng 24 tiếng, Citibank đã có đủ vốn cần thiết cho dự án đầu tư tại đây. Như vậy, swap là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.

Trên thực tế, việc đầu tư vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa được nhiều nhà đầu tư chú ý, bởi nếu các nhà đầu tư mạo hiểm mua thật nhiều cổ phiếu mà không băn khoăn về khả năng thua lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi đầu tư vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ nhưng do các bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường thường giới hạn một lượng cung cấp nhất định đồng thời yêu cầu mức phí khá cao, nên các nhà đầu tư chỉ thu về một phần lợi nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Thông thường, thị trường sẽ không biến động nhiều như những suy đoán của các nhà đầu tư khi áp dụng công cụ phái sinh, nên đa phần các nhà đầu tư thường tiếc nuối vì đã bỏ qua lợi nhuận, hơn là mừng thầm vì đã đầu tư vào công cụ phái sinh.

Trên đây là những công cụ phái sinh phổ biến trên các thị trường giao dịch chứng khoán trên thế giới. Đây là những công cụ giúp các nhà đầu tư tránh được những nguy cơ do rủi ro khi đầu tư vào thị trường đầy mạo hiểm này.



6. Căn cứ vào phương thức hoạt động

6.1 Thị trường niêm yết tập trung

thị trường niêm yết tập trung hay còn gọi là sở giao dịch được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán được mua bán là loại đã được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại diện người bán.Các môi giới sàn giao dịch cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực hiện giao dịch khi đạt được giá thoả đáng nhất cho khách hàng đầu tư .

Thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay do mới xuất hiện nên chúng ta chỉ có hai thị trường niêm yết tập trung tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán thì uỷ ban chứng khoán nhà nước cho biết trong năm 2006 tăng quy mô và chất lượng thị trường giao dịch chứng khoán. Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng đề án chuyển trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán; từng bước hoàn thiện hệ thống giao dịch của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội theo hướng mô hình thị trường giao dịch phi tập trung với quy mô phù hợp. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết, hoàn chỉnh các quy trình nghiệp vụ để đưa Trung tâm lưu ký đi vào hoạt động trên cơ sở nhiệm vụ lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán từ các thị trường giao dịch chứng khoán.

Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì thị trường niêm yết tập trung cũng đã có sự phát triển để đáp ứng với nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp trên thị trường niêm yết cũng như trên thị trường giao dịch phi tập trung

6.2 thị trường phi tập trung (OTC)

thị trường phi tập trung(OTC) được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định nào mà chỉ dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế cạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua một sự trợ giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động.

Ngày nay, với sự trợ giúp của kĩ thuật truyền thông và vi xử lý, thị trường OTC đã có khả năng kết nối trên quy mô rộng lớn giữa các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán với nhau.

Thị trường OTC vận động theo một cơ chế tạo giá và duy trì hoạt động gọi là mạng lưới liên công ty. Các nhà tạo giá trong tổ chức sẽ cạnh tranh giữa họ với nhau, liên tục đưa ra giá chào mua và giá chào bán.

Ở các nước phát triển thì thị trường giao dịch phi tập trung phát triển một cách mạnh mẽ hơn thị trường giao dịch niêm yết tập trung nhờ hệ thống làm giá linh động hơn.

Tại Việt Nam hiện nay thì thị trường OTC đang phát triển tại trung tâm giao dịch tại Hà Nội theo chiến lược phát triển thị trường chứng khoán của chính phủ trong những năm sắp tới. Và sẽ xây dựng một thị trường OTC hiện đại tại Hà Nội.

Đây cũng là một đòi hỏi từ yêu cầu của thực tiễn khi muốn phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam.Nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường để giúp cho Chính phủ và các doanh nghiệp huy động được các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư và phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh và luân chuyển vốn trong xã hội được tốt hơn, từng bước giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn tín dụng ngân hàng, bên cạnh việc tổ chức chức giao dịch chứng khoán (GDCK) cho các công ty niêm yết trên Trung tâm GDCK Tp. Hồ Chí Minh, trên cơ sở Quyết định 127/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập các TTGDCK và chấp thuận của Bộ Tài chính, tháng 7/2005 Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã chính thức đưa sàn GDCK thứ cấp của TTGDCK Hà Nội vào hoạt động.

Việc đưa vào vận hành hệ thống GDCK với cơ chế giao dịch linh hoạt, thông qua hệ thống báo giá (thực chất là khớp lệnh liên tục) và hệ thống giao dịch thoả thuận cho các chứng khoán đăng ký giao dịch tại Hà Nội đã góp phần tạo điều kiện để mở rộng phạm vi của thị trường chứng khoán (TTCK) có tổ chức, từng bước thu hẹp thị trường tự do để đưa vào quỹ đạo quản lý, nhằm giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư thông qua việc tổ chức đăng ký, lưu ký chứng khoán giao dịch tập trung và công bố thông tin công khai về hoạt động của doanh nghiệp, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư và tăng khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với công chúng thông qua phát hành và huy động vốn trên thị trường.

Thực tiễn hoạt động thị trường trong thời gian qua cho thấy, trong số gần 3.000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và hàng vạn doanh nghiệp cổ phần được thành lập mới theo Luật Doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp tham gia niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM chưa nhiều (38 doanh nghiệp). Do phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao về niêm yết và e ngại về kiểm toán, công khai thông tin đầy đủ, nên số doanh nghiệp tham gia thị trường rất hạn chế. Ngoài ra, công tác phát triển thị trường cũng đang gặp những khó khăn nhất định, quy mô thị trường nhỏ, chưa gắn kết được phát triển thị trường sơ cấp với thị trường thứ cấp, nhất là công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chưa thoát khỏi tình trạng cổ phần hoá khép kín, nội bộ, chưa gắn kết được việc bán cổ phần lần đầu ra bên ngoài khi thực hiện cổ phần hoá với doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán

Thực tế đó đã đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu tổ chức mô hình thị trường giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chưa niêm yết tiếp cận với thị trường vốn, trên tinh thần đẩy mạnh sắp xếp, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 187/2003/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước sang công ty cổ phần và Quyết định 163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2006-2010 của Bộ Tài chính.

Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã triển khai các bước cần thiết để sớm đưa trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động với sàn giao dịch sơ cấp (đấu giá bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá) vào tháng 3/2005 và sàn giao dịch thứ cấp (cơ chế đăng ký giao dịch) vào tháng 7/2005. Điều kiện và thủ tục đăng ký giao dịch chứng khoán tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội tương đối thuận lợi đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp đưa cổ phiếu vào giao dịch trên Trung tâm này, nhờ thế số lượng doanh nghiệp mới cổ phần hoá có thể dễ dàng tham gia thị trường, vì quy định không bắt buộc về tỷ lệ cổ phần chào bán ra công chúng, hoặc những cam kết của cổ đông sáng lập trong việc hạn chế giao dịch khi công ty tham gia thị trường chứng khoán. Ngoài ra, các quy định về nghĩa vụ công bố thông tin cũng nằm ở những nội dung cơ bản về công bố thông tin định kỳ hoặc công bố thông tin bất thường, giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện.

Tính đến nay, sau một năm triển khai hoạt động, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức giao dịch cho 12 công ty đăng ký giao dịch với tổng số 494 triệu cổ phiếu (tương đương với 4.940 tỷ đồng theo mệnh giá); tổng giá trị vốn hoá thị trường của 12 công ty là 14.876 tỷ đồng, tương đương với 1,95% GDP năm 2005; doanh số giao dịch đạt trên 1.900 tỷ đồng (trong đó có khoảng 1.200 tỷ đồng cổ phiếu); đã tổ chức đấu giá thành công cho 71 phiên đấu giá cổ phần (trong đó có 31 phiên đấu giá do Hà Nội chủ trì) với tổng giá trị cổ phiếu đấu giá đạt 3.230 tỷ đồng (tổng giá trị cổ phiếu do Hà Nội chủ trì đạt 2.040 tỷ đồng). Nhìn chung, tham gia đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội phần lớn là các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá thực hiện bán đấu giá cổ phần lần đầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và sau đó gắn kết với đăng ký giao dịch, đặc biệt là một số doanh nghiệp có quy mô vốn rất lớn, như Nhiệt điện Phả Lại (3.070 tỷ đồng); Thuỷ điện sông Hinh-Vĩnh Sơn (1.250 tỷ đồng); Tái bảo hiểm quốc gia (340 tỷ đồng); Điện lực Khánh Hoà (150 tỷ đồng)....

Sự ra đời của thị trường chứng khoán Hà Nội đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình  phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức của thị trường chứng khoán, góp phần vào quá trình  hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường tài chính Việt Nam. Đây là bước thử nghiệm cần thiết trước khi chúng ta hội đủ các điều kiện để thiết lập thị trường chứng khoán phi tập trung với sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường, hoạt động theo mô hình như thông lệ quốc tế.

7. Quỹ đầu tư. Thường gọi là “ Quỹ của các Quỹ” hay Hedge Fund.

Trong lĩnh vực chứng khoán, “Hedge” là thuật ngữ dùng để chỉ một chiến lược nhằm bù đắp những rủi ro đầu tư. Vì thế “Hedge Fund” (HF) còn được dịch là “Quỹ phòng hộ” hay “Quỹ của các Quỹ”, như giới đầu tư chứng khoán thường gọi.

HF là một phát minh lớn trên thị trường chứng khoán dùng để bù đắp lại rủi ro đầu tư. Tại Quỹ này, các nhà đầu tư ưa thích sự an toàn sẽ tham gia và sử dụng các công cụ chứng khoán phái sinh (như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp đồng hoán đổi...) để bảo vệ khoản tiền đầu tư của mình, chống lại những tăng trưởng không dự tính trước cũng như sự tụt giá hay lên giá đột ngột của hàng hoá. Ngày nay, các HF liên tục xuất hiện, được điều hành bởi một công ty đầu tư, huy động vốn của cổ đông rồi đầu tư vào các chứng khoán phái sinh nhằm thu lợi nhuận ổn định và đều đặn.

HF không bị quản lý chặt chẽ bởi pháp luật, nó ít minh bạch hơn các Quỹ đầu tư truyền thống và chính điều này giúp giao dịch tại HF dễ dàng hơn.

HF sử dụng hệ thống máy tính để lượng hoá các đánh giá và xếp hạng các khoản đầu tư khả thi, phân tích các yếu tố như: P/E, lợi suất, sự dao động bất ổn định, mức tăng trưởng lợi nhuận...Quỹ này cũng mua các cổ phiếu được xếp hạng cao nhất và bán trước thời hạn các cổ phiếu bị xếp hạng thấp nhất.

Ở Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều loại quỹ đầu tư khác nhau do các ngân hàng và các công ty tài chính quốc tế đưa vào. Tuy số lượng các quỹ đầu tư này còn ít song nó cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua.

Cụ thể :

Một số dạng Quỹ đầu tư hiện nay


Loại Quỹ

Hình thức hoạt động

Các Quỹ tiêu biểu tại VN

Venture Fund

Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp đang trong giai đoạn khởi nghiệp nhưng có triển vọng phát triển

IDG Việt Nam

Private Equity Fund

Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp đã có những bước phát triển ổn định và đang có dự định niêm yết trên TTCK

Mekong Capital, Dragon Capital, VOF, Indochina Capital

Listed Securties Fund

Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp phát triển mạnh và đã được niêm yết trên TTCK

PXP, Dragon Capital, VOF, Indochina Capital

Asset Management Company

Chuyên đầu tư trong lĩnh vực cổ phiếu, trái phiếu

Prudential, Manulife và khu vực ngân hàng

Có thể nói với sự tham gia đầu tư của các quỹ này thì thị trường chứng khoán của Việt Nam sẽ được phát triển một cách mạnh mẽ hơn, những yêu cầu và đòi hỏi về tính minh bạch và công khai tài chính đối với các doanh nghiệp sẽ khắt khe hơn. Từ đó sẽ làm lành mạnh hoá nền tài chính của Việt Nam

8. Hệ số tín nhiệm

Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hầu hết các nước phát triển và trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tại VN, khái niệm trên vẫn còn rất mới mẻ và loại hình kinh doanh này mới chỉ ở bước khởi đầu.

Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thông tin tín nhiệm (Credit Information) được đánh giá rất cao. Khách hàng của các công ty thông tin tín nhiệm thường là các nhà cung cấp, đầu tư, các nhà kinh doanh tiền tệ, chứng khoán và ngân hàng. Nhiều nước còn quy định bắt buộc ngân hàng hoặc các nhà xuất nhập khẩu phải có những bản báo cáo độc lập do một công ty kinh doanh thông tin tín nhiệm cung cấp trước khi cho vay hoặc bảo lãnh.

Ngày nay, vấn đề tìm hiểu và thẩm định khách hàng trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, khi mà ngày càng có nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh được mở ra và đi liền đó là nhu cầu cần phải thẩm định các cơ hội làm ăn này. Mặt khác, hội nhập kinh tế đòi hỏi phải có sự minh bạch hóa cao về thông tin doanh nghiệp, chẳng hạn như về tài chính, năng lực điều hành, công nghệ áp dụng... nhưng trong thực tế các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có xu hướng che giấu sự thật về bản thân mình, khuếch trương những điểm tốt, mặt mạnh, che giấu thông tin tài chính thực và những hạn chế của mình.

Theo báo cáo mới nhất gần đây của tổ chức xếp hạng tài chính Standard & Poor’s (S&P) thông báo quyết định nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam thêm một mức lên BB tức là từ B1 lên Ba3, cao hơn 1 bậc so với Phillipines và Indonesia, nhờ vào những biến chuyển tích cực của tiến trình đổi mới nền kinh tế.

Chuyên gia của S&P cho biết việc nâng mức tín nhiệm phản ánh tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa của nền kinh tế VN dựa trên những nỗ lực của Chính phủ nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Các biện pháp cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hệ thống ngân hàng trong nước cũng đã tạo cơ sở ổn định tài chính lớn hơn trong tương lai.

Theo Bộ Tài chính, việc S&P nâng hệ số tín nhiệm đối với Việt Nam là điều rất quan trọng khẳng định với các tổ chức tài chính quốc tế về năng lực của VN đang có chiều hướng phát triển và sẽ nâng lên một tầm rất cao trong tương lai. Đây cũng là cơ hội để
Việt Nam thu hút các nguồn lực về vốn trong và ngoài nước. Thực tế này đã phản ánh sự nâng cao lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam nói chung và sự quan tâm của các nhà đầu tư tài chính trên thế giới đối với trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam sắp phát hành nói riêng. Theo Moody’s, vị trí đối ngoại của VN hiện đã mạnh hơn với việc xuất khẩu gia tăng và đang đứng trước triển vọng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai gần. Moody’s đánh giá VN là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á với tỉ lệ tăng trưởng trung bình hơn 7% mỗi năm và có các triển vọng kinh tế sáng sủa nếu có thể duy trì sự thận trọng về tài chính và tính cạnh tranh ở bên ngoài, đồng thời tạo được đà cải cách các khu vực ngân hàng và công nghiệp lạc hậu của đất nước.

Theo Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh, việc S&P nâng hệ số tín nhiệm đối với Việt Nam là điều rất quan trọng, khẳng định với các tổ chức tài chính quốc tế về năng lực của Việt Nam đang có chiều hướng phát triển và sẽ nâng lên một tầm rất cao trong tương lai. Ông Ninh nhấn mạnh, đây là cơ hội để Việt Nam có thể thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là từ thị trường vốn quốc tế để phát triển nền kinh tế. Theo quan điểm của ông Ninh, Việt Nam nên tận dụng cơ hội này để tiếp tục phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ông Ninh cũng cho rằng, phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng các dự án trong nước trước khi mang trái phiếu phát hành tại thị trường quốc tế. Điều quan trọng là việc sử dụng vốn như thế nào chứ không đơn giản là việc mang vốn về.

Cũng trong một buổi họp bàn về việc phát triển ngành định mức của nước ta hiện nay thì ông Trần Minh Tuấn- phó thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam cho rằng : Việt Nam đang đi đúng hướng trên con đường phát triển thị trường vốn như chú trọng việc giữ vững ổn định về chính trị, kinh tế và ổn định tình hình tài chính quốc gia; phát triển cơ sở hạ tầng cho thị trường vốn; xây dựng một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường; và tạo dựng những cơ chế khuyến khích cho sự phát triển của thị trường vốn và các thành viên tham gia thị trường.

Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, trong khi hệ thống các công ty định mức tín nhiệm có thể được coi là một bộ phận cấu thành của hạ tầng cho thị trường vốn và ở bất cứ quốc gia nào sự tồn tại và phát triển các công ty định mức tín nhiệm đều là điều kiện cần cho sự phát triển của thị trường trái phiếu thì tại Việt Nam lại đang thiếu các công ty định mức tín nhiệm. Thực tế cho thây rằng Việt Nam là một quốc gia có thị trường vốn non trẻ, không những cả bề rộng mà theo cả bề sâu. Với một thị trường chỉ mới có 41 công ty niêm yết với tổng quy mô chiếm 4% GDP và một thị trường trái phiếu chủ yếu là trái phiếu chính phủ và gần 25000 doanh nghiệp trông cậy vào hệ thống các ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của mình. Do đó để phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ hơn nữa và để hội nhập kinh tế thế giới thì trước hết phải khơi thông thị trường vốn , thị trường tài chính của Việt Nam trong những năm tới. Nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì đòi hỏi này cần phải đáp ứng một cách kịp thời.



Phần hai : Giải pháp thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn của Việt Nam hiện nay.

I. Xét trên tầm vĩ mô.

1-Tạo lập và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững .

trong dài hạn thì khả năng tăng trưởng kinh tế là một yếu tố vô cùng quan trọng để xác định triển vọng huy động vốn đầu tư một cách có hiệu quả nhất. Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra một sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư, không những ở trong nước mà còn đối với cả nước ngoài. Nhất là đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tăng trưởng kinh tế , nhất là với tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao thì chứng tỏ khả năng sử dụng vốn càng tốt, điều này dẫn đến khả năng huy động vốn càng cao và ngược lại. Do đó việc xét đến yếu tố tăng trưởng kinh tế là yếu tố hàng đầu trong khả năng thu hút vốn đầu tư.

Với năng lực tăng trưởng kinh tế được đảm bảo thì khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế sẽ cao hơn. Khi đó thì khả năng gia tăng quy mô vốn của sẽ được cải thiện.

Thực tế của Việt Nam trong những năm qua , nhất là từ khi đổi mới kinh tế cho tới nay đã chứng minh điều đó.

Với thành tích tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm liền với bình quân từ 7% đến 8% đã làm cho khả năng huy động vốn và sử dụng vốn ngày càng được mở rộng hơn. Theo thống kê được thì tốc độ gia tăng vốn đầu tư phát triển rất mạnh. Trong giai đoạn 1991-1995 chúng ta đã huy động đạt mức 29.1%. tỉ trọng vốn đầu tư phát triển so với GDP có xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 1991 chiếm 17.6% thì đến năm 1997 là 30.9% GDP với sự chuyển biến của cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.

Do đó để thu hút vốn đầu tư trong những năm tiếp theo thì chúng ta cần phải :



Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học văn hóa hà NỘi khóa luận tốt nghiệP

tải về 258.5 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương