Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay



tải về 258.5 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích258.5 Kb.
#5770
1   2   3   4

3.Thị trường vốn quốc tế.

Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế ngoài mục tiêu huy động vốn còn nhằm tạo ra một hình ảnh của Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế. Trong bối cảnh chúng ta đã tiến hành hội nhập về hoạt động thương mại, đầu tư thì hội nhập tài chính không thể đứng ngoài cuộc. TPCP do Việt Nam phát hành trên thị trường quốc tế sẽ là thước đo cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào Việt Nam.

Thứ trưởng Tài chính Lê Thị Băng Tâm cho biết: “Việc phát hành trái phiếu lần này có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là một trong những mục tiêu của Việt Nam tham gia hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế, đồng thời việc phát hành trái phiếu quốc tế còn là một phương thức vay thương mại trong chiến lược huy động vốn của Việt Nam, đảm bảo quyền tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được không bị lệ thuộc vào điều kiện của các nhà thầu như vay tín dụng xuất khẩu. Đồng thời việc phát hành trái phiếu lần này đã mở đường cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trực tiếp huy động nguồn vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế”.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trên thế giới thì số lượng các nhà đầu tư quốc tế tham gia mua trái phiếu đạt mức kỷ lục trên thị trường vốn trong nhiều năm lại đây (lên tới 255 nhà đầu tư lớn). Các nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu của Chính phủ Việt Nam đều là những nhà đầu tư lớn, có uy tín trên thị trường tài chính quốc tế. Điều đặc biệt là số trái phiếu này được phát hành rộng khắp trên thế giới đó là Châu Á nắm 38%, Châu Âu nắm 32% và Mỹ là 30%.

Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được nhận định là do nhiều nguyên nhân từ chính Việt Nam. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Với chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống; tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng triệu người Việt Nam có dịp sử dụng một cách hiệu quả tiềm năng của mình.

Về cơ bản, kinh tế của Việt Nam đã được công nhận là đổi mới: Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu quả.

Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này thời gian qua không ổn định lắm. Số tiền thu được sẽ được bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình từ 7 - 8% của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại đây.
Việt Nam đã rút ra nhiều bài học từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong suốt 20 năm qua và đang có những chiến lược kinh tế tài chính được đánh giá cao. Chính phủ đã có kế hoạch 5 năm sắp tới (2006-2010) là thời gian quyết định để thực hiện chiến lược đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng nước đang phát triển ở trình độ thấp và tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Các nhà đầu tư hy vọng chiến lược đó sẽ giúp họ hưởng lợi lớn trong tương lai khi bỏ tiền vào Việt Nam để cùng Việt Nam bước vào công cuộc cải cách mới.



4. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn

4.1 Thị trường sơ cấp.

Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng (POs - Public Oferrings hoặc lPOs - Initial Public Oferring). Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nên kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch

Trong khi đó tại Việt Nam thì tại thị trường sơ cấp chỉ mới huy động một lượng vốn còn rất nhỏ so với quy mô đầu tư. Năm 2000 và 2001, số huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so sánh với dư nợ cho vay trung và dài hạn đa là con số không đáng kể, so với tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống ngân hàng thì con số là không có ý nghĩa gì. Hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt trong hai năm đầu đi vào hoạt động có duy nhất Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động vốn cho dự án giấy kraf.

Ngoài ra , khi nói đến thị trường sơ cấp không thể không nói đến vai trò của các ngân hàng thương mại.

các ngân hàng thương mại đảm nhiệm vai trò trong việc bảo lãnh phát hành chứng khoán cho đơn vị phát hành. Tuy nhiên tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các ngân hàng thương mại có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành.

Để phát triển thị trường sơ cấp nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung thì chính phủ đang có đề án phát triển thị trường sơ cấp thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ. Đến ngày 30/6/2003 nếu tính cả vốn huy động ngân sách Nhà nước thông qua dấu thầu và bảo lãnh phát hành, đã có 5.400 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển niêm yết trên thị trường. Có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cố phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng.

Như vậy, ở thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, nó chỉ mới đáp ứng một phần rất nhỏ trong tổng quy mô vốn đầu tư của cả nước.

4.2 Thị trường thứ cấp

Nếu thị trường sơ cấp là nơi kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế thì thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua bán lại chứng khoán đó từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch.

Ở thị trường thứ cấp của Việt Nam thì Thị trường thứ cấp lại hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty đồ hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên Hòa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn không công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2002.

Tuy nhiên nếu tính đến việc vay vốn nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ thì trên thị trường thứ cấp chúng ta lại thu được những kết quả rất tích cực , hơn cả sự mong đợi của các nhà đầu tư và của chính phủ.

Khi chúng ta phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế Hồng Kông đã có rất nhiều nhà đầu tư muốn mua trái phiếu của Chính phủ Việt Nam. Bằng chứng là số lượng nhà đầu tư đặt mua trái phiếu lên tới trên 255 nhà đầu tư lớn (so với 150 nhà đầu tư mua trái phiếu của Chính phủ Indonesia đầu tháng 10/2005). Tính trung bình, mỗi nhà đầu tư chỉ mua được khoảng 20% lượng đặt mua, thậm chí có nhà đầu tư không mua được trái phiếu. Việc nhiều nhà đầu tư lớn tham gia mua trái phiếu Việt Nam sẽ là điều kiện tốt để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu khi giao dịch trên thị trường thứ cấp, tạo thuận lợi cho những lần phát hành tiếp theo.

Theo Thứ trưởng Băng Tâm cho biết, 30 giây sau khi được định giá phát hành ở thị trường sơ cấp, trái phiếu Chính phủ Việt Nam đã được giao dịch trên thị trường thứ cấp và giá trái phiếu đã tăng khoảng 5 điểm, sau 15 phút tăng lên 10 điểm và đến ngày 1/11 vẫn giữ ở mức tăng 10 điểm so với lúc định giá phát hành....

Qua đó chúng ta có thể thấy được tính thanh khoản cũng như việc mua bán các công cụ trên thị trường thứ cấp. Tại thị trường thứ cấp thì việc buôn bán các công cụ tài chính hết sức linh hoạt và biến động một cách liên tục. Đây cũng là thị trường được công chúng đầu tư quan tâm nhất và được theo dõi liên tục nhất.

5. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường.

5.1 Thị trường cổ phiếu.

Người ta có thể có hàng trăm cách để đầu tư, muốn chọn được cách tốt nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ bản về các công cụ tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là công cụ tài chính thường được sử dụng nhất , thường được buôn bán nhiều nhất do tính đại chúng và lượng thông tin nhiều, được phổ biến rộng rãi.

Đối với các doanh nghiệp ,các công ty thì việc phát hành cổ phiếu có lợi hơn là việc phát hành các chứng chỉ nợ. Vì công ty nắm giữ tiền mà không phải trả lãi theo thời hạn định, đối với việc mua cổ phiếu các cổ đông được nắm giữ cổ phiếu trong công ty, có nghĩa là các cổ đông mới sẽ được chia quyền sở hữu đối với các cổ đông đầu tiên.

Cổ phiếu là một chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần, hay cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ thể vào một công ty cổ phần. Các cổ đông không phải là chủ nợ của công ty mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động , là người chủ sở hữu một phần của công ty. Cổ phiếu có thể có nhiều loại tuỳ thuộc vào đơn vị phát hành như : cổ phiếu ưu đãi , cổ phiếu biểu quyết , cổ phiếu phổ thông …



Thứ nhất : Thị trường chứng khoán của Việt Nam mặc dù còn non trẻ nhưng cũng đã góp phần rất lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Và được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao và được coi là thị trường đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì chính phủ Việt Nam cũng đã và đang rất quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam.

Chính phủ đã có các nghị quyết và chủ trương liên quan đến chiến lược phát triển của toàn ngành chứng khoán, đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đi đôi với phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được chuyển giao về Bộ Tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.


Những yếu tố trên đã khiến thị trường cổ phiếu sau một thời gian dài rơi vào tình trạng trầm lắng đã có sự hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ số VNIndex từ mức 166,94 điểm vào cuối năm 2003 đã tăng lên đến gần 280 điểm (tăng 67,7%) vào đầu tháng 4-2004 và hiện nay khá ổn định ở mức 230 điểm.
Với việc giá cổ phiếu tăng mạnh, giới đầu tư đã quan tâm hơn đến thị trường chứng khoán khiến tình hình giao dịch cổ phiếu trên thị trường diễn ra sôi động hơn. Trong năm, Quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đã được thành lập và được niêm yết chứng chỉ VF1 trên thị trường chứng khoán tập trung.
Thứ hai : Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank, ACB, Eximbank…
Bên cạnh đó, với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng thật sự “bùng nổ” và thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư.
Đặc biệt, năm 2004 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường trái phiếu Việt Nam. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ đã diễn ra đều đặn và mức độ thành công cũng khá hơn so với năm trước.
Trên thị trường giao dịch, nghiệp vụ mua bán trái phiếu có kỳ hạn đã giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu và thực sự đem lại lợi ích cho các đối tượng tham gia mua bán trái phiếu. Các đơn vị chiếm thị phần lớn trên thị trường trái phiếu cũng thu được lợi nhuận đáng kể từ nghiệp vụ này, nổi bật là Công ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt Nam, tình hình hoạt động kinh doanh của phần lớn công ty niêm yết đều đạt những kết quả khả quan. Các công ty lớn trên thị trường như REE, Gemadept, Sacom … đều hoàn thành kế hoạch lợi nhuận trong năm.
Một số công ty như Khahomex, Hacisco… cũng đã thành công trong việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới. Bên cạnh đó, nhờ thị trường khởi sắc hơn và tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ hơn nên hoạt động của các công ty chứng khoán cũng đa dạng hơn và phần lớn đều đạt hiệu quả cao hơn mọi năm.
Năm nay cũng chứng kiến sự tham gia mạnh mẽ hơn của các quỹ đầu tư chứng khoán như VEIL, PXP Fund, VF1 và các tổ chức đầu tư khác vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhờ sự tham gia của các tổ chức này mà thị trường chứng khoán đã có sự ổn định cần thiết trong một số giai đoạn.

Thứ ba : Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần . Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn gốc để tăng trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên ngoài .Do đó để phát triển thị trường chứng khoán nói chung thì cần phải tăng cường nội lực, củng cố năng lực tài chính một cách vững mạnh. Hiện tại , theo ước tính cả nước ta có khoảng 34 ngân hàng thương mại cổ phần đang hoạt động. Hầu hết là những ngân hàng có tiềm lực tài chính vừa và nhỏ so với quy mô của thế giới, cho nên hầu hết các ngân hàng này đang thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng để tăng vốn điều lệ, nhất là trong hai năm gần đây. Nhờ có hệ số an toàn về vốn ngày càng tăng cao nên khả năng đáp ứng những khoản vay lớn cũng như các dịch vụ hiện đại cho đông đảo khách hàng. Một số đơn vị đã thành công với chiến lược tăng vốn của mình và trở thành những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, như: Sacombank hiện có 505 tỷ đồng; ACB với 423,9 tỷ đồng. Kế đến là NHCP Xuất Nhập khẩu với 300 tỷ đồng, ngân hàng quân đội 280 tỉ , ngân hàng VIB 180 tỉ .Các ngân hàng đã thực hiện tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt động; chuẩn bị cho thời kỳ hội nhập  với các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện cam kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ; theo đó, ngân hàng sẽ phải đối đầu với những cạnh tranh gay gắt.


Tổng kết báo cáo hàng năm của các ngân hàng thương mại cổ phần cho thấy, các ngân hàng có bình quân lợi nhuận đạt từ 15-30%, tỷ lệ chia cổ tức đạt 15%. Nợ quá hạn của các ngân hàng đã giảm hơn 7% trong năm vừa qua và chỉ chiếm 6,35% trong toàn hệ thống. Theo các chuyên gia về kinh doanh tiền tệ, mặc dù số vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần còn hạn chế nếu so với các ngân hàng liên doanh hay chi nhánh các ngân hàng nước ngoài, nhưng nhờ kinh doanh có hiệu quả trong mấy năm gần đây nên đầu tư vào các ngân hàng thương mại cổ phần đang có sự hấp dẫn hơn nhiều lĩnh vực khác; cổ phiếu các ngân hàng đang được các nhà đầu tư tìm mua. Điều đó cho thấy có một triển vọng lớn khi cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán.

 

Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại cổ phần khi tăng vốn điều lệ đã bán được cổ phiếu của mình cao hơn mệnh giá nhiều lần. Khi ACB có được góp vốn của các cổ đông nước ngoài, lập tức giá cổ phiếu của cổ đông trong nước tăng 1,5 lần so với mệnh giá và cổ phiếu dành cho người nước ngoài đã tăng 2,1 lần. Cổ phiếu Sacombank đã bán được gấp 1,8 lần so với mệnh giá. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư đã đặt niềm tin lớn vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần.



Tuy nhiên , khi vốn tăng thì lại đặt ra một vấn đề là vấn đề sử dụng vốn như thế nào. Theo bà Bùi Thị Mai, Tổng giám đốc Habubank, việc điều hành một ngân hàng có số vốn điều lệ cả ngàn tỷ đồng hoàn toàn không giống việc điều hành một ngân hàng chỉ vài trăm tỷ vốn điều lệ. Vốn tăng vài trăm phần trăm, song khối lượng công việc tăng có khi đến vài ngàn phần trăm, khả năng bao quát, tầm nhìn, hệ thống thông tin - phản hồi... đều phải tăng và đòi hỏi tốt hơn trước là những áp lực đầu tiên.

Khi cổ đông góp vốn, đồng tiền của họ phải được sử dụng hiệu quả nhất. Cũng theo bà Mai, huy động vốn thì rất nhanh nhưng ngân hàng này đã phải chuẩn bị kế hoạch sử dụng lượng vốn huy động này trong nhiều tháng trời, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả và đem lại nhiều lợi nhuận cho các cổ đông nhất. Vấn đề là làm sao khi mở rộng quy mô phải đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực để không ảnh hưởng tới khả năng phục vụ khách hàng, đồng thời bài toán duy trì tỷ lệ cổ tức cao cũng là yêu cầu không hề dễ đối với ban điều hành

Thứ tư : Quá trình nhảy vào của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường vốn ở Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mức sở hữu tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng cổ phần trong nước là 30%, dự thảo Nghị định về tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng trong nước do NHNN soạn thảo đã được trình Chính phủ. Cho dù như vậy, các ngân hàng nước ngoài dường như vẫn sẵn sàng cho một đợt tăng số tiền góp vốn trong các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các cổ đông chiến lược nước ngoài tới đây sẽ được sở hữu tới 20% cổ phần tại một ngân hàng Việt Nam.

Mới đây, một số hãng thông tấn nước ngoài đã đưa tin về việc HSBC và ANZ đã sẵn sàng tăng thêm vốn tại Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank). Cả hai ngân hàng nước ngoài này đều là các cổ đông chiến lược tại các ngân hàng mà họ đầu tư. Trong năm 2005, HSBC (ngân hàng lớn nhất châu Âu) và ANZ (ngân hàng cung cấp tín dụng lớn thứ 3 tại Australia) đã bỏ ra tương ứng 17,3 triệu USD và 27 triệu USD để mua 10% cổ phần tại Techcombank và Sacombank.

Theo tin đưa ra thì Đại hội cổ đông Techcombank đã thông qua Nghị quyết có điểm cho phép bán thêm 10% cổ phần cho HSBC khi Nhà nước cho phép mở room lên 20% đối với cổ đông chiến lược nước ngoài. Trả lời Báo Đầu tư Chứng khoán, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc Techcombank đã xác nhận thông tin này. Theo ông Vinh, việc bán thêm 10% cổ phần cho HSBC đồng nghĩa với việc HSBC trở thành cổ đông lớn nhất tại Techcombank. Điều này cũng nằm trong kế hoạch tăng vốn lên mức khoảng từ 1.500 đến hơn 1.600 tỷ đồng của Techcombank trong năm tới. Việc tăng vốn của Techcombank thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu mới, gồm hai phần dành cho cổ đông cũ và cổ đông chiến lược là HSBC.


Đối với Techcombank, việc tăng vốn của cổ đông chiến lược tương đối dễ dàng, bởi room dành cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn và HSBC mới là nhà đầu tư nước ngoài duy nhất của ngân hàng này. Nhưng đối với trường hợp của Sacombank sẽ khác, bởi hiện tại ngân hàng này đã sử dụng hết room 30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3 nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng này.
Mặc dù vậy, không có nghĩa ANZ không thể tăng thêm phần vốn góp bởi khi Sacombank phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, ANZ có thể mua thêm và thay đổi tỷ lệ nắm giữ nếu các nhà đầu tư nước ngoài khác là IFC và Dragon Capital không mua thêm. Điều này không làm ảnh hưởng tới trần tối đa 30% như đã nói trên.
Hiện trong 4 ngân hàng cổ phần có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là Techcombank, Sacombank, Ngân hàng Á Châu (ACB) và Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank) thì ACB và Sacombank đã sử dụng hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, Techcombank là 10% và VPBank là 20%.

Qua đó chúng ta có thể thấy được khả năng huy động vốn từ đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể ở đây là thông qua việc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông. Tuy nhiên ở đây chúng ta phải lưu ý là việc huy động từ đầu tư nước ngoài phải hết sức phòng tránh việc thôn tính của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước. Từ đó có thể làm đảo lộn thị trường tài chính của Việt Nam , tránh một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng của Việt Nam hầu hết còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả từ các nguồn vốn có thể huy động được. Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của nguồn vốn.



5.2. Thị trường trái phiếu

Thị trường trái phiếu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chỉ là mới giai đoạn đầu với sự tồn tại sơ khai của trái phiếu chính phủ. Dư nợ của trái phiếu còn rất thấp, chỉ mới chiếm khoảng 7% GDP so với các thị trường khác trong khu vực như : Trung Quốc 21% , Thái Lan 33% và Malaxia 62% . Thị trường trái phiếu của Việt Nam chưa có sự đa dạng trong chủ thể phát hành, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, khả năng thanh toán còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, một thị trường để giúp hai đối tượng rất quan trọng là doanh nghiệp và chính quyền địa phương huy động vốn lại hầu như chưa tồn tại. Do đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010, nhu cầu vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế là rất lớn, khoảng 30 - 35% GDP/năm. Do đó, hiện nay Việt Nam đang triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu nội địa, đặc biệt là tạo kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp và các chính quyền địa phương trong bối cảnh Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế theo hướng xoá bỏ bao cấp của nhà nước cho khu vực doanh nghiệp và phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương.


Một cách cụ thể , theo quan điểm của chính phủ trong việc phát triển thị trường trái phiếu của Việt Nam hiện nay là phải nâng cao tỉ trọng trái phiếu trên GDP , gắn việc phát hành trái phiếu với phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán; tăng cường khả năng quản lý, giám sát để thị trường hoạt động an toàn, có hiệu quả; đáp ứng yêu cầu hội nhập của khu vực và quốc tế: thị trường trái phiếu châu Á, liên kết thị trường vốn với Singapore..

Tuy còn non trẻ về tuổi đời, ít đa dạng trong chủ thể phát hành nhưng trong năm 2005 được coi là năm thành công của thị trường trái phiếu của Việt Nam và cũng là năm đánh dấu sự nở rộ của các loại trái phiếu trong nước được đăng kí giao dịch trên thị trường chứng khoán .

Trong năm qua , tuy còn ít loại trái phiếu nhưng cũng đã có nhiều loại trái phiếu được phát hành ra công chúng như trái phiếu chính phủ , trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp, công trái giáo dục.

Thông qua hoạt động đấu thầu qua Ngân hàng nhà nước , qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành , Chính phủ đã huy động khoảng hơn 30.000 tỉ đồng trái phiếu. Riêng trái phiếu Chính phủ , tổng số vốn huy động trong giai đoạn 2001-2005 đã đạt gần 60.000 tỉ đồng.

Phát hành trái phiếu chính quyền địa phương cũng có nhiều khởi sắc. Đến nay, đã có 3 tỉnh, thành phố phát hành trái phiếu chính quyền địa phương với tổng số tiền huy động trên 7.000 tỷ đồng, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động 2.000 tỷ đồng trái phiếu, nâng tổng số huy động trong 3 năm (2003-2005) lên gần 6.000 tỷ đồng, Hà Nội huy động trên 1.100 tỷ đồng trái phiếu Thủ đô và Đồng Nai huy động khoảng 243 tỷ đồng

Năm 2005 cũng là năm các doanh nghiệp bắt đầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp, góp phần giảm bớt áp lực vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Tính đến hết tháng 11/2005, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành đạt trên 2.000 tỷ đồng

Một điểm nổi bật khác của thị trường vốn năm 2005 là nhiều doanh nghiệp hoạt động tại thị trường tài chính đã được đưa vào diện cổ phần hóa. Tiến độ chuẩn bị cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được đẩy nhanh với việc phát hành 1.365 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn vào cuối tháng 12 vừa qua. Chính phủ cũng đã cho phép Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam cổ phần hóa theo hướng chuyển thành một tập đoàn tài chính mạnh

Trong năm 2006 thì chính phủ đang có dự án thành lập một thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt tại thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội . Có thể nói, việc tập trung đấu thầu TPCP tại Hà Nội, đã đem lại hiệu quả bước đầu rất đáng khích lệ. Không những tỷ lệ thành công của các đợt đấu thầu cao, huy động được khối lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển mà lãi suất trúng thầu thì ngày càng được điều chỉnh thấp xuống... Đây chính là tiền đề cho việc tổ chức một thị trường giao dịch trái phiếu thứ cấp chuyên biệt và hiệu quả.

Có thể nói , trong hai năm vừa qua chúng ta đã đạt được rất nhiều thành quả trong việc huy động vốn trên thị trường trái phiếu , nhất là việc đáp ứng nhu cầu khát vốn của các doanh nghiệp , các tổ chức tài chính. Tuy có nhiều thành công trong việc huy động vốn nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Đó là làm sao có thể phát triển thị trường trái phiếu một cách tốt hơn , làm sao có thể đa dạng hoá được các loại trái phiếu và khả năng toán cũng như việc có thể đưa ra nhiều dịch vụ, nhiều tiện ích hơn nữa. Vấn đề này đòi hỏi nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải có những chính sách phù hợp với thực tế hơn nữa.


Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học văn hóa hà NỘi khóa luận tốt nghiệP

tải về 258.5 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương