PHẦn mở ĐẦu lí do chọn đề tài


Sự khác biệt trong phong cách thể hiện lịch sử ở kịch Vũ Như Tô và Rừng trúc



tải về 0.5 Mb.
trang7/7
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích0.5 Mb.
#20239
1   2   3   4   5   6   7

3.3. Sự khác biệt trong phong cách thể hiện lịch sử ở kịch Vũ Như TôRừng trúc

Cùng là các tác phẩm kịch viết về đề tài lịch sử, dễ thấy vở Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi có nhiều điểm tương đồng. Điều này là do hai vở kịch đều phải đảm bảo những quy định đặc trưng của thể loại như chúng tôi đã trình bày ở phần trên và các tác giả đều phải xử lý sao cho hài hoà giữa tính “chân thực lịch sử” và “hư cấu nghệ thuật” trong tác phẩm. Tuy nhiên, ở chương 2, khi so sánh hai vở kịch này từ góc nhìn thi pháp thể loại, người viết cũng tìm thấy sự khác biệt. Chúng tôi cho rằng sự khác biệt về thi pháp thể loại ở kịch Vũ Như Tô Rừng trúc sẽ tạo nên sự khác biệt trong phong cách thể hiện lịch sử ở hai vở kịch. Làm rõ sự khác biệt trong phong cách thể hiện lịch sử ở Vũ Như TôRừng trúc sẽ đem tới cho chúng ta một cái nhìn rõ hơn về phong cách riêng của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi.

Cùng chọn thể loại kịch để viết về đề tài lịch sử nhưng mỗi tác giả lại thể hiện lịch sử ở những góc nhìn riêng. Điểm khác nhau dễ nhận thấy trong kịch Vũ Như TôRừng trúc đó là sự khác nhau trong việc lựa chọn thời điểm xảy ra xung đột, lựa chọn chiều hướng diễn ra xung đột và thái độ ứng xử của các tác giả đối với chất liệu lịch sử.

Xuất phát từ phong cách kịch riêng của mỗi tác giả nên sự lựa chọn thời điểm lịch sử xảy ra xung đột ở kịch Vũ Như TôRừng trúc cũng khác nhau. Kịch của Nguyễn Huy Tưởng mang phong cách cổ điển. Chính vì vậy, ông thường chọn ở lịch sử những thời điểm đang xảy ra các mối xung đột gay gắt nhất, nóng hổi nhất để đưa vào tác phẩm của mình. Kịch Vũ Như Tô viết về thời điểm đang xảy ra xung đột gay gắt giữa cường quyền và dân chúng, giữa khát vọng sáng tạo nghệ thuật của Vũ Như Tô với đời sống đói khổ của nhân dân rồi dẫn đến cuộc đấu tranh của dân chúng đòi giết Lê Tương Dực và Vũ Như Tô - người phục vụ cho cường quyền gây ra bao đau khổ cho dân chúng. Lựa chọn thời điểm lịch sử những năm 1526 - 1527 khi mà đất nước ta đang tồn tại những mâu thuẫn gay gắt giữa đời sống xa hoa, trụy lạc của triều đình Lê Tương Dực với đời sống bần cùng vì sưu thuế, tạp dịch của nhân dân đồng thời cũng hư cấu thêm mâu thuẫn mới giữa khát vọng sáng tạo nghệ thuật của Vũ Như Tô với lợi ích thiết thực của nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng đã tạo được kịch tính cho tác phẩm bằng sự va chạm quyết liệt của những xung đột mang tính đối kháng mạnh mẽ. Chiều hướng diễn ra xung đột đậm chất bi kịch. Hai mâu thuẫn trên phát triển đến cao trào và không thể giải quyết được, dẫn đến kết thúc bi thảm đối với số phận nhân vật chính. Lịch sử xa xưa của dân tộc được Nguyễn Huy Tưởng thể hiện đầy cuốn hút với những xung đột đối kháng gay gắt, các sự kiện biến chuyển nhanh chóng, hành động được thực hiện một cách gấp rút, dồn dập, nhân vật chính Vũ Như Tô buộc phải đấu tranh quyết liệt với những lực lượng cản trở để thực hiện được lí tưởng sáng tạo nghệ thuật của mình. Cái nhìn của Nguyễn Huy Tưởng về lịch sử trong kịch Vũ Như Tô là lịch sử đấu tranh giữa các lực lượng xã hội một cách gay gắt trong nội bộ dân tộc mà ở đó quần chúng nhân dân có một vai trò và sức mạnh to lớn có thể làm thay đổi lịch sử.



Nếu như kịch Nguyễn Huy Tưởng mẫu mực, cổ điển với các xung đột đối kháng gay gắt thì kịch của Nguyễn Đình Thi lại mang phong cách tâm lý - trữ tình, giàu chất thơ. Mối quan tâm đầu tiên của ông khi viết về lịch sử là đời sống nội tâm của những nhân vật lịch sử và lẽ sống tinh thần của dân tộc Việt. Lịch sử xa xưa mà Nguyễn Đình Thi tái hiện là bối cảnh mà những biến động của thời cuộc đã có tác động to lớn đến số phận mỗi cá nhân. Chính vì vậy, trong vở Rừng trúc, ông đã lựa chọn thời điểm lịch sử sau khi biến cố Trần Thủ Độ mưu đoạt ngôi vua cho nhà Trần từ tay nhà Lý đã diễn ra được 11 năm, lúc này các nhân vật chính như Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh đã trải qua một quãng thời gian dài để suy ngẫm nên thấm thía hơn nỗi đau đớn mà quyền lực gây ra cho họ. Nguyễn Đình Thi không chọn thời điểm đang xảy ra cuộc tranh giành quyền lực giữa hai nhà Lý - Trần để xây dựng những xung đột đối kháng mạnh mẽ mà chủ đích khai thác những suy nghĩ, tư tưởng và nội tâm của các nhân vật lịch sử sau những biến cố dữ dội của thời cuộc để khám phá những góc khuất tâm hồn của những cá nhân như Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng mà sử liệu không nói được đầy đủ. Xung đột trong kịch Rừng trúc không đối kháng mạnh mẽ như trong kịch Vũ Như Tô mà chỉ là những xung đột ngầm âm ỉ trong nội tâm nhân vật. Vì thế, nhân vật trong Rừng trúc chủ yếu hiện lên với những độc thoại dài đậm chất trữ tình và ít hành động hơn so với nhân vật trong Vũ Như Tô.

Cái lõi lịch sử được Nguyễn Huy Tưởng khai thác là câu chuyện về số phận người thợ Vũ Như Tô khi xây Cửu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực. Nguyễn Huy Tưởng trung thành với lịch sử. Tác giả dựa vào các sử liệu để tái hiện trong tác phẩm những sự kiện quan trọng của thời đại. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này qua những dòng ghi chép trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (tập II): “Người thợ Vũ Như Tô làm điện to hơn trăm nóc, hết kiệm tiền của và sức dân trong nước. Lại làm đài chín đợt, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền Thiên Quang để đi chơi. Hồ ấy quanh co khuất khúc, mở cửa cống có thể cho thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, rất là xa xỉ. Dân gian đau khổ, quân lính nhọc mệt. Quân năm phủ đắp thành chưa thể thành công được, đến đây có sắc gọi các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấp hồ khiêng đất. Vua mỗi ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng bài vàng bạc. Có chỗ đã làm xong lại đổi lại, mấy năm không cùng. Quân lính đắp thành bị bệnh dịch đến một phần mười” [13,488] và “Bấy giờ An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, nghe tin Trịnh Duy Sản giết vua, mới nổi giận đem quân sang sông, đốt phố xá kinh thành, cùng con em gia thuộc muốn làm việc báo phục, mới chém chết Vũ Như Tô ở ngoài cửa kinh thành. Trước đây Vũ Như Tô vốn xuất thân là thợ, lấy kĩ xảo mà mê hoặc vua, được lạm bổ Đô đốc kiêm các sở bộ Công, bấy giờ đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị giết, Như Tô cũng bỏ xác ở chợ, quan dân ai cũng chê cười, hoặc có người nhổ vào xác” [13,491]. Tuy tôn trọng sự thật lịch sử nhưng Nguyễn Huy Tưởng vẫn phát huy được vai trò sáng tạo của người nghệ sĩ. Ông đã xây dựng lại nhân vật Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có tài, khát khao sáng tạo cái đẹp. Nếu trong lịch sử, Vũ Như Tô là một đốc công đáng ghét, đáng nguyền rủa thì trong vở kịch này, Vũ Như Tô trở thành một nhân vật bi kịch chứa đầy mâu thuẫn, vừa đáng giận, vừa đáng trọng, lại vừa đáng thương. Hư cấu như vậy là dụng ý của tác giả nhằm gửi gắm tư tưởng của mình. Trên quan điểm nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng lên án cường quyền tàn ác, đồng tình với việc dân chúng nổi dậy trừng trị hôn quân và Vũ Như Tô. Ông đề cao quyền lợi của nhân dân nên mặc dù trân trọng tài năng của Như Tô, tác giả vẫn chọn cách kết thúc tôn trọng lịch sử là cho dân chúng nổi dậy phá Cửu Trùng Đài và giết người sáng tạo ra nó. Tuy vậy, Nguyễn Huy Tưởng còn thể hiện năng lực sáng tạo khi hư cấu nhân vật Đan Thiềm vốn không có thật trở thành một nhân vật có tính cách sống động. Cung nữ Đan Thiềm trân trọng người tài như Vũ Như Tô, cảm thông với bi kịch của người nghệ sĩ. Chính nàng đã nói hộ ông cái khát vọng chính đáng của người nghệ sĩ là được sáng tạo cái đẹp để thể hiện tài năng và tô điểm cho đất nước. Hư cấu nên nhân vật Đan Thiềm có tấm lòng “đồng bệnh” và nâng đỡ khát vọng sáng tạo của Vũ Như Tô là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng nhằm mục đích biểu đạt sự cảm thông của tác giả với khát vọng của người nghệ sĩ. Như vậy khi xử lý chất liệu lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng vừa dựa vào sự kiện lịch sử đã qua, vừa kết hợp với tài năng hư cấu để phát hiện ra từ những sự kiện đã cũ những bài học mới có ý nghĩa thời đại về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, về sự lựa chọn đường đi của người nghệ sĩ trước thời cuộc.

Nếu Nguyễn Huy Tưởng hư cấu việc Vũ Như Tô băn khoăn lựa chọn đi theo tiếng nói của nghệ thuật hay tiếng nói của lương tri dễ đem đến cho người đọc một cái nhìn khác về bản chất của nhân vật này so với lịch sử thì Nguyễn Đình Thi lại quyết định phản ánh chính xác bản chất của các nhân vật lịch sử. Tài năng sáng tạo của ông chủ yếu thể hiện qua việc hướng ngòi bút vào hư cấu nội tâm nhân vật - điều mà các sử liệu thường không ghi chép lại được. Nguyễn Đình Thi không khai thác những xung đột mạnh mẽ chỉ có thể giải quyết bằng đấu tranh hay bạo lực mà tập trung hư cấu những xung đột nội tâm của cá nhân trước vận mệnh dân tộc. Nổi bật trong tác phẩm là sự giằng xé trong con người Lý Chiêu Hoàng giữa khát vọng giành lại ngôi vua đã mất với mong muốn từ bỏ quyền lực để làm một người bình thường và sự khó xử của Trần Cảnh trước triều đình, thế sự khắc nghiệt. Tuy nhiên, chiều hướng diễn ra xung đột trong kịch Rừng trúc lại không gay gắt như kịch Vũ Như Tô vì cách giải quyết xung đột không cần đến đấu tranh đẫm máu mà chủ yếu dựa trên sự tự ý thức của mỗi cá nhân trước vận mệnh dân tộc. Nếu sử sách ghi lại việc Trần Cảnh tạm gác mong muốn “theo hầu Đức Phật” để về cung là do chùn bước trước việc Thủ Độ kiên quyết đòi xây kinh thành ở Yên Tử nếu vua không về triều thì ở Rừng trúc, Nguyễn Đình Thi lại hư cấu nên việc Trần Cảnh tự giác ngộ, ý thức được trách nhiệm của mình với vận nước sau cuộc trò chuyện với ông lão lang thang. Việc Chiêu Thánh từ bỏ ý định giành lại quyền lực để về cung cũng xuất phát từ việc nhận thức được tình hình đất nước trước nạn ngoại xâm. Chính sự quyết định hi sinh những quyền lợi cá nhân của Trần Cảnh và Chiêu Thánh vì sự tồn vong của dân tộc đã gửi gắm sự cảm khái của tác giả trước những hi sinh thầm lặng của mỗi cá nhân cho quyền lợi chung của đất nước. Từ đó, tác giả cũng cắt nghĩa sức sống bất khuất, kiên cường của dân tộc có được trước hết từ sự ý thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân với Tổ quốc. Mối quan tâm hàng đầu của Nguyễn Đình Thi khi viết về đề tài lịch sử đó là phải nói lên được lẽ sống tinh thần của một dân tộc.



Tiểu kết:

Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi là hai tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác về đề tài lịch sử. Nguyễn Huy Tưởng viết về đề tài lịch sử chủ yếu ở thể loại kịch và tiểu thuyết, còn Nguyễn Đình Thi chỉ chọn kịch để thể hiện lịch sử. Chúng tôi cho rằng điều này có lẽ xuất phát từ nhận thức của mỗi tác giả về ưu thế riêng của từng thể loại khi thể hiện đề tài lịch sử. Tiểu thuyết có dung lượng lớn, không bị giới hạn về không - thời gian và có ngôn ngữ của người kể chuyện nên phù hợp để tái hiện bao quát cả một bối cảnh, một thời kì lịch sử rộng lớn với nhiều cuộc đời, nhiều số phận nhân vật và đi sâu vào phân tích thế giới nội tâm của nhân vật trong những khúc quanh của lịch sử. Còn mang đặc trưng của một bộ môn nghệ thuật sân khấu, kịch phải chịu tính giới hạn về không - thời gian, kịch không có ngôn ngữ tác giả nên có ưu thế trong việc thể hiện những xung đột gay gắt xảy ra ở những khoảnh khắc nhiều biến cố nhất của lịch sử. Đều phát huy những ưu thế của thể loại kịch trong thể hiện đề tài lịch sử nhưng kịch Vũ Như Tô Rừng trúc vẫn tồn tại những nét riêng. Sự khác biệt trong phong cách thể hiện lịch sử ở hai vở kịch này có thể thấy rõ qua sự khác biệt trong việc lựa chọn thời điểm xảy ra xung đột, chiều hướng giải quyết xung đột và xử lý chất liệu lịch sử trong Vũ Như TôRừng trúc. Điều này xuất phát từ sự khác biệt trong phong cách kịch của mỗi tác giả. Kịch Nguyễn Huy Tưởng mang phong cách cổ điển, mẫu mực, còn kịch của Nguyễn Đình Thi mang sắc thái tâm lý - trữ tình.



PHẦN KẾT LUẬN
Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi là những vở kịch lớn của nền kịch nói Việt Nam. Hai vở kịch cùng viết về đề tài lịch sử này đã mang đến cho công chúng những bài học mới ý nghĩa từ những sự kiện tưởng chừng đã cũ trong lịch sử xa xưa của dân tộc.

Khi so sánh kịch Vũ Như TôRừng trúc từ góc nhìn thi pháp thể loại, chúng tôi phát hiện ra những điểm gần gũi và khác biệt. Cùng chịu sự chi phối của những đặc trưng thể loại và đều phải đảm bảo nguyên tắc sáng tác về đề tài lịch sử nên Vũ Như TôRừng trúc có sự gần gũi khi đều khai thác xung đột lịch sử giữa những khát vọng cá nhân và những ràng buộc của thời cuộc để đem đến những bài học có ý nghĩa với hiện tại, xây dựng nên những nhân vật lịch sử có tính cách đa dạng, chọn lọc ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp cao… Ngoài ra, khoá luận này còn chỉ ra những điểm khác biệt trong thi pháp kịch của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi thể hiện ở hai vở kịch này - đây là những dự kiện quan trọng giúp nhận diện phong cách kịch của từng tác giả. Nguyễn Huy Tưởng thể hiện phong cách riêng trong Vũ Như Tô có tính mẫu mực, cổ điển khi tạo nên cấu trúc kịch 5 hồi theo sự phát triển của những xung đột đối kháng gay gắt, giàu hành động, xây dựng được nhân vật có cá tính mạnh mẽ, ngôn ngữ chủ yếu có tính chất tự sự… Trong khi đó, được sáng tác sau vở kịch Vũ Như Tô hơn 30 năm, Rừng trúc lại thể hiện nét mới khi phá vỡ cấu trúc kịch 5 hồi cổ điển, không khai thác những xung đột đối kháng mạnh mẽ, giàu tính hành động mà hướng vào những xung đột bên trong thế giới nội tâm của con người vì thế ít hành động; nhân vật chủ yếu hiện lên sinh động qua những dằn vặt về nội tâm, suy tư trong quan điểm sống; ngôn ngữ chuốt lọc, giàu chất thơ. Không - thời gian trong vở Rừng trúc cũng được mở rộng hơn so với vở Vũ Như Tô. Kịch Nguyễn Đình Thi mang sắc thái tâm lý - trữ tình. Nguyễn Đình Thi thể hiện nỗ lực tăng cường chất văn học vào thể loại kịch nhằm đem lại “sự giao duyên tuyệt vời giữa văn học và sân khấu”[40,32]. Với Rừng trúc, Nguyễn Đình Thi đã có những đóng góp mới mẻ đối với sự phát triển của thể loại, đi đầu cho khuynh hướng kịch “tâm lý - trữ tình” của Việt Nam phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ ở những năm 80 của thế kỷ XX.



Vũ Như TôRừng trúc là hai tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác về đề tài lịch sử trong sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Cùng lựa chọn thể loại kịch để thể hiện lịch sử nhưng trong hai vở này, hai tác giả lại thể hiện lịch sử ở những góc nhìn riêng. Xuất phát từ sự khác nhau trong phong cách kịch của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi nên vở Vũ Như TôRừng trúc thể hiện sự khác biệt trong phong cách thể hiện lịch sử. Đó là sự khác nhau trong việc lựa chọn thời điểm lịch sử xảy ra xung đột, chiều hướng giải quyết xung đột và cách xử lý chất liệu lịch sử ở hai vở kịch.

Người viết hi vọng đề tài nghiên cứu “So sánh kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và kịch Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi từ góc nhìn thi pháp thể loại” sẽ là một đóng góp trong việc khẳng định thêm những giá trị đặc sắc của hai vở kịch này và giúp nhận diện rõ hơn phong cách riêng của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Trong khoá luận này, chúng tôi cố gắng trình bày những nét độc đáo về thi pháp kịch của hai tác giả thể hiện trong vở Vũ Như Tô Rừng trúc với mong muốn như là một minh chứng cho thấy sự đổi mới và phát triển của kịch nói Việt Nam từ trước Cách mạng tháng Tám đến những năm đầu sau khi đất nước thống nhất.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


  1. Anhikst (2003), Lý luận kịch từ Aristôt đến Lessin, Nxb Văn học, Hà Nội.

  2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

  3. Lê Thị Chính (2004), “Một số hình thái xung đột trong kịch Nguyễn Đình Thi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9, 85 – 96.

  4. Lê Thị Chính (2005), Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch, Luận văn Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.

  5. Phan Cự Đệ (1964), “Kịch Nguyễn Huy Tưởng”, Tạp chí Văn học, số 3, 20 – 30.

  6. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975) tập 1,Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

  7. Hà Minh Đức - Phan Cự Đệ (1966), Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960): nghiên cứu, Nxb Văn học, Hà Nội.

  8. Hà Minh Đức (chủ biên) (2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  9. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  10. Hà Minh Đức (2008), “Tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6, 3 - 15.

  11. Văn Giá (2008), “Nguyễn Đình Thi nghĩ về lao động viết văn”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6, 21-29.

  12. Cao Huy Giu dịch - Đào Duy Anh h.đ (2006), Đại Việt sử ký toàn thư tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.

  13. Cao Huy Giu dịch - Đào Duy Anh h.đ (2006), Đại Việt sử ký toàn thư tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.

  14. Thu Hà, “Rừng trúc - Sự thăng hoa của kịch lịch sử”

http://vnexpress.net/GL/Van-hoa/San-khau-Dien-anh/2004/09/3B9D6939/

  1. Quốc Hải, “Thêm một viên gạch hồng cho kịch đề tài lịch sử”

http://www.nhahattuoitre.vn/content/viewer.asp?a=86&z=15

  1. Hoàng Quốc Hải (2003), Bão táp cung đình (Tiểu thuyết lịch sử), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

  2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  3. Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý (1978), Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam (trước Cách mạng tháng Tám), Nxb Văn hoá, Hà Nội.

  4. Hoàng Ngọc Hiến (1994), Năm bài giảng về thể loại văn học: ký - bi kịch - trường ca – anh hùng ca - tiểu thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  5. Đỗ Đức Hiểu (1998), “Mấy điều về kịch và Thi pháp kịch”, Tạp chí Văn học, số 2, 3 -10.

  6. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

  7. Mai Hương - Phương Ngân tuyển chọn (2006), Nguyễn Đình Thi tác giả - tác phẩm, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

  8. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  9. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  10. Hoài Nam, “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: truyện kể hay tiểu thuyết?”

http://news.socbay.com/tieu_thuyet_lich_su_viet_nam_truyen_ke_hay_tieu_thuyet_-600318370-168230912.html

  1. Đỗ Thị Thanh Nga (2009), “Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, 62 – 73.

  2. Hồ Ngọc (1996), “Kịch lịch sử là nghệ thuật hay lịch sử”, Tạp chí Sân khấu, số 11/1996, 34 – 36.

  3. Bùi Thị Thanh Nhàn (2009), Phong cách kịch Nguyễn Đình Thi, Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐHKHXH&NV (ĐHQGHN), Hà Nội.

  4. Nhiều tác giả (2004), Nguyễn Đình Thi - Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

  5. Chu Văn Sơn (2002), “Nguyễn Đình Thi”, trong Lịch sử Văn học Việt Nam, tập III, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

  6. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  7. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình dẫn luận Thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  8. Trần Đình Sử (2009), “Thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2, 11 - 25

  9. Phạm Xuân Thạch, “Quá trình cá nhân hoá hư cấu: Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử giữa truyền thống và hiện đại”

http://www.khoavanhoc-ussh.edu.vn/?option=com_content&view=article&id=324:ts-phm-xuan-thch&catid=42:cong-trinh-khoa-hc&Itemid=116&fontstyle=f-larger

  1. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Sân khấu và tôi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

  2. Nguyễn Thị Minh Thái, “Nhà văn Nguyễn Đình Thi: Hạt bụi vàng đơn độc”

http://tintuc.xalo.vn/00-750761328/nha_van_nguyen_dinh_thi_hat_bui_vang_don_doc.html

  1. Trần Khánh Thành - Bùi Thị Hợi, “Nguyễn Đình Thi - Người nghệ sĩ đa tài”

http://100years.vnu.edu.vn/BTDHQGHN/Vietnamese/C1778/C1779/2006/05/N7907/

  1. Nguyễn Văn Thành, “Vũ Như Tô từ kịch bản đến vở diễn”

http://www.nhahattuoitre.vn/content/viewer.asp?a=91&z=16

  1. Nguyễn Huy Thắng, “Vũ Như Tô - một chặng đường trường (phần 1)”

http://evan.vnexpress.net/News/doi-song-van-nghe/2006/03/3B9ACCBA/

  1. Tất Thắng (1996), “Đề tài lịch sử trong kịch và kịch về đề tài lịch sử”, Tạp chí Sân khấu, 11/1996, 26 – 33.

  2. Tất Thắng (1997), “Luật tam duy nhất và nguyên lý cấu trúc trong thi pháp kịch của chủ nghĩa cổ điển thế kỷ 17 ở Pháp”, Tạp chí Sân khấu, số 11/1997, 7 – 9.

  3. Tất Thắng (2000), Về thi pháp kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

  4. Nguyễn Đình Thi (1996), “Cần coi trọng đề tài lịch sử dân tộc”, Tạp chí sân khấu, 3/1996, 3-4.

  5. Nguyễn Đình Thi (1997), Tuyển tập Nguyễn Đình Thi: kịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

  6. Nguyễn Đình Thi (2006), Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

  7. Bích Thu - Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu) (2003), Nguyễn Huy Tưởng Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  8. Bích Thu (2007), “Nguyễn Huy Tưởng – nhà chép sử bằng văn chương”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9, 70 - 84

  9. Phan Trọng Thưởng (1996), Những vấn đề lịch sử Văn học kịch Việt Nam (nửa đầu thế kỷ XX), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

  10. Phan Trọng Thưởng (1999), “Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lí luận sáng tác về đề tài lịch sử”, Tạp chí Văn học, sô 11, 17 – 25.

  11. Lý Hoàn Thục Trâm, “Văn học kịch Việt Nam với đề tài lịch sử”

http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=266:vn-hc-kch-vit-nam-vi-tai-lch-s&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106

  1. Nguyễn Huy Tưởng (2007), Vũ Như Tô, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

  2. Nguyễn Huy Tưởng (1984), Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.


MỤC LỤC











Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 0.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương