PHẦn I. CƠ SỞ DỮ liệu kiểM ĐỊnh chất lưỢng giáo dục trưỜng trung cấp nông lâm bình dưƠNG


Cơ sở vật chất, thư viện, tài chính



tải về 0.85 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.85 Mb.
#20034
1   2   3   4   5   6   7

Cơ sở vật chất, thư viện, tài chính

  1. Tổng diện tích đất sử dụng của trường (m2): 28188,2 m2

  2. Diện tích sử dụng cho các hạng mục sau (m2):

- Nơi làm việc: Thư viện (49m2), Phòng thí nghiệm (147,1m2), Vườn thí nghiệm (492 m2), Xưởng thực tập, thực hành (900m2), nhà ký túc xá (895,79 m2)

- Nơi học: 1545,7 m2

- Nơi vui chơi giải trí: 2075,92 m2


  1. Diện tích phòng học (m2)

- Tổng diện tích phòng học: 1545,7 m2

- Tỷ lệ diện tích phòng học trên học sinh chính quy: 2,5m2



  1. Tổng số đầu sách trong thư viện của nhà trường: 3419 đầu sách

Tổng số đầu sách gắn với các ngành đào tạo có cấp bằng của nhà trường: 3419 đầu sách

Tổng số máy tính của trường: 40

- Dùng cho hệ thống văn phòng: 8

- Dùng cho học sinh học tập: 32

Tỷ lệ số máy tính dùng cho học sinh trên học sinh chính quy: 0,04 máy/học sinh


  1. Tổng kinh phí từ các nguồn thu của trường trong 3 năm gần đây:

- Năm 2007: 3.140.600.000đ

- Năm 2008: 3.468.990.052đ

- Năm 2009: 5.248.944.367đ


  1. Tổng thu học phí (chỉ tính hệ chính quy) trong 3 năm gần đây:

  • Năm 2006 -2007: 214.950.000đ

  • Năm 2007 -2008: 377.500.000đ

  • Năm 2008 -2009: 589.225.000đ




  1. Tóm tắt một số chỉ số quan trọng:

Từ kết quả khảo sát ở trên, tổng hợp thành một số chỉ số hiện trạng quan trọng dưới đây:

1. Giáo viên (số liệu năm cuối kỳ đánh giá)

Tổng số giáo viên cơ hữu (người): 35

Tỷ lệ giáo viên cơ hữu trên tổng số cán bộ cơ hữu (%): 68%

Tỷ lệ giáo viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ trở lên trên tổng số giáo viên cơ hữu của nhà trường (%): 0%

Tỷ lệ giáo viên cơ hữu có trình độ thạc sĩ trên tổng số giáo viên cơ hữu của nhà trường (%): 20%

2. Học sinh (số liệu tổng 3 năm)

Tổng số học sinh TCCN hệ chính quy:……….………..

Tổng số học sinh TCCN và TCN hệ chính quy : …………….……….

Tỷ lệ học sinh TCCN và TCN hệ chính quy trên 1 giáo viên quy đổi: ..........

Tỷ lệ học sinh TCCN chính quy tốt nghiệp so với số tuyển vào (%): .....

Tỷ lệ học sinh TCCN và TCN hệ chính quy tốt nghiệp so với số tuyển vào (%): .....

3. Đánh giá của học sinh tốt nghiệp về chất lượng đào tạo của nhà trường (số liệu 3 năm của kỳ đánh giá)

Tỷ lệ học sinh trả lời đã học được những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (%): ..............................................

Tỷ lệ học sinh trả lời chỉ học được một phần kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (%): ...........................................

4. Học sinh có việc làm trong năm đầu tiên sau khi tốt nghiệp (số liệu 3 năm của kỳ đánh giá)

Tỷ lệ học sinh có việc làm đúng ngành đào tạo (%): .......................................

Tỷ lệ học sinh có việc làm trái ngành đào tạo (%):...........................................

Thu nhập bình quân/tháng của học sinh có việc làm đúng ngành đào tạo (VNĐ):............

5. Đánh giá của nhà tuyển dụng về học sinh tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo (số liệu 3 năm của kỳ đánh giá)

Tỷ lệ học sinh đáp ứng yêu cầu của công việc, có thể sử dụng được ngay (%): ........

Tỷ lệ học sinh cơ bản đáp ứng yêu cầu của công việc, nhưng phải đào tạo thêm (%): ......

6. Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ (số liệu 3 năm của kỳ đánh giá)

Tỷ lệ đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao khoa học công nghệ (quy đổi) trên cán bộ cơ hữu: 0,04%

Tỷ lệ doanh thu từ NCKH và chuyển giao công nghệ trên cán bộ cơ hữu: 3,4 triệu/ người.

Tỷ lệ sách đã được xuất bản (quy đổi) trên cán bộ cơ hữu: 0%

Tỷ lệ bài đăng tạp chí (quy đổi) trên cán bộ cơ hữu: 0%

Tỷ lệ báo cáo khoa học (quy đổi) trên cán bộ cơ hữu: 0%

7. Cơ sở vật chất: (số liệu năm cuối kỳ đánh giá)

Tỷ lệ máy tính dùng cho học sinh trên học sinh chính quy: 0,04

Tỷ lệ diện tích phòng học trên học sinh chính quy: 2,5 m2

Tỷ lệ diện tích ký túc xá trên học sinh chính quy: 1,06m2.



PHẦN II. BÁO CÁO TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA TRƯỜNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tự đánh giá là một khâu quan trọng trong hoạt động kiểm định chất lượng trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp (gọi tắt là trường). Đó là quá trình trường tự xem xét, nghiên cứu trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như các vấn đề liên quan khác, từ đó tiến hành điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng.

Tự đánh giá là so sánh cái thực tại của trường với các tiêu chuẩn về chất lượng của Bộ giáo dục quy định cho trường Trung cấp chuyên nghiệp xem các mặt đạt và chưa đạt để đề ra phương hướng giải quyết vần đề, đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng đào tạo tại đơn vị.

Tự đánh giá tại Trường Trung cấp Nông Lâm Bình dương được thực hiện theo đúng quy trình tự đánh giá mà Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành, hướng dẫn thực hiện. Trong quá trình tự đánh giá, căn cứ từng tiêu chuẩn và tiêu chí, trường tập trung thực hiện những việc sau:

a) Mô tả, làm rõ thực trạng của trường;

b) Phân tích, giải thích, so sánh và đưa ra những nhận định; chỉ ra những điểm mạnh, những tồn tại và những biện pháp khắc phục;

c) Lên kế hoạch hành động để cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục.

Tự đánh giá là một quá trình liên tục, đòi hỏi nhiều công sức, thời gian, phải có sự tham gia của nhiều đơn vị và cá nhân trong toàn trường. Hoạt động tự đánh giá đòi hỏi tính khách quan, trung thực và công khai. Các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra trong quá trình tự đánh giá phải dựa trên các minh chứng cụ thể, rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, bao quát đầy đủ các tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục.


II. TỔNG QUAN CHUNG (tối đa 10 trang)

    1. Giới thiệu sơ lược về Trường Trung cấp Nông lâm nghiệp Bình Dương

Trường Trung cấp Nông Lâm nghiệp Bình Dương được thành lập từ năm 1964 tọa lạc tại xã Phú Mỹ, Thị xã Thủ Dầu Một Tỉnh Bình Dương. Đến năm 1988, toàn bộ cơ sở Trường dời về khu Mọi Nước, xã Định Hòa, Thị xã Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương tiếp quản từ cơ sở của Trường Nông Hội.

Cơ sở này không thích hợp cho việc đào tạo và phát triển của một trường Trung cấp chuyên nghiệp. Trong thời gian này, đất nước trãi qua thời kỳ quá độ, xóa bỏ bao cấp, số học viên đến trường ngày càng ít. Một số cán bộ giáo viên chuyển ngành công tác sang lĩnh vực ngành nghề khác do không còn đủ nghị lực để cùng nhau vượt qua cơn khủng hoảng này.

Trước tình hình như vậy, không còn cách nào khác từ năm 1994 Đảng Bộ Sở Nông Nghiệp Bình Dương mạnh dạn thay đổi toàn bộ hoạt động của Trường. Trong đó có sự thay đổi lãnh đạo.

Từ 1994 đến nay, Trường từng bước thay đổi và ngày càng hồi sinh. Từ một ngôi trường Trường không ra trường, lớp không ra lớp đã trở nên khang trang đi vào nề nếp. Số lượng học sinh đến trường ngày càng tăng. Chỉ có 80 học viên vào năm 1994 thì đến nay toàn trường đạt con số trên 1400 học viên. Đời sống cán bộ công nhân viên ngày một nâng cao, toàn trường hiện nay có 53 cán bộ công nhân viên, trong đó có 5 trình độ Thạc Sĩ, 3 học viên cao học, 26 trình độ đại học. Hiện tại , Trường có 5 phòng chức năng và 4 khoa :



  • Các phòng chức năng :

    • Phòng Đào tạo.

    • Phòng Hành chính – Tổ chức.

    • Phòng Tài chính – Kế toán.

    • Phòng Quản trị.

    • Phòng công tác học sinh.

  • Các khoa, tổ bộ môn:

    • Khoa văn hóa- cơ bản

    • Khoa nông học

    • Khoa địa chính

    • Khoa kinh tế

Mặc dù hiện tại cơ sở vật chất của trường xuống cấp, lạc hậu, nhưng với đội ngũ cán bộ, giáo viên tâm huyết, nhiệt tình khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, học tập nâng cao trình độ, nghiên cứu khoa học v.v... Học sinh trường sau khi tốt nghiệp đa số tìm hoặc tự tạo việc làm phù hợp chuyên ngành được đào tạo. Hầu hết cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh trường tùy vị trí, vai trò được phân công đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong những năm qua, từng cá nhân và tập thể cán bộ, nhân viên trường tích cực thi đua và đạt được các thành tích được các cơ quan Trung ương khen thưởng như: Huân chương lao động hạng ba, bằng khen của Thủ Tướng chính phủ, Bộ Nông nghiệp, Trung ương Đoàn. Ngoài ra, trong những năm qua, trường liên tục đạt được danh hiệu: Chi bộ trong sạch vững mạnh, Công đoàn vững mạnh, Đoàn Thanh niên vững mạnh, phòng khoa tiên tiến, chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, chiến sĩ thi đua cơ sở, lao động tiên tiến...

Hiện nay, Trường có quy mô thường xuyên là 800 học sinh/năm. Trường là đơn vị chịu sự quản lý trực tiếp của Sở NN & PTNT Bình Dương và sự chỉ đạo nghiệp vụ chuyên môn của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Dương. Những thành quả đạt được như ngày hôm nay chính là nhờ sự quan tâm của lãnh đạo Sở, Trường và toàn bộ công sức của các cán bộ công nhân viên.



    1. Thực trạng Trường Trung cấp Nông Lâm Nghiệp Bình Dương

Giáo dục trung học chuyên nghiệp hiện nay có nhiều bất cập. Hệ thống trường và giáo viên còn thiếu và yếu cả về chất lượng và số lượng, không đáp ứng đủ nhu cầu của học sinh. Thực tế đòi hỏi ngành giáo dục cần sự đầu tư hợp lý cho lĩnh vực này. Theo một số chuyên gia giáo dục, khi nói về chỉ tiêu đào tạo cần có sự nhìn nhận toàn diện dựa trên đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất.

Cơ sở vật chất của các trường bao gồm các yếu tố như: Mặt bằng, xây dựng cơ bản và trang thiết bị dạy, học và thực hành. Nhìn chung trên quy mô toàn quốc đã có sự khởi sắc, song không phải đã hoàn toàn thuận lợi. Sự hạn chế trong đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất của các nhà trường đã khiến chỉ tiêu đào tạo bị ảnh hưởng. Từ chỗ "đầu vào" ít, dễ dàng dẫn tới tình trạng chất lượng đào tạo khó có điều kiện nâng cao. Vòng luẩn quẩn này không biết khi nào mới gỡ được.

Trường Trung cấp Nông lâm nghiệp Bình Dương có diện tích rộng thích hợp xây dựng nhà xưởng, chuồng trại thực tập, vườn tiêu bản cây ăn trái, phục vụ cho nhu cầu đào tạo ngành nông nghiệp. Tuy trực thuộc thị xã Thủ Dầu Một, nhưng trường Trung cấp Nông Lâm nghiệp Bình Dương lại trực thuộc xã Định Hòa. Nằm ở lô 2, cho nên có vị trí địa lý kém thuận lợi trong việc quảng bá thương hiệu, phục vụ đào tạo, và nhu cầu đào tạo ngoại khóa.

Nguồn nhân lực Trường có những hạt nhân trong các phong trào đoàn thể, đoàn thanh niên. Chi đoàn trường đã làm rất tốt trong việc quảng bá thương hiệu cho nhà trường. Mặt khác, Ban giám hiệu có tầm nhìn rộng thoáng, có tầm nhìn, thực hiện đào tạo và liên kết đào tạo với các trung tâm dạy nghề, nâng cao thu nhập cán bộ công nhân viên của trường, nâng cao trình độ các giáo viên trẻ, định hướng phát triển nâng cấp trường lên cao đẳng.

Đội ngũ giáo viên trẻ có lòng nhiệt tình, yêu nghề, các giáo viên nhiệt tình giảng dạy, tìm cách nâng cao trình độ, cải tiến phương pháp giảng dạy, mục tiêu cống hiến là chíình, ít đòi hỏi quyền lợi cá nhân.

Trường chưa có đủ nguồn nhân lực theo ý nghĩa về cả số lượng lẫn chất lượng. Thế hệ trẻ tiếp nối, kế thừa chưa có đủ, trong khi thế hệ cũ đã lớn tuổi, sắp về hưu. Một thế hệ đi trước độ tuổi từ 45- 59 chiếm gần 80% đã làm cho trường trở nên già nua với xã hội. Khó khăn trong việc tiếp cận với công nghệ mới.

Thế hệ tiếp nối thì chưa đủ kinh nghiệm, nóng vội, chủ quan trong việc phối hợp phát triển giáo dục hoặc chưa vững lập trường công tác lâu dài. Nhìn chung trường chưa có một thế hệ trẻ đủ mạnh để kế thừa và phát triển.

Mặt khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tuyển chọn nhân lực của nhà trường trong thời gian qua còn một số bất hợp lý về mặt chất lượng là vì quy trình tuyển dụng còn rất đơn giản. Việc tuyển dụng thiếu hẳn khâu đánh giá khả năng thực sự, người xin việc không hề qua một trắc nghiệm đánh giá nào cả, chủ yếu đánh giá về mặt năng lực dựa trên bằng cấp.

Cơ sở chính của trường vừa được xây dựng xong, hoàn thành năm 2002 với tòa nhà 3 tầng uy nghi, khang trang với hơn 15 lớp học rộng rãi, thoáng mát tạo bề mặt nổi của Trường khá ấn tượng, thu hút học sinh. Bề mặt trường có đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ học tập, đào tạo như các trại thực tập, thực nghiêm, cơ sở công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nuôi cấy mô, thư viện,…

Có hai mạng ADSL phục vụ cho học sinh cũng như giáo viên trường tiếp cận với thông tin, tiếp thu cái mới, thu thập tài liệu, phục vụ công tác dạy và học.

Tuy nhiên, do cơ sở được xây dựng nhiều lần nên tính đồng bộ, logic kém. Ví dụ như ký túc xá gần phòng học, nhà vệ sinh gần trại chăn nuôi thực nghiệm…

Cơ sở vật chất của trường còn nhiều thiếu thốn, trại thực tập xây dựng còn chưa đạt chuẩn. Chưa có văn phòng riêng cho từng khoa, thư viện thiếu quá nhiều tài liệu tham khảo.

Là một trường đào tạo ngành nông nghiệp, cung cấp công nhân tay nghề cho các công ty, trung tâm nông nghiệp. Bằng cấp đào tạo không được công nhận để liên thông lên cao đẳng như một số trường khác. Đây là điều mà trường rất quan tâm. Học sinh chịu nhiều thiệt thòi khi muốn nâng cao trình độ.

Tì lệ học sinh trên giáo viên chuẩn ở trường trung học chuyên nghiệp là 20 học sinh/giáo viên. Trong khi đó ở trường tỉ lệ này quá cao. Toàn khóa học khoảng 1400 học sinh trong khi giáo viên chỉ có 34 người. Tỉ lệ xấp xỉ 41 học sinh/giáo viên. Điều này nói lên sự quá tải của mỗi giáo viên khi lên lớp. Chất lượng đào tạo sẽ bị giảm.

Chất lượng tuyển sinh đầu vào quá thấp, hầu như hồ sơ nộp vào là nhận vì phải cạnh tranh với các trường khác thu hút học sinh vào trường. Học sinh ra trường khó tìm được việc làm, vì chất lượng đào tạo còn thấp, tay nghề học sinh chưa cao. Học sinh chưa lành nghề, phải qua đào tạo lại. Số học sinh bỏ học chuyển qua học ngành khác, ở trường khác không hiếm. Trường đang cố gắng khắc phục hiện trạng bằng chế độ học phí, tiền bồi dưỡng hè, tết cho học sinh trong và ngoài tỉnh.

Là một trường dạy nghề, hoạt động đào tạo của trường còn thiếu hoạt động nghiên cứu khoa học. Đây là hoạt động quan trọng góp phần nâng cao vai trò vị trí của trường trong Tỉnh và các trường khác.

Trường có quy mô đào tạo nhỏ. Phòng, khoa thừa trong khi tổ bộ môn thiếu. Ví dụ: khoa nông học có thể nhập chung với khoa địa chính tào thành một khoa nông học. vì khoa địa chính chỉ có hai giáo viên. Nhập lại thành một khoa có hai tổ bộ môn: Nông học – địa chính.

Tổ chuyên môn còn thiếu, không chịu thành lập.

Phương pháp giảng dạy còn quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình, ít có sự tương tác giữa Học sinh và giáo viên trong và ngoài lớp học. Cùng với đó, việc học của Học sinh quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu học thuộc lòng. Học sinh học thụ động như ghi chép và nhớ lại những thông tin đã học thuộc khi làm bài thi. Phương pháp chủ yếu mà các giảng viên sử dụng là thuyết trình, giảng giải, điều này đã hạn chế chất lượng đào tạo của nhà trường.

Công tác đánh giá năng lực làm việc của giáo viên của nhà trường còn nhiều hạn chế. Việc kiểm tra, đánh giá mới chỉ được tiến hành ở mặt hình thức ví dụ như kiểm tra việc đứng lớp của giáo viên có đầy đủ, đúng giờ hay không. Còn việc đánh giá về mặt chất lượng giảng dạy thì không được thường xuyên, chặt chẽ.

Muốn nâng cao chất lượng đào tạo vấn đề này phải được thực hiện thường xuyên. Một Giáo viên khi lên lớp sẽ có bảng đánh giá từng Học sinh theo rất nhiều tiêu chí như mức độ làm bài tập về nhà, mức độ phát biểu, có đến lớp không, khả năng làm việc theo nhóm thế nào…Trong khi đó ở trường lại không có đánh gía thường kỳ. Học sinh ít khi có bài tập về nhà, nếu có thì cũng không tính điểm hoặc giáo viên cũng không ghi nhận xét cho Học sinh. Việc đánh giá thường chỉ thực hiện vào cuối kỳ qua một bài kiểm tra học kỳ.


    1. Định hướng phát triển

Nâng cao vai trò phát huy nhân tố con người, tạo mọi điều kiện cho môi trường giảng dạy thuận lợi để Thầy, cô giáo phát huy mọi khả năng về trí lực, tài năng. Muốn được như vậy trước hết phải giải quyết tình trạng lương bổng, đề ra chính sách kinh tế, chính sách tiền lương, chế độ ưu đãi phù hợp, tao cơ sở động lực phát huy lòng nhiệt tình yêu nghề để cho các thầy cô giáo. Nâng cao trình độ nghiệp vụ bằng chính sách ưu đãi, chính sách cử cán bộ công nhân viên đi học với điều kiện dễ dàng tạo được nguồn nhân lực mạnh mẽ trong ngành giáo dục, giải quyết sự thiếu thốn trầm trọng giáo viên đạt chuẩn hiện nay trong việc nâng cấp Trường. Tại Trường Trung cấp Nông lâm nghiệp Bình Dương, BGH đã có định hướng hợp tác, liên kết đào tạo với các trung tâm dạy nghề, doanh nghiệp, tạo điều kiện tăng thu nhập thêm cho các giáo viên.

Tại đơn vị, vấn đề đạo đức nhà giáo được Trường chú trọng và phát huy. Các Thầy cô giáo cố gắng thực hiện tác phong, chuẩn mực đạo đức sư phạm, không xãy ra những chuyện vi phạm, hoặc có cũng chỉ ở mức nhẹ, xử lý nội bộ. Muốn đạo đức nhà giáo đạt chuẩn mực và ngày càng phát huy, BGH xác định Trường cần ba vấn đề sau:



  • Hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử phạt sự vi phạm đạo đức công vụ.

  • Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế để cán bộ, công chức có điều kiện phát huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân.

  • Điều chỉnh, nâng cao tiền lương và đãi ngộ vật chất hợp lý, tạo điều kiện đời sống tinh thần phong phú đối với cán bộ, công chức.

Vấn đề lớn tiếp theo được đặt ra ở đây là giải pháp nào để giáo dục đạo đức cho các em học sinh chứ không phải là đạo đức nhà giáo khi tình trạng đáng lo ngại xãy ra gần đây trên toàn ngành giáo dục. Ban giám hiệu nhà Trường cũng mạnh dạn đề ra các giải pháp nâng cao giáo dục đạo đức học sinh như sau:

  • Giải pháp cụ thể, sinh động giáo dục đạo đức qua bài giảng của các Thầy Cô giáo. Các em còn chưa hiểu pháp luật, không hình dung được vấn đề trách nhiệm cá nhân. Chúng ta phải có trách nhiệm làm cho các em nhận thức được điều đó qua những câu chuyện đạo đức trong giờ sinh hoạt chủ nhiệm. Đọc mẫu chuyện pháp luật trên báo chí, trên internet để các em hình dung được việc chúng làm sẽ gây tác hại như thế nào và hậu quả ra sao. Kể chuyện cho các em nghe về các câu chuyện đạo đức để các em noi theo. Đọc chuyện vi phạm pháp luật để các em né tránh, không vi phạm.

  • Có thầy cô giáo đã đặt biệt danh cho từng em bằng các câu danh ngôn về tư tưởng đạo đức để các em có điều kiện học thuộc câu danh ngôn vào đời đó, dần nhận ra triết lý sống.

  • Giải pháp xem lại chương trình giáo dục đạo đức, đánh giá đạo đức học sinh cho phù hợp. Đánh giá đạo đức HS cần đánh giá qua hành động, sự chuyển biến của HS sau bài học chứ không phải đánh giá qua "trả bài". Hệ thống chuẩn mực đánh giá hiện nay chưa thật sự phát huy phương pháp dạy học tích cực.

  • Kiến nghị: “Bộ GD-ĐT cần xác định cụ thể hệ thống những giá trị đạo đức cần trang bị cho HS từng cấp học, bậc học, đảm bảo tính liên thông chặt chẽ. Nội dung chương trình môn đạo đức cần hướng HS vào những chuẩn mực đã xác định, phù hợp lứa tuổi HS, tránh ôm đồm quá nhiều nội dung".

Vấn đề quy hoạch lại cơ sở vật chất của toàn Trường là một điều khó khăn. Tuy nhiên, Nhà trường cũng phải có giải pháp nào đó có thể thực hiện mà nâng cao được hiệu quả, chất lượng giáo dục đào tạo. Vấn đề thực hiện tiết kiệm chống lãng phí, tạo nên một quỹ riêng cho việc xây dựng phát triển cơ sở vật chất của trường phục vụ cho đào tạo là một giải pháp lâu dài kém hiệu quả. Vấnn đề cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo không phải là vấn đề để tiết kiệm mà là vấn đề cần phải đầu tư đúng mức, đúng chuẩn, đúng quy mô đào tạo. Trường đã hệ thống lại các trại thí nghiệm trong chăn nuôi, xây dựng đủ chuẩn cho các em tham gia thực tập, nâng cao trình độ tay nghề qua các chương trình kế hoạch rèn nghề cho các em học sinh.

Về chế độ cho Giáo viên, BGH cũng xác định cần xây dựng các chính sách về định mức lao động, khối lượng giờ dạy quy đổi…. nhằm bảo đảm được mức thu nhập từ trung bình khá trở lên so với xã hội. Nhà trường nên xây dựng khu nhà ở cho các giáo viên có thu nhập thấp, xa quê…là vấn đề thiết yếu cho GV yên tâm giảng dạy lâu dài.

Về công tác khen thưởng và kỷ luật, trước hết là phát huy đoàn kết nội bộ, phát huy công bằng xã hội ở Trường học, vì chỉ có đoàn kết mới đem lại thành công. Với phương châm: “ không sợ làm sai chỉ sợ thiếu công bằng”.Công bằng mới tạo nên động lực làm việc, cống hiến hết mình cho công việc.

Về nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục, BGH mạnh dạn đề nghị các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại đơn vị như sau:



  • Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra đào tạo. Các bộ phận đánh giá phải được thành lập từ các bộ môn, khoa, đánh giá theo định kỳ (từng tháng, quý, học kỳ, năm). Cần có chế độ khen thưởng kịp thời cho công tác này. Đánh giá nội bộ và đánh giá từ bên ngoài. Sau khi đánh giá nội bộ, tìm ra những yếu kém, hạn chế cần khắc phục và phát huy những hiệu quả đạt được. Để cho khách quan nên có sự đánh giá, thẩm định lại từ phía những chuyên gia ở ngoài trường.

  • Thay đổi hình thức thi tự luận sang hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Đây là chủ trương chung của ngành giáo dục nhưng chưa được áp dụng rộng rãi tại Trường.

  • Xây dựng và cập nhật giáo trình giảng dạy cho phù hợp với điều kiện tiếp thu của học sinhvà điều kiện phát triển xã hội. Cần cập nhật kiến thức mới nhất, tránh lạc hậu chất xám.

  • Đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, chú trọng phát triển ngành mà xã hội đang cần như Kinh tế, địa chính, chuyên cây cao su, hoa viên cây cảnh…phục vụ nhu cầu xã hội.

  • Đa dạng hóa các cấp đào tạo như liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo khác như Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM, Đại học Bình Dương…, tạo nền móng liên thông giữa các cấp đào tạo.

  • Mở rông địa bàn, tăng cường hợp tác quốc tế : Mở rông địa bàn sang tỉnh bạn như: Đồng Nai, Bình Phước, Đăklăk,… Tăng cường hợp tác quốc tế như: tham gia các dự án quốc tế, tạo tiền đề vững mạnh sau này.

  • Cần tập trung vào việc đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên, coi đây là nội dung trọng tâm, có tính chất mấu chốt thể hiện năng lực thật sự của người giáo viên.Tổ chức hội thi giáo viên dạy giỏi trong toàn trường theo các phương pháp lý luận dạy học mới để các thầy cô giáo kịp thời nắm bắt và học tập các phương pháp giảng dạy mới. Nhưng điều quan trọng hơn là xây dựng cho từng cán bộ, giáo viên trong nhà trường năng lực tự đánh giá, tự điều chỉnh công việc của mình cho tốt hơn. Cử các giáo viên luân phiên học tập các lớp chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao tay nghề.

  • BGH xác định rèn nghề cho học sinh bằng cách cầm tay chỉ việc là phù hợp với hoàn cảnh của Trường. Vì trình độ tiếp thu học viên kém, tư duy sáng tạo hầu như không có. Đòi hỏi các giáo viên phải chịu khó, tận tâm với nghề. Ví dụ: cô Nguyễn Thụy Ngọc Sương đã bỏ ra thời gian rất nhiều, nhiều hơn giờ giảng gấp đôi để rèn nghề các em qua cách cầm tay chỉ việc. Các em đã tự tin hơn khi đi làm và cũng làm được việc. Thầy Lê Thanh Bản khoa Địa chính cũng dành thêm thời gian rèn các em môn đo đạc.

  • Xây dựng hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, bớt cồng kềnh và chặt chẽ hơn. Ví dụ: Nên thành lập thêm các tổ bộ môn để khâu tổ chức, quản lý chặt chẽ hơn. Nên nhập lại khoa nông học và khoa địa chính lại làm một để bộ máy tổ chức quản lý bớt cồng kềnh.

  • Tăng cường nguồn nhân lực bằng cách tuyển giáo viên trẻ về đơn vị công tác để giảm bớt gánh nặng giảng dạy cho các thầy cô giáo lớn tuổi, đồng thời tạo nguồn lực lâu dài phát triển trường. Tăng cường biên chế giảng dạy (đặc biệt là các ngành học mới) để chuẩn bị kế thừa các thầy cô giáo đã lớn tuổi. Điều chỉnh theo hướng tăng dần đội ngũ cán bộ giảng dạy trong biên chế và giảm dần đội ngũ cán bộ phục vụ. Cần bố trí nhân sự, phân công việc theo đúng chuyên môn được đào tạo và theo hướng phát triển sở trường của mỗi người để nâng cao chất lượng và đào tạo đội ngũ giáo viên. Chia xẻ gánh nặng tập trung lên vai một số giáo viên, tạo thế cân bằng trong việc lên lớp, tránh tình trạng người làm không hết, kẻ ngồi chơi xơi nước.

  • Xây dựng công đoàn, đoàn thanh niên vững mạnh. Thực thi chính sách Đảng và Nhà nước, hưởng ứng xây dựng vì cộng đồng, phát động thi đua phong trào do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. Tạo môi trường sinh hoạt lành mạnh cho các em học sinh. Đẩy mạnh công tác đoàn thanh niên. Xây dựng đoàn cơ sở vững mạnh tạo sân chơi lành mạnh cho các em, đồng thời thông qua đó giáo dục các em về lối sống đạo đức, phát động phong trào học tập, rèn luyện.

  • Bắt tay cùng doanh nghiệp, góp phần phục vụ công tác đào tạo, hỗ trợ đào tạo. Đồng thời tạo công ăn việc làm cho các em sau khi ra trường. Đây cũng là một giải pháp.

Nghiên cứu khoa học cũng là giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, trước hết là ở trường sau đó sẽ quy mô rộng lớn hơn. Đây là công việc quan trọng không phải của riêng các thầy cô giáo, mà còn là của các em học sinh trong lĩnh vực đầu tư chất xám giải quyết nhiều vấn đề lớn mà Trường cần được quan tâm hơn. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh, sinh viên, thời gian tới, cần thiết tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

  • Một là, hàng năm vào đầu khoá học, trong tuần đầu học tập “chính trị và nội qui” cần đưa nội dung giáo dục và truyền thống sinh viên nghiên cứu khoa học để sớm nâng cao ý thức và mong muốn nghiên cứu khoa học trong sinh viên.

  • Hai là, cùng với giáo dục lòng tự hào và tinh thần hăng say nghiên cứu khoa học của các thế hệ sinh viên, cần mở những lớp bồi dưỡng ngắn hạn về kỹ năng nghiên cứu khoa học cho sinh viên.

  • Ba là, Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện về công nghệ thông tin, kỹ năng tổ chức, khai thác ứng dụng CNTT nhằn hỗ trợ cho sinh viên tiếp cận với thành tựu của khoa học công nghệ và kỹ năng cập nhật, khai thác thông tin phục vụ nghiên cứu khoa học.

  • Bốn là, từng bước hiện đại hoá Trung tâm thông tin tư liệu thư viện của Học viện theo hướng củng cố viện truyền thống, nhanh chóng xây dựng thư viện điện tử và trung tâm thông tin phục vụ hoạt động khoa học nói chung, phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nói riêng.

  • Năm là, sớm xây dựng, hoàn thiện qui chế (thể chế), qui trình hoạt động khoa học cho nhà trường, trong đó có những qui định cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên.

Yếu tố chủ quan nhưng không kém phần quan trọng: “cái Tâm của nhà giáo”. Điều này không khách quan vì ở mỗi giáo viên có cái tâm khác nhau, tức lòng yêu nghề, yêu thương học sinh, mong muốn dạy dỗ chúng nên người, truyền đạt kiến thức để cho học sinh ngày một giỏi giang. Chính lòng thương yêu chân thật hay cái Tâm chân thật sẽ cảm hóa được học sinh cá biệt, thúc đẩy được học sinh yếu kém phấn đấu trong học tập rèn luyện. Thầy cô giáo là tấm gương cho các em noi theo. Ví dụ: Nắm bắt tâm lý các em thông minh thường hay lười biếng, hiếu động, các thầy cô cần khen tặng các em để các em có động lực đam mê học tập hơn. Hoặc có những em học sinh cá biệt do ít được sự quan tâm của gia đình, thiếu thốn tình cảm các thầy cô giáo cần nắm bắt để quan tâm tâm các em hơn, để các em có chổ dựa tinh thần phấn đấu học tập. Nắm bắt tâm lý mới lớn của các em là hiếu thắng, hiếu động, dễ bốc đồng. Chúng ta cần chú ý không được xúc phạm các em qua các ngôn từ phản khoa học giáo dục tránh các em phản ứng mạnh, gây nên hậu quả đau lòng. Có nhiều em học sinh cá biệt, lưu ban đã được Thầy Thạc Sĩ Huỳnh Kim Ngân giáo dục, rèn luyện nên người chính bằng cái Tâm của người Thầy.


tải về 0.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương