Phạm Kim Khánh



tải về 0.58 Mb.
trang12/14
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích0.58 Mb.
#21458
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Chánh Niệm


Chánh Niệm là chi thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Khi đề cập đến "niệm" một số người trong chúng ta liên tưởng đến hình ảnh một nhà sư đạo mạo đang trầm ngâm lặng lẽ ngồi đâu đó trong rừng sâu hay hang thẩm, hoặc trong một ngôi chùa xa xôi hẻo lánh, dưới lùm cây rậm rạp. Vài người vẫn nghĩ rằng "tu niệm" là một công trình có tánh cách huyền bí, dành riêng cho một hạng người đặc biệt nào. Thật ra "niệm" hết sức đơn giản, rất phổ thông. Tất cả chúng ta đều có niệm, mặc dầu chúng ta niệm trong hình thức sơ khai nhất và gọi đó là chú tâm, hay lưu ý đến, nghĩa là chăm chú hướng tâm về đối tượng. Tâm hay biết nầy, nếu ta giữ được bèn lâu trên đối tượng thì đó là niệm. Tâm có chiều hướng phóng ra ngoài, chạy đầu nầy nhảy đầu kia, luôn luôn chao động. Kéo tâm lại và đặt nó vào một đối tượng, chỉ hay biết đối tượng đó thôi. Đó là niệm.

Danh từ Pàli mà ta thường phiên dịch là niệm, "sati", Sanskrit là smrt, có nghĩa là trí nhớ. Tuy nhiên, sati không chính xác giống như quan niệm về trí nhớ của người Tây Phương. Sati, niệm, là trạng thái chú tâm, sự hiện hữu của tâm trên đối tượng. Đôi khi sati được dùng trong ý nghĩa hay biết, nhưng ở đây danh từ sati, niệm, không phải là sự hay biết như thường được hiểu, ít nhiều bao hàm những ý nghĩ, những cảm tưởng v.v... Nơi đây sati là sự hay biết suông, trơ trọi, hoàn toàn tách rời ra khỏi mọi suy tư, tưởng tượng, hồi nhớ. Ngoài đối tượng, không hay biết gì khác xảy ra bên trong hay bên ngoài ta. Niệm là sự hay biết không có lựa chọn, chỉ ghi nhận đối tượng mà không vướng víu vào màn lưới của tư tưởng. Như vậy, hành chú niệm không phải là vấn đề "làm một điều gì" mà thật sự là không làm. Không suy tư, không xét đoán, không liên tưởng, không sắp xếp kế hoạch, không tưởng tượng, không ước muốn. Chỉ có ghi nhận, quan sát, chú tâm nhìn vào đối tượng. Trong khi hành Chánh Niệm, tâm thức tỉnh quan sát điều gì đang xảy ra một cách rõ ràng an tĩnh. Chỉ ghi nhận rồi buông bỏ cho nó trôi qua, không xét đoán hay diễn dịch. Sự vật đến rồi đi, sanh rồi diệt, hành giả ghi nhận diễn tiến trong thời điểm hiện tại, luôn luôn sống trong hiện tại.

Trong Bát Chánh Đạo, đi kèm theo danh từ sati có chữ sàmma, có nghĩa chân chánh, đúng. Sammà sati là niệm, hoặc có sự chú tâm hay biết chân chánh, ta gọi là Chánh Niệm. Một cách rốt ráo, thực hành Chánh Niệm là hành Tứ Niệm Xứ. 

Có bốn loại niệm chân chánh là: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp. được gọi là Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). "Patthàna" hay "upatthàna" là đem lại gần, kềm giữ chắc tình trạng hiện hữu, giữ tâm hay biết, hay thiết lập cơ sở. Tứ Niệm Xứ, là bốn xứ, tức bốn nơi chánh yếu để hành giả đặt sự chú tâm hay biết vào.

Kinh Tứ Niệm Xứ được Đức Thế Tôn thuyết giảng cho người dân Kuru tại thị trấn Kammasadamma và được ghi chép ở hai nơi trong Tam Tạng kinh điển. Một nơi là bài kinh số 10 trong bộ Majjhima Nikàya, Trung A-Hàm, dưới tựa đề Satipatthàna Sutta. Bài kinh kia mang số 22, trong Digha Nikàya, Trường A-Hàm dưới tựa đề Mahà Satipatthàna Sutta. Điểm khác biệt giữa hai bài là trong kinh Mahà Satipatthàna, Đại Niệm Xứ, của Trường A-Hàm phần Tứ Diệu Đế được giải thích dài dòng và đầy đủ chi tiết hơn trong đoạn Niệm Pháp. Cả hai bài kinh đều khởi đầu như sau:

"Có con đường duy nhất nầy để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn -- đó là Tứ Niệm Xứ."

Tứ Niệm Xứ là thế nào? Là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm và Niệm Pháp.

a. Niệm Thân, hay Thân Quán Niệm Xứ

Là chú tâm hay biết vào những hiện tượng vật chất trong cơ thể. Pháp Niệm Thân có 14 phần gồm:

1. Chú tâm vào hơi-thở-vào-thở-ra. Đây là pháp hành rất phổ thông, và mọi người có thể áp dụng làm nền tảng cho công phu hành thiền. Không nên lầm hiểu rằng đây chỉ là lối tu tập cho người sơ cơ. Vì pháp niệm hơi thở chính nó có thể dẫn hành giả đi dài theo con đường, qua suốt tất cả những giai đoạn khác nhau của Con Đường, đến tận điểm cùng tột là hoàn toàn giác ngộ. Lại nữa, tiến trình hơi thở theo dính liền với ta chí đến lúc lìa đời và do đó, luôn luôn hiện hữu. Lúc nào ta cũng có thể xử dụng để chú tâm hay biết vào. Hành giả không cố ý kiểm soát, làm cho nó phải như thế nào, dài hay ngắn, mạnh hay yếu, mà để nó trôi chảy tự nhiên và theo dõi, ghi nhận, chú tâm hay biết.

2. Chú tâm hay biết mọi cử động của thân, như đi, đứng, nằm, ngồi v.v... Hành giả chú tâm hay biết vào mọi cử động của thân. Khi đi, hay biết mình đang đi, khi đứng, hay biết mình đang đứng, khi nằm, hay biết mình đang nằm, khi ngồi, hay biết mình đang ngồi, khi đổi tư thế, hay biết mình đang chuyển mình, thay đổi tư thế. 

3. Có sự hay biết rõ ràng (satisampajanna. Sati là niệm + sampajanna là hay biết rõ ràng) về mục đích và về tính cách thích nghi của hành động bằng thân, như khi nằm, khi nhìn về phía trước hay nhìn quanh, khi co hay duỗi tay, chân, khi đắp y mang bát, khi ăn, uống, nhai, nếm, khi đi đại tiện hay tiểu tiện, khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ngủ, khi thức, khi nói, và khi giữ im lặng. Phần nầy cũng đưa đến trạng thái định tâm và hiểu biết thấu đáo và tận tường rằng không có một "người" mà chỉ có những cử động sanh khởi do nhân duyên.

4. Quán tưởng tánh cách ô trược của thân. Quán sát thâm sâu vào thực tướng của thân nầy để nhận thức rằng nó không có chi là hấp dẫn để ta luyến ái. Đức Phật dạy rằng ham mê nhục dục ngũ trần là một hình thức của ái dục, tức nguyên nhân sanh đau khổ, và như vậy, phải cố gắng giảm bớt và tiêu trừ. 

Thông thường, khi nhìn bề ngoài, ta thấy rằng thân nầy đẹp đẽ và hấp dẫn, rồi ngưng tại đó, không nhìn vào và quan sát một lớp sâu hơn. Pháp hành nầy mổ xẻ, phân tách, nghiên cứu từng bộ phận và thấy rằng cái mà ta gọi là sắc đẹp chỉ là một ảo ảnh, chỉ sâu dầy như một lớp da. Dưới lớp da mỏng manh ấy thì không có gì là hấp dẫn. Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng pháp hành nầy nhằm làm cho ta nhờm gớm hay bất mãn với cơ thể, mà giúp ta thấy đúng sự thật rồi buông bỏ, không luyến ái, không bám níu vào thân, nghĩa là từ từ dập tắt ngọn lửa tham dục bằng cách giảm dần nhiên liệu.

5. Quán tưởng về bốn thành phần chánh yếu (Tứ Đại chánh yếu) cấu thành cơ thể vật chất nầy. Thông thường ta có khuynh hướng xem thân nầy là chính mình, là của mình. Nhưng khi mổ xẻ, phân tách tận tường, ta nhận thức rằng nó chỉ là sự cấu hợp của những nguyên tố đất, nước, lửa, gió, luôn luôn biến chuyển, cũng như những gì vật chất ở quanh ta, thì có gì là "ta", xem như một đơn vị nguyên vẹn, thường còn, không biến đổi, có gì đặc biệt là "của ta".

6. Quán tưởng chín loại tử thi, suy niệm về chín giai đoạn tan rã của xác chết. 

Hành giả tưởng tượng một xác chết lần lần sình thúi và trải qua những giai đoạn tan rã, rồi liên tưởng đến thân mình. Giờ đây khỏe mạnh, đầy sinh lực, nhưng một ngày nào rồi cũng chịu chung một số phận, xuôi chiều theo định luật thiên nhiên. "Thật vậy, thân nầy cũng cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy, và sẽ không thể tránh khỏi trạng thái như vậy.

"Một lần nữa, ta không nên hiểu lầm tác dụng của pháp hành nầy. Đây không nhằm làm cho ta lo sợ chết hay sợ xác chết, mà giúp ta suy niệm rõ ràng thực tướng của sự vật là vô thường và buông bỏ, không núm níu kiếp sinh tồn. Tử thi ở đây là vị thầy đang dỏng dạc nói lên một cách hùng hồn, khẳng định rằng: 

"Tất cả các pháp hữu vi thật không bền vững. Nó có tánh cách sanh diệt là thường, vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh... "

b. Niệm Thọ, hay Thọ Quán Niệm Xứ 

Là chú tâm hay biết vào những cảm giác hạnh phúc hay đau khổ, hoặc vô ký (không-hạnh-phúc-không-đau-khổ), khi những cảm giác ấy vừa sanh khởi. 

Thọ là một tâm sở. Theo (Abhidhamma), Vi Diệu Pháp, tâm sở thọ là một trong bảy tâm sở phổ thông (biến hành), có mặt trong tất cả các loại tâm. Như vậy, mỗi khi chứng nghiệm một loại tâm nào cũng có tâm sở thọ, mạnh hay yếu, rõ ràng rành mạch hay mù mờ, nhưng có sự hay biết là có thọ. Thí dụ như có một hình thể (sắc trần), có mắt (nhãn căn), khi sắc trần tiếp xúc (xúc) với nhãn căn là có nhãn thức. Nhãn thức là sự thấy, sự hay biết hình thể xuyên qua mắt. Một sự hay biết tức là một loại tâm vương, thì trong đó có tâm sở thọ, mạnh hay yếu. Có sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức có sáu loại hay biết: nhãn thức, nhĩ thức v.v... Mỗi lần có sự hay biết, mỗi lần có thức, là có thọ. Tùy theo "xúc" ở căn nào có sáu loại thọ khác nhau. Thọ sanh khởi cùng lúc với thức.

Thọ rất quan trọng, vì do thọ ái phát sanh, và từ đó, liên tục diễn tiến vòng quanh những kiếp sống khổ đau. Thọ có thể phát sanh rõ ràng, dễ nhận ra, có khi kín đáo và mù mờ, tế nhị đến độ có đó mà ta không nhận diện. Thọ lạc thì ta luyến ái rồi chấp thủ, một loại tâm tham. Thọ khổ thì ta bất mãn, buồn phiền, một hình thức của tâm sân. Thọ vô ký thì ta buông trôi, để cho nó mặc tình lôi cuốn, tức ít nhiều có tâm si. 

Tham. sân, si, là căn nguyên từ đó xuất phát tất cả những loại tâm bất thiện. Nhìn theo Thập Nhị Nhân Duyên: ... lục căn tạo duyên cho xúc phát sanh, xúc tạo duyên cho thọ phát sanh, thọ tạo duyên cho ái phát sanh, do ái tạo duyên thủ phát sanh, và do thủ, hữu phát sanh v.v..., cứ thế vòng quanh sanh tử-tử sanh tiếp diễn vô cùng tận.

Thông thường, nếu không có kiểm soát, tiến trình của luồng tâm diễn tiến như thế. Những ưa thích và ghét bỏ của ta phần lớn tùy thuộc nơi trần cảnh và phát sanh hầu như máy móc, một cách tự động. Chúng ta không chủ động mà chỉ phản ứng. Một cảnh đẹp làm cho ta muốn thưởng ngoạn. Một bản nhạc hay làm cho ta muốn nghe. Một thức ăn ngon khiêu gợi lòng muốn ăn v.v... Trong quyển The Simpler Side of the Buddhist Doctrine, Ngài Kassapa Thera viết: "... Từ lâu, giác quan ta đòi hỏi được thỏa mãn. Đã lâu rồi, giác quan ta được phụng sự đầy đủ, và sẽ còn được phụng sự cho đến khi trở thành quá đổi khó chịu. Cái gì phụng sự giác quan? Chính cái tâm phải phục vụ giác quan như người nô lệ phục vụ cùng lúc năm vị hoàng đế khó tánh. Tâm, vị chúa tể, đã bị truất phế, và chính năm tên quân hầu -- năm giác quan -- soán ngôi. Người Phật tử chúng ta có bổn phận phục hồi ngôi vị lại cho tâm, vì tâm là nguồn năng lực duy nhất có thể giúp ta vạch ra và khai triển con đường."

Làm cách nào kềm chế những đòi hỏi của giác quan? Nơi đây là vai trò của pháp hành "Niệm Thọ", hay Thọ Quán Niệm Xứ. Thọ lạc không đương nhiên dẫn đến tâm tham, cũng như thọ khổ không nhất thiết phải dẫn đến tâm sân, và thọ vô ký đến tâm si. Bằng cách vận dụng ý chí, đôi khi ta có thể quyết định loại thọ mà không bị đối tượng chi phối. Khi nhờ niệm thọ ta hay biết kịp thời, nhìn, hiểu biết, và điều khiển nó mà không để nó dẫn đi.

Như có người kia mà từ lâu ta hằng có cảm tình và giúp đỡ, một ngày nọ bỗng nhiên trở mặt mắng nhiếc ta thậm tệ. Lời thô lỗ đến tai, có nhĩ thức. Thông thường, nếu "niệm" không đủ bén nhạy, không nhận thức kịp thời, tức nhiên có đau khổ. Tâm sân liền phát khởi, đưa đến những lời nói hay hành động kém thanh lịch. Nếu có niệm thọ, và nếu "niệm" đủ bén nhạy, vừa hay có thọ khổ và tâm bất mãn khởi sanh ta liền kịp thời suy tư như sau: Lời nói thô lỗ cộc cằn là xấu và sẽ tạo nghiệp bất thiện. Nó là của ai? Không phải của ta. Của người kia. Của họ thì để họ lo, mình không thể giúp gì thì không nên gánh chịu. 

Bây giờ, cái gì là của ta? Phản ứng của ta như thế nào đối với lời nói nặng ấy sẽ là của ta. Trong trường hợp nầy có thể có ba cách phản ứng. 

Một là ăn miếng trả miếng. Họ mắng chưởi mình thì mình mắng chưởi lại. Đó là phản ứng tự nhiên, dễ dàng, thông thường nhất, và đương nhiên đưa đến tâm sân, đau khổ. Hai là nhịn. Ta suy nghĩ rằng lời nói chỉ là những âm thanh. Nếu để những âm thanh ấy lọt vào tâm thì nó sẽ gây phiền giận, đau khổ, mà không lợi ích gì. Hãy để cho nó bay qua như gió thoảng qua màn lưới. ý tưởng ấy sẽ đưa ta đến tâm xả, quân bình, bình thản. Ba là thương hại anh ta. "tội cho cái nghiệp" của anh. Đã gieo nhân bất thiện ắt sẽ gặt quả bất thiện, anh sẽ chịu hậu quả đau khổ mà không biết. Rồi ta rải tâm từ đến anh. Hành động như vậy thì chính ta sẽ hưởng thọ lạc.

Lẽ dĩ nhiên, thái độ thứ nhất là thấp kém và thái độ thứ ba là cao thượng hơn hết, nhưng ít khi ta làm được. Tại sao? Vì niệm của ta chưa đủ bén nhạy để hay biết kịp thời, và tâm từ của ta còn yếu, để cơn giận nổi lên như ngựa chạy điên, có đụng đầu mới chịu ngừng. Nếu niệm của ta đã được rèn luyện thuần thục ắt bén nhạy hơn và sẽ hay biết kịp thời.

Lúc ban sơ trong pháp Niệm Thọ, ta chú tâm hay biết những cảm giác vừa phát khởi và phân biệt rõ ràng bản chất của nó là lạc, khổ, hay vô ký. Ghi nhận loại thọ, nhưng không tự đồng hóa mình với nó, không xem nó là "ta" hay "của ta", hoặc là cái gì xảy đến cho "ta". Thọ chỉ là cảm giác suông. Sự hay biết được giữ ở tầng lớp chỉ ghi nhận thọ, không có lẫn lộn với bất luận cảm giác buồn vui, hay ưa thích, ghét bỏ nào. Đó là ý nghĩa đoạn "niệm thọ trong thọ" trong câu kinh, Chỉ ghi nhận loại thọ -- lạc, khổ, hay vô ký. Hành giả chỉ hay biết có sự hiện hữu của thọ và giác tỉnh theo dõi, nhìn nó tan biến. Lâu ngày tự rèn luyện như thế sẽ đến lúc có thể ghi nhận từng thọ cảm của mình sanh khởi và hoại diệt, diệt rồi sanh. Chỉ có một luồng những thọ cảm diễn tiến vô cùng nhanh chóng. Trong tiến trình sanh diệt ấy không có chi tồn tại, và không có chi có thể là một cái "ta" đơn thuần, nguyên vẹn, tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Không có chi để tham, để sân, hay để si. Không có chi đáng được ưa thích hay ghét bỏ. Không có chi đáng bám níu, hay xua đuổi . Ta hoàn toàn buông bỏ. Cùng lúc ấy niệm của ta sẽ bén nhạy thêm dần và có thể dễ dàng hơn, ngưng lại kịp thời những cảm xúc, những ý nghĩ và những tác ý bất thiện. Ta tinh tấn ngăn ngừa không để những cảm xúc ấy khởi sanh mà buông bỏ, chận đứng "ái" ngay tại đây.

c. Niệm Tâm

Là chỉ chú tâm hay biết về những tư tưởng của mình. Thí dụ như có những tư tưởng tham ái phát sanh, hành giả hay biết có tâm tham; có tâm quảng đại thiên về bố thí, hành giả hay biết có tâm bố thí v.v... Khi những tư tưởng nầy phát hiện, hành giả ghi nhận sự phát hiện. Khi nó tan biến, hành giả hay biết nó tan biến.

Theo Phật Giáo, tâm không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, và không biến đổi, mà là những chặp tư tưởng liên tục nối tiếp trôi chảy. Ngài Nàrada giải thích:

"Theo triết học Phật Giáo, không có khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống rỗng, nghĩa là không có một lúc nào mà không có một loại tâm duyên theo một đối tượng vật chất hay tinh thần. Thời gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là chặp tư tưởng, hay sát-na tâm. Khi một chặp tư tưởng diệt, tức khắc có một chặp mới phát sanh. Như vậy, những chặp tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian tồn tại của một chặp tư tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm được. Mỗi chặp tư tưởng gồm ba giai đoạn, sanh, trụ, và diệt. Ngay khi một chặp tư tưởng vừa trải qua giai đoạn diệt, tức khắc giai đoạn sanh của chặp tư tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi chặp tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng lực và tất cả những cảm giác thâu nhận cho chặp tư tưởng kế tiếp. Một chặp tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chặp tư tưởng trước trao lại, và thêm vào đó có cái gì khác nữa. Như vậy có sự luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi chảy. Chặp tư tưởng mới không hoàn toàn giống như chặp tư tưởng trước, bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi mới, mà cũng không tuyệt đối là khác, bởi vì cả hai đều cùng nằm trong một luồng sống, một dòng đời.

"... Hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng, lầm xem sự liên tục giả tạo như cái gì vững bền, vĩnh viễn, không đổi thay, và còn đi xa đến đổi đưa một linh hồn trường tồn bất biến -- giả định là người vừa hành động, vừa quan sát hành động-- vào trong cái tâm luôn luôn biến đổi."

Khi niệm thọ, ta chú tâm hay biết vào một tâm sở đặc biệt, tâm sở "thọ". Niệm tâm, ta chú tâm hay biết vào tâm vương. Tâm vương gồm 52 tâm sở, trong đó thọ là một. Trong pháp niệm tâm, do những tâm sở liên quan Đức Phật chỉ dạy 16 loại tâm để hành giả chú niệm là : Tâm có tham và tâm không-tham, tâm có sân và tâm không-sân, tâm có si và tâm không-si, tâm uể oải. liên hệ đến dã dượi hôn trầm, tâm loạn động, tâm phát-triển-cao-thượng (tức các loại tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới), tâm không-phát-triển- cao-thượng (tức các tâm thuộc Dục Giới), tâm hữu hạn (tức còn có thể hơn), tâm vô thượng, tâm định, tâm không định, tâm giải thoát, và tâm không giải thoát. 

Dầu tâm trong sạch hay ô nhiễm, ta nên giữ chỉ có sự hay biết rõ ràng mà không phấn khởi kích thích, cũng không chán nản ngã lòng. Chỉ ghi nhận loại tâm, rồi để nó trôi qua, không luyến ái, bám níu, cũng không ghét bỏ, đuổi xua, mà hoàn toàn buông bỏ.

c. Niệm Pháp

Là chú tâm hay biết vào những đối tượng của tâm. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, phần Niệm Pháp chia làm năm phần: Năm pháp triền cái, ngũ uẩn thủ, sáu nội và ngoại xứ, thất giác chi và tứ diệu đế.

Năm pháp triền cái, hay năm chướng ngại cản trở con đường hành đạo là: tham dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu, và hoài nghi.

Trong bộ Samyutta Nikàya Đức Phật dạy: "Có năm chướng ngại làm hoen ố tâm. Do các chướng ngại nầy, tâm không ôn thuận, không mềm dẽo, không sáng suốt, không thể được phân tách dễ dàng, cũng không thể được cấu hợp hoàn bị để tiêu trừ ô nhiễm."

Người hành thiền phải hay biết rõ ràng mỗi khi nó phát sanh và khi nó hoại diệt. Để dễ dàng kiểm soát, hành giả phải hiểu rõ năm chướng ngại tinh thần khởi phát như thế nào, phải làm thế nào cho nó tan biến, và làm thế nào để ngăn ngừa, không cho nó sanh khởi trong tương lai.

Ngũ Uẩn Thủ là chấp thủ rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là "ta", là "của ta" rồi cố bám vào. Hành giả chú tâm hay biết vào sự khởi sanh và sự phân tán của từng uẩn và nhận thức rằng nó luôn luôn biến đổi, không có thực chất, và không có uẩn nào là "ta" và "của ta".

Bộ Samyutta Nikàya, Tạp A-Hàm, ghi lại lời Ngài Sàriputta (Xá Lợi Phất) khuyên dạy cụ già Nakulapità như sau:

"Người không phân biện Giáo Pháp rõ ràng, không tu tập theo lời dạy của Giáo Pháp, xem thân (sắc) nầy là tự ngã của mình, thấy tự ngã của mình nằm trong thân, thân là tự ngã. Người ấy nói, "Tôi là thân nầy, thân nầy của tôi", và ý tưởng ấy thâm nhiễm lâu ngày, nhiều kiếp như vậy. Đến khi thân thể biến đổi, tàn tạ, và ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật vô thường, bất ổn định, dính liền với mọi sự vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn rầu, âu sầu, đau khổ. Người ấy ta thán, than van, tuyệt vọng.

"Người ấy xem thọ, tưởng, hành, thức, là tự ngã, xem chính mình nằm trong thọ, tưởng, hành, thức, hoặc xem thọ, tưởng, hành, thức, nằm trong chính mình và nói, "chính ta là ngũ uẩn, ngũ uẩn là ta, cái nầy là thọ, tưởng, hành, thức, của ta. Và cứ thế, ý niệm tự đồng hóa với ngũ uẩn thâm nhiễm người ấy. Do đó, khi thọ, tưởng, hành, thức biến đổi, vì bản chất của nó là bất ổn định và luôn luôn biến đổi, thì người ấy buồn rầu, ta thán, âu sầu và tuyệt vọng..."

Và Ngài dạy tiếp:

"...Người được giáo dục đầy đủ, người có tu tập thuần thục trong Giáo Pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy không xem sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong năm uẩn ấy. Người ấy không bị ý niệm kia thâm nhiễm và không nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là tôi, tôi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì không thâm nhiễm những ý nghĩ sai lạc ấy, khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức biến đổi, người ấy không âu sầu, phiền muộn v.v..."

Sáu nội xứ và sáu ngoại xứ, tức là lục căn và lục trần. Hành giả chú niệm và hiểu biết nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; hiểu biết sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp và hiểu biết dây trói buộc nào trong mười thằng thúc, phát sanh tùy thuộc nơi nội và ngoại xứ nào; hành giả hiểu biết một thằng thúc chưa phát sanh sẽ phát sanh như thế nào; hành giả hiểu biết sự dứt bỏ một thằng thúc đã phát sanh như thế nào; và hành giả hiểu biết sự không phát sanh trở lại trong tương lai, một thằng thúc đã bị dứt bỏ là thế nào. 

Thất Giác Chi, là: niệm, trạch pháp, tinh tấn, phỉ, an, định, và xả. Mỗi khi một trong bảy yếu tố của giác ngộ nầy khởi phát, hành giả liền ghi nhận rồi quán trạch, khảo sát, khám phá xem nó khởi phát như thế nào, và trở nên lớn mạnh như thế nào. Khi mới phát sanh, giác chi niệm còn yếu ớt. Dần dần, nhờ công phu tu tập của hành giả, niệm trở nên vững mạnh. Khi niệm kiên cố vững mạnh, giác chi trạch pháp hoạt động, khảo sát, tìm hiểu. Trạch pháp làm khởi dậy tinh tấn, tinh tấn đưa đến phỉ, phỉ đến an, an đến định, và định đưa đến xả. Toàn thể tiến trình đưa đến giác ngộ bắt đầu bằng niệm, và niệm là năng lực hỗ trợ trên suốt con đường.

Tứ Diệu Đế. Nơi đây hành giả hiểu biết đúng theo thực tại, "đây là khổ"; đúng theo thực tại, hiểu biết "đây là nguồn gốc của khổ"; đúng theo thực tại hiểu biết, "đây là sự chấm dứt đau khổ", và đúng theo thực tại, hiểu biết , "đây là con đường đưa đến chấm dứt đau khổ". 

*

Tâm chứa đựng những tiềm năng vô cùng hùng mạnh, những xu hướng thiện cũng như bất thiện mà, khi hội đủ cơ duyên, có thể bộc phát một cách bất ngờ, bất luận lúc nào. 



Chánh Tinh Tấn là nỗ lực ngăn chận và diệt trừ ác pháp, đồng thời phát triển và củng cố thiện pháp. Tuy nhiên, để nỗ lực hữu hiệu, tâm phải hay biết kịp thời lúc tư tưởng thiện hay bất thiện sắp sửa hoặc vừa phát hiện. Đó là nhiệm vụ của Chánh Niệm. Như tên lính canh, từng phút từng giây, từng khoảnh khắc trong cái hiện tại vĩnh cửu, luôn luôn canh phòng nghiêm nhặt. Quân thù cũng như bạn lành, có thể xuất đầu lộ diện bất cứ lúc nào. Canh phòng và phát giác ra bạn hay thù là Chánh Niệm. Ngăn chận quân gian không cho vào thành, hay đánh đuổi những kẻ thù đã lọt được vào thành và đàng khác đón tiếp bạn lành vào, hay cố giữ bạn lành trong thành là Chánh Tinh Tấn.



tải về 0.58 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương