PhÇn 2 PhÇn c¸c b¸o c¸o


Đường lối độc lập tự chủ của nhà Nguyễn



tải về 2.63 Mb.
trang19/24
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.63 Mb.
#18788
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   24

3. Đường lối độc lập tự chủ của nhà Nguyễn

Ở trên, chúng ta đã thấy các vua nhà Nguyễn tiếp nhận thể chế triều cống của nhà Thanh vì các lý do về mặt chính trị, kinh tế, văn hoá,… Dù là vì lý do gì thì trong trường hợp này, triều Nguyễn với tư cách là nước thuộc địa, những người đứng đầu nhà nước phải xưng là hạ thần đối với vua nhà Thanh. Tuy nhiên, đó chỉ là hình thức bên ngoài, còn thực chất họ nghĩ rằng mình bình đẳng với nhà Thanh.

Các vua nhà Nguyễn và tầng lớp trí thức tôn trọng văn hoá Trung Quốc và cố gắng để mô phỏng những điều đó, nhưng đối với triều Thanh hay người nước Thanh thì không hề có sự tôn trọng của kẻ dưới chút nào. Đó là lý do khiến nhà Nguyễn gọi nhà Thanh là Bắc triều hay Thanh quốc, gọi người nước Thanh là Bắc nhân hoặc Thanh nhân. Ngoài ra, có nhiều khi nhà Nguyễn gọi người Trung Quốc là Đường nhân. Tôi cho rằng, phải chăng đó là vì thái độ miệt thị do nhà Thanh được lập nên bởi dân tộc khác với dân tộc của người Trung Quốc? Chính vì vậy, người Việt Nam tuyệt nhiên không biết đến khái niệm “thiên hạ” hay “thiên tử” kiểu Trung Quốc470. Mặt khác, vua Gia Long gọi Việt Nam là “Trung Quốc” và áp dụng khái niệm người Trung Quốc truyền thống với nước mình 471.

Trong quan hệ với nhà Thanh, triều Nguyễn chính thức sử dụng thuật ngữ “triều cống”, nhưng về mặt đối nội, như tôi đã đề cập đến ở trên, gọi đó là “bang giao”, dùng chữ “như” (如 trong trường hợp này nghĩa là “đi”) trong cụm từ “sứ giả đi sứ nước Thanh” gọi là “như Thanh sứ”. Bang giao chỉ có nghĩa là quan hệ ngoại giao thuần tuý giữa nước này và nước khác, không tồn tại quan niệm trên – dưới. Không chỉ đối với quan hệ của mình với nhà Thanh, nhà Nguyễn cũng nhìn quan hệ giữa các triều đại Việt Nam trước đây với Trung Quốc là “bang giao”. Điều này có thể thấy trong Bang giao lục do Lê Thống biên soạn năm 1819472. Sách này tập hợp bắt đầu từ chiếu thư Hán Vũ đế gửi cho Triệu Đà của Nam Việt đến các loại công văn giữa hai nước, tất nhiên cả thơ văn mà các sứ thần hai nước tặng đáp nhau đến năm 1826.

Thuật ngữ “bang giao” được bắt đầu sử dụng lần đầu tiên vào thời Tây Sơn, đến triều Nguyễn thì hoàn toàn thông dụng. Nhưng tôi cho rằng, việc Lê Thống nhìn quan hệ giữa tất cả các vương triều trước đây với Trung Quốc bằng khái niệm “bang giao” là chính xác. Bởi vì, các đời vua trước đây kể từ khi Đinh Bộ Lĩnh lập nên triều Đinh (966 – 980) năm 966, tuy được hoàng đế Trung Quốc sắc phong nhưng trong nước đều xưng là hoàng đế và đều sử dụng niên hiệu riêng giống như trường hợp của triều đình nhà Nguyễn473. Ngay cả việc lấy quốc hiệu cũng không cần sự công nhận của hoàng đế Trung Quốc. Không những thế, khi cử sứ thần sang Trung Quốc cũng dùng chữ “như” (如 – đi), gọi là như Tống, như Nguyên, như Minh, còn chữ “cống” (貢) thì trong Đại Việt sử ký toàn thư tuyệt nhiên không tìm thấy bất cứ một chữ nào474. Nếu có từ “nhập cống” (入貢) thì chỉ được dùng trong trường hợp các nước xung quanh Việt Nam như Champa hay Chân Lạp (Campuchia ngày nay),… cử sứ giả sang Việt Nam.

Tất cả các vị vua và quan lại trước đây đều nghĩ rằng mình bình đẳng với Trung Quốc và không hạ mình. Một nhân vật tiêu biểu trong số đó là Lê Văn Hưu, sử gia nổi tiếng ở nửa sau thế kỷ XIII. Khi quân Mông Cổ xâm lược, ông biên soạn Đại Việt sử ký với vấn đề trọng tâm là nền độc lập của triều đình Việt Nam và tính bình đẳng với Trung Quốc. Ông đã lấy thời điểm bắt đầu lịch sử Việt Nam là Nam Việt của Triệu Đà để viết sử ký. Bởi sau khi thống nhất Trung Hoa, Hán Cao Tổ định cử sứ thần sắc phong ngôi vua cho Triệu Đà, Triệu Đà đã tỏ thái độ bình đẳng bằng câu hỏi: “Ta và Hán Cao Tổ, ai anh minh hơn?”475. Đồng thời, theo sử gia Lê Văn Hưu, sau khoảng một nghìn năm bị Trung Quốc chi phối, Việt Nam bước vào thời kỳ độc lập, song không phải từ khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938 rồi tự xưng vương vào năm sau đó, mà là năm 966, sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân, thống nhất đất nước và lên ngôi vua. Bởi theo ông, Ngô Quyền đã tự xưng vương nên không thể coi đó là nền độc lập thực sự476.

Một ví dụ khác thường được lấy để minh chứng cho sự bình đẳng của Việt Nam đối với Trung Quốc trong giai đoạn trước cận đại, là Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1427477. Bài cáo này phân biệt Việt Nam là Nam và Trung Quốc là Bắc, đồng thời nhấn mạnh rằng, giống như Trung Quốc lập đế quốc ở phía bắc, Việt Nam trước đây cũng lập quốc ở phía nam do nhà vua cai trị. Có thể nói ngắn gọn rằng, Việt Nam là một quốc gia riêng biệt, bình đẳng với Trung Quốc.

Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Nguyễn Đăng Khải, một đại thần của triều đình lúc bấy giờ, đã dâng sớ lên nhà vua yêu cầu cải thiện quan hệ triều cống với nhà Thanh. Bức sớ có nội dung: Việc nhà vua đi đến Hà Nội để được nhà Thanh sắc phong làm tốn nhiều tiền bạc của dân chúng vào việc đi lại của nhà vua và có liên quan đến thể diện quốc gia nên về sau mong rằng sứ thần nhà Thanh sẽ đến kinh sư (Huế) để làm việc đó478. Điều này có nghĩa là, dù được sắc phong cũng sẽ ngồi một chỗ để nhận. Có thể nói, kiến nghị của Nguyễn Đăng Khải liên quan mật thiết với không khí bình đẳng của người Việt Nam được đề cập ở trên.

Vì Nguyễn Đăng Khải là kẻ dưới nên có thể thẳng thừng bày tỏ sự bất mãn của mình về quan hệ triều cống bất bình đẳng với nhà Thanh, nhưng đứng trên lập trường của các vị vua thì không thể có sao nói vậy. Nói như vậy, không có nghĩa các vị vua này tiếp nhận thể chế triều cống nhà Thanh và chịu ngồi yên. Điều này có thể thấy qua việc Nguyễn Phúc Ánh không hề hỏi ý kiến nhà Thanh trong việc lấy tước vị hoàng đế và niên hiệu. Tuy nhiên, việc xin nhà Thanh công nhận quốc hiệu là để tránh cái tên An Nam xuất phát từ An Nam Đô hộ phủ của nhà Đường đến thời điểm đó. Nhưng nhà Thanh không chấp thuận tên Nam Việt mà nhà Nguyễn yêu cầu, còn nhà Nguyễn vì quan hệ hữu hảo giữa hai nước mà chấp thuận quốc hiệu Việt Nam song có vẻ không thoải mái cho lắm. Bởi đến năm 1812, nhà Nguyễn không thông báo cho nhà Thanh mà lại sửa lại quốc hiệu thành Đại Việt479.

Lúc ấy, cái tên Đại Việt được viết trong Quốc sử di biên với từ lại, có lẽ là có liên quan đến việc Nguyễn Phúc Chu là tổ tiên của Nguyễn Phúc Ánh, năm 1709 đã cho đúc ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bảo”480. Vốn dĩ Đại Việt là tên Đại Cồ Việt do Đinh Bộ Lĩnh đặt, về sau vua Thánh Tông của triều Lý năm 1054 bỏ chữ Cồ, chỉ còn là Đại Việt, và trở thành quốc hiệu của các triều đại sau này. Đây là tên tự đặt, không được Trung Quốc công nhận, do vậy, người Trung Quốc gọi Việt Nam là An Nam.

Đến đời vua Minh Mạng ngay sau đời vua Gia Long, năm 1838, lại đặt tên nước là Đại Nam và quyết định áp dụng từ năm sau đó481. Lý do là lãnh thổ của triều đình kéo dài tới Nam Hải, hình thành nên đại đế quốc nên phải có tên mới phù hợp hơn. Đồng thời, ông nói rằng: “Có nhiều tiền lệ lấy quốc hiệu bằng tên đẹp, ví dụ như trường hợp nước Thanh vốn là Mãn Châu sau được đổi thành Đại Thanh”. Cách giải thích của ông hết sức lôgíc. Tôi cho rằng, thực ra việc nhà Thanh mà ông không ưa chút nào gọi bằng cái tên Đại Thanh đã gây tác động đến ông và ông đặt tên nước Đại Nam từ tâm lý đối kháng. Năm sau, ông cho làm ấn “Đại Nam thiên tử chi tỷ” bằng ngọc giống như ấn ngọc của vua Trung Quốc và tất nhiên nó được sử dụng vào tất cả các văn bản trong nước, cả các văn bản ngoại giao với nước ngoài khác (trừ nhà Thanh)482. Còn vua Thiệu Trị thì cho làm ấn “Đại Nam hoàng đế chi tỷ” và ra lệnh dùng trong chiếu lệnh 483.

Với việc vua Minh Mạng lấy quốc hiệu mới, sau này tất cả các sách được biên soạn theo lệnh vua đều cho vào hai chữ Đại Nam. Ví dụ như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam hội điển sự lệ,… Dù biết nhà Nguyễn sử dụng quốc hiệu Đại Nam thay cho quốc hiệu Việt Nam mà mình cho phép nhưng nhà Thanh làm ngơ, không can thiệp484. Có nhiều khả năng lớn là do triều đình nhà Thanh bại trận trong cuộc chiến tranh Nha phiến và vụ thương thuyền Arrow hoặc do những vấn đề nội bộ như vụ loạn Thái Bình thiên quốc nên không rảnh rang để can thiệp đến Việt Nam. Việc sứ giả không qua lại giữa hai nước trong vòng mười sáu năm xảy ra loạn Thái Bình thiên quốc là minh chứng cho điều này.

Có lẽ cho dù không phải là do vấn đề đối nội, đối ngoại thì nhà Thanh cũng đã không can dự vào việc của nhà Nguyễn. Không biết có phải do suy thoái nhanh chóng từ cuối thế kỷ XVIII ngay trước khi triều Nguyễn được dựng lên hay không mà nhà Thanh không trọng thị Việt Nam bằng Lưu Cầu như nhà Minh, nên thứ tự các nước thuộc địa trong Thanh sử cảo mới như vậy. Thực tế này có thể thấy qua sứ giả tuyên phong được cử đến hai nước, sứ được gửi đến Lưu Cầu là quan triều đình trung ương, còn sứ được cử đến nhà Nguyễn đều là quan địa phương, Án sát sứ của tỉnh Quảng Tây485. Việc nhà Thanh giao vấn đề nhà Nguyễn cho quan địa phương đã làm cho quan hệ hai nước trở nên xa cách.

Quan hệ xa cách giữa hai nước khiến nhà Thanh không hiểu biết về tình hình Việt Nam. Một ví dụ tiêu biểu là trong giai đoạn chiến tranh Nha phiến, người Trung Quốc truyền nhau tin đồn rằng, năm 1808, Việt Nam đã đại thắng trong cuộc chiến với nước Anh, một cuộc chiến không hề xảy ra. Người Trung Quốc tin chắc vào tin đồn này, không chỉ coi nhẹ quân đội Anh mà còn bàn luận một cách nghiêm trọng rằng nên nhập và dùng quân hạm Việt Nam để đối kháng với hải quân Anh486. Cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Anh được làm sáng tỏ là không xảy ra, nhưng dù sao, việc không hiểu biết về tình hình Việt Nam và không can thiệp vào Việt Nam của nhà Thanh cũng đã giúp nhà Nguyễn đẩy mạnh tính độc lập tự chủ và ý thức bình đẳng vốn có với nhà Thanh.

Như tôi đã trình bày ở trên, vì người Việt Nam tuy tiếp nhận văn hoá Trung Hoa nhưng cũng gây dựng được văn hoá của dân tộc mình, nên họ nghĩ rằng không những bình đẳng đối với dị tộc chi phối đại lục Trung Quốc mà thậm chí nền văn hoá của mình còn ưu việt hơn. Qua việc nhà Nguyễn gọi người Trung Quốc là Đường nhân có thể thấy là thái độ miệt thị người nhà Thanh. Những ví dụ sau sẽ cho thấy rõ người Việt Nam miệt thị người nhà Thanh như thế nào. Vua Hy Tông của triều Lê (1675 – 1705), vua trước khi triều Nguyễn được lập nên, vào năm 1696 đã hạ lệnh, tất cả người Trung Quốc vào Việt Nam phải thay đổi từ kiểu tóc, ăn mặc,… theo kiểu Việt Nam. Lý do là vì ngoại hình của họ theo “phong tục Mãn Châu” gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của Việt Nam487.

Ý thức đối kháng cũng như thái độ phê phán của triều Nguyễn với nhà Thanh còn ở mức độ cao hơn, đến mức các đời vua thường gọi dân chúng của mình là Hán nhân hoặc Hán dân. Họ coi nhà Thanh là di địch và đương nhiên đồng nghĩa với việc chỉ có dân tộc mình là dân tộc văn hoá. Đặc biệt, sự tự hào về văn hoá của vua Minh Mạng rất lớn. Năm 1830, ông nói với các quan rằng, nếu theo Thanh hội điển thì áo mão của quan lại trong triều đình đang theo phong tục man di, khác với trang phục của cổ nhân, nên hạ lệnh không để chuyện bắt chước vô lối đó xảy ra488. Không những thế, trong văn thơ, vua Minh Mạng cũng lấy lòng tự hào để bình thơ của vua Càn Long. Năm 1835, trong khi bình thơ với các quan, vua Minh Mạng nói về thơ của Càn Long rằng, thơ thì nhiều nhưng chỉ tả cảnh, tả tình mà không trau chuốt lời thơ và gọi đó là một khiếm khuyết489. Dưới thể chế triều cống, việc vua của nước thuộc địa phê phán chế độ Trung Quốc, phê bình thơ của vua là điều không thể tưởng tượng nổi. Sở dĩ vua Minh Mạng có thái độ này là vì các đời vua nhà Nguyễn đều coi thường chế độ, văn hoá nhà Thanh và tự coi chỉ có mình là người kế thừa chân chính của văn hoá Trung Quốc490.

Sự coi thường nhà Thanh của các vua triều Nguyễn có thể thấy là có liên quan đến sự suy yếu toàn diện của nhà Thanh. Tháng 4 năm 1840, vua Minh Mạng nói về triển vọng chiến tranh Nha phiến như sau: “Sự suy yếu của triều Thanh ta đã biết trước. Năm ngoái, quân Anh đi lại rất lâu giữa các đảo ở vùng bờ biển Quảng Đông nhưng ta không nghe thấy nhà Thanh có đối sách gì, hay cho bất cứ một con tàu nào ra tấn công. Nếu quân Anh lại đến tấn công, nước Thanh sẽ không chống đỡ nổi. Nhà Thanh sẽ luận tội Lâm Tắc Từ và đầu hàng quân Anh”491. Dự đoán của Minh Mạng là chính xác, Lâm Tắc Từ bị cách chức, người kế nhiệm được cử thay. Tôi tin rằng, vua Minh Mạng có thể dự đoán được điều này nhờ có Sứ trình nhật ký được viết bởi các sứ thần đi sứ nhà Thanh và thông tin từ các nguồn khác.

Sự suy yếu của nhà Thanh đến thời vua Tự Đức càng làm cho Việt Nam đẩy mạnh các hành động tự chủ. Không nói đâu xa, ngay ở giai đoạn đầu khi Pháp xâm lược, vua Tự Đức đã không thỉnh cầu bất cứ sự giúp đỡ nào của nhà Thanh. Như đã biết, năm 1858, Pháp bắt đầu xâm lược Trung Bộ Việt Nam; năm sau, năm 1859, chiếm tỉnh Gia Định ở Nam Bộ; đến đầu năm 1862 thôn tính cả ba tỉnh miền Đông. Vua Tự Đức không thông báo cho nhà Thanh, tự ký Hiệp ước Sài Gòn lần thứ nhất với Pháp (tên khác là Hiệp ước Nhâm Tuất) nhượng ba tỉnh này. Pháp càng lấn tới, đến năm 1867, chiếm luôn ba tỉnh miền Tây, thực dân hoá toàn bộ vùng đất Nam Bộ. Quan hệ giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh từ đầu những năm 50 của thế kỷ XIX đến thời điểm đó, không rõ có phải bởi các sứ giả không qua lại do vụ loạn Thái Bình thiên quốc hay không mà cả hai lần Pháp xâm lược, vua Tự Đức đều không hề nghĩ đến việc cầu viện nhà Thanh.

Sự xâm lược của Pháp không dừng lại ở đây. Với mục đích chiếm Bắc Bộ, năm 1873, Pháp viện cớ vụ Jean Dupuis cử Francis Garnier sang. Francis Garnier mang theo một số ít binh lính đánh đổ Hà Nội, tiếp đó chiếm các đô thị chính của vùng Đông Kinh như Hưng Yên, Hải Dương và Nam Định, chưa được bao lâu thì tử trận vì sa vào trận địa mai phục. Lúc bấy giờ, do tình hình trong nước nên Pháp không còn đủ lực để mở rộng chiến tranh, sau khi thoả thuận với triều đình Huế, đã ký Hiệp ước Sài Gòn lần thứ hai nói trên. Lúc này, vua Tự Đức đương nhiên cũng không có ý định cầu viện nhà Thanh và thậm chí không thông báo cả nội dung điều ước này. Khác với thời điểm những năm 60 của thế kỷ XIX, lúc bấy giờ, các sứ giả đã lại qua lại nhà Thanh. Tôi cho rằng, thái độ này của nhà Nguyễn có thể có liên quan đến sự bất lực của quân đội nhà Thanh trong việc tiêu diệt lực lượng còn lại của Thái Bình thiên quốc.

Trước vụ Garnier, hai tướng còn sót lại sau khi Thái Bình thiên quốc bị đàn áp là Ngô Côn và Hoàng Sùng Anh kéo theo đồng đảng chạy trốn về phía bắc Đông Kinh, khi ấy nhà Nguyễn đã cầu viện nhà Thanh. Nhưng quân thảo phạt của nhà Thanh không những không trấn áp được bọn họ, thậm chí còn làm hại cả nông dân địa phương. Nhà Nguyễn đã phong quan cho Lưu Vĩnh Phúc là bộ hạ của Ngô Côn sau khi Ngô Côn chết, xây dựng chiến lược nhằm tiêu diệt thế lực khác và đã thành công. Việc này cho thấy, rõ ràng vua Tự Đức đã nhận thức được rằng, không thể dựa vào nhà Thanh và quyết định tự giải quyết vấn đề. Có thể nói rằng, đây là quyết định đương nhiên khi nhà Nguyễn chỉ công nhận thể chế triều cống của nhà Thanh về mặt hình thức.

Trung Quốc bị chi phối bởi dị tộc là triều Thanh. Khi nhà Nguyễn được sáng lập, quan hệ tự chủ đối với nhà Thanh, do lòng tự hào về văn hoá của người Việt từ sự suy thoái nhanh chóng của nhà Thanh mang lại, không chỉ dừng lại ở đây. Lòng tự hào này đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc tạo nên trật tự thế giới khu biệt với các đế quốc xung quanh. Một học giả Nhật Bản gọi trật tự thế giới này là thế giới quan được sản sinh từ “đế quốc Trung Hoa ở phương Nam”492. Trật tự thế giới của nhà Nguyễn mô phỏng thể chế triều cống của Trung Quốc nên gọi là “đế quốc Trung Hoa ở phương Nam” là có lý, nhưng cách gọi này làm người ta liên tưởng đến cách thường gọi Việt Nam là “tiểu Trung Hoa” (Little China) đến đầu những năm 50 của thế kỷ XX nên cách gọi này không phù hợp. Vậy dùng thuật ngữ “trật tự của đế quốc Đại Nam” mà người viết đã sử dụng trước đây thì thế nào493? Vì dù rằng, việc nhà Nguyễn tiếp nhận chế độ và văn hoá Trung Quốc là thật đi chăng nữa thì Việt Nam cũng là một quốc gia độc lập chứ không phải là một phần của Trung Quốc. Việc vua Minh Mạng hay vua Thiệu Trị sử dụng ấn ngọc có khắc chữ “Đại Nam” trong các văn tự ngoại giao với các nước láng giềng ở trên càng khiến tôi có suy nghĩ như vậy.

Việt Nam đối xử với các nước nhỏ xung quanh bằng khái niệm Hoa Di kiểu Trung Quốc từ khi độc lập với Trung Quốc chưa được bao lâu. Năm 994, người sáng lập nên triều Tiền Lê (980 – 1009), vua Lê Hoàn đã viện cớ vua Champa vô lễ, từ chối triều cống của vua Champa494. Trong khi đó vào năm 1012, khi vua Lý Thái Tổ mới lên ngôi, sử có ghi lại rằng, nước Chân Lạp (Campuchia hiện nay) đã đến triều cống. Sau này cũng vậy, các đời vua tiếp tục mang tính ưu việt của chính trị, văn hoá trị vì các nước xung quanh nhưng không mang hình thái thể chế. Tới đời nhà Nguyễn, đặc biệt ở đời vua Minh Mạng, khái niệm trật tự thế giới mới được cụ thể hoá hoàn toàn. Trong Minh Mệnh chính yếu ghi lại ý niệm chính trị của vua Minh Mạng, có thể thấy lần đầu tiên có một mục riêng giải thích về quan hệ với các nước xung quanh là “nhu viễn”. Tiếp đó, trong Đại Nam hội điển sự lệ được phát hành năm 1855, ngoài “bang giao” liên quan đến nhà Thanh, điều khoản “nhu viễn” cũng được ghi riêng.

Khái niệm “nhu viễn” được sử dụng lần đầu là vào đời vua Gia Long. Năm 1815, vua Gia Long có trong tay mười ba nước là nước triều cống viễn phương. Đó là các nước Hồng Mao (Anh), Vạn Tượng (Viên Chăn), Nam Chưởng (Luông Pha Băng), Trấn Ninh (cao nguyên ở đông Lào), Miến Điện (Myanmar), Phú Lãng Sa (Pháp) và Hoả Xá quốc, Thuỷ Xá quốc ở tỉnh Gia Lai hiện nay (thuộc cao nguyên Trung Bộ Việt Nam),… Tuy nhiên, nếu tính cả Cao Miên (Campuchia hiện nay) thì thực ra là mười bốn nước. Sở dĩ như vậy là vì có một câu ghi lại rằng, sau khi nhà Nguyễn liệt kê các nước trên, Cao Miên đã dâng bát vàng và gọi vua Gia Long là Thiên Hoàng đế495. Các nước này đến Việt Nam và dâng cống vật. Giống như các đời vua của Trung Quốc, vua Gia Long cũng tin rằng các nước này cũng ngưỡng mộ đức độ và công nhận quyền uy của mình nên mới như vậy. Có thể lấy ký sự sau trong Quốc sử di biên làm cơ sở củng cố lòng tin này của vua Gia Long: “Trước đức độ và uy thế của vua Minh Mạng, các nước láng giềng như Myanmar, Viên Chăn, Luông Pha Băng, Hoả Xá quốc,… và đến cả những nước man di của phương Tây như Anh, Pháp mà nhà Thanh và Thái đều khiếp sợ cũng đến thần phục”496. Tóm lại, điều mà các vua nhà Nguyễn muốn thể hiện chính là tính ưu việt về văn hoá của mình đối với các nước xung quanh. Chẳng hạn, “Cao Miên” là từ mà Trung Quốc gọi Campuchia, nhà Nguyễn đã sửa thành “Cao Man” và ghi lại trong phần Ngoại quốc liệt truyện trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập497. Mặt khác, tính ưu việt về văn hoá của họ còn được thể hiện bằng trách nhiệm và nghĩa vụ phải giáo hoá man di bằng lễ nghĩa. Chính vì vậy, Hoả Xá quốc tuy không có chữ viết nhưng phong tục thuần phác nên năm 1834, vua Minh Mạng đặt tên cho tộc trưởng là “Vĩnh Bảo” và địa vị trong thể chế triều cống cũng phong là vua498.

Trật tự đế quốc Đại Nam vì mô phỏng thể chế triều cống của Trung Quốc nên tất nhiên cũng đã đặt ra những quy định tương tự của thể chế ấy đối với các phiên quốc. Cho nên, khi nào, bao giờ phải cử sứ giả triều cống, phải dâng lễ vật gì, sứ giả gồm mấy người, dừng chân ở đâu,… được quy định rất chi tiết. Đáp lại các đoàn triều cống, triều Nguyễn cũng ban các loại vật phẩm tương xứng theo cấp của phiên quốc.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trật tự đế quốc Đại Nam chỉ là suy nghĩ đơn phương của triều đình nhà Nguyễn, hơn cả chế độ triều cống Trung Quốc, bởi Việt Nam là nước nhỏ đến mức không thể so sánh với Trung Quốc. Những người đứng đầu nhà Nguyễn nhận thức được điều này và cố gắng nâng cao quyền lực đế quốc bằng việc có được càng nhiều các nước phụ thuộc trong khả năng có thể. Chính vì vậy, họ gọi hai bộ tộc mà bản thân họ cũng không phân biệt được, Thuỷ Xá và Hoả Xá499 là quốc gia. Như vậy, có lẽ không sai khi cho rằng vua Gia Long liệt kê các nước Anh, Pháp, cả Myanmar là nước triều cống năm 1815 cũng xuất phát từ mạch này. Lúc bấy giờ, thậm chí Myanmar chưa hề có bất cứ tiếp xúc nào với nhà Nguyễn cho đến năm 1822 – 1823. Nhân việc thấy thương thuyền của Việt Nam qua lại năm 1822, năm sau, lần đầu tiên Myanmar cử sứ giả sang Việt Nam, mục đích là thỉnh cầu nhà Nguyễn đoạn tuyệt ngoại giao với Thái. Thỉnh cầu này xuất phát từ suy nghĩ quan hệ bình đẳng của mình với nhà Nguyễn chứ không phải đứng trên lập trường của nước triều cống500.

Trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Thái cũng được phân loại là quốc gia cùng nhóm với Hoả Xá, Thuỷ Xá, nhưng đây cũng chỉ là suy nghĩ của nhà Nguyễn. Năm 1809, vua Thái gửi thư sang thông báo phụ hoàng qua đời. Các quan thấy lời lẽ trong thư rất ngạo mạn nên định không nhận, nhưng vua Gia Long nói rằng vì họ không biết chữ Hán, không hiểu biết nên mới như vậy, và thấy rằng mình ưu việt hơn nên cho phép tiếp nhận501. Trong các bức thư khác của vua Thái gửi đều gọi vua Gia Long là “Việt Nam quốc Phật vương”, tức vua Phật giáo của Việt Nam nhưng ông vẫn nhận mà không có ý kiến gì 502. Xét cho cùng, có thể thấy, vì trên thực tế công nhận Thái là một quốc gia bình đẳng nên Việt Nam nhận thức được rằng, không thể xung đột với nhau chỉ vì hình thức của một bức thư.

Nếu có nước triều cống theo đúng nghĩa ở thời nhà Nguyễn thì chỉ có các nước Viên Chăn và Luông Pha Băng thuộc Lào và Campuchia hiện nay. Năm 1807, vua Campuchia là Ang Chan được vua Gia Long phong là Cao Miên quốc vương, đồng thời vua Gia Long cũng quy định triều cống ba năm một lần503. Nhưng sau đó, do tranh chấp ngôi vua liên miên, Campuchia bị chia thành các phe phái. Phe thì dựa vào Thái, phe khác dựa vào Việt Nam nên qua lại triều cống cả hai nước đến năm 1863 thì rơi vào sự bảo hộ của Pháp. Quốc vương của Viên Chăn là Chao Anou là nhân vật có tài, muốn thoát ra khỏi sự lệ thuộc của Thái từ bấy đến nay nên đã gây ra cuộc chiến năm 1827 nhưng thất bại thảm hại, phải thỉnh cầu sự giúp đỡ của nhà Nguyễn. Vua Minh Mạng chấp nhận lời thỉnh cầu, cho quân yểm hộ Chao Anou về Viên Chăn. Chao Anou lại bị Thái gây áp lực phải chạy về Trấn Ninh và bị vua của Trấn Ninh là Chao Noi dẫn độ sang Thái. Vương quốc Luông Pha Băng vốn không có quan hệ gần gũi với Việt Nam nhưng khi thấy quốc vương Viên Chăn bị tiêu diệt đã nhận thấy rằng cần có thế lực có thể chống lại Thái, nên năm 1831 và 1833 đã cử sứ giả sang nhà Nguyễn triều cống, thế nhưng vẫn không hoàn toàn thoát khỏi phạm vi thế lực của Thái504.

Có thể nói rằng, trật tự đế quốc Đại Nam là trật tự không hoàn chỉnh đến mức không thể so sánh với trật tự thế giới kiểu Trung Hoa. Mặc dù vậy, điều đáng lưu ý là việc nhà Nguyễn lập nên trật tự thế giới khu biệt của riêng mình có ý nghĩa rất lớn trong việc đối kháng với nhà Thanh.



4. Lời kết

Ngô Sỹ Liên, người biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, đã than về việc Lý Phật Tử (Lý Phật Tử lên ngôi sau cái chết của Lý Bôn, người đã gây dựng cuộc khởi nghĩa năm 541 chống lại sự chi phối của Trung Quốc) hàng phục nhà Tuỳ như sau: “Sự cường nhược của Nam Bắc đều có lúc. Nếu phương Bắc yếu thì ta mạnh, nếu phương Bắc mạnh thì ta yếu, ấy là đại thế thiên hạ”505.

Khác với thời của Lý Phật Tử, khi nhà Nguyễn được lập nên, Việt Nam mạnh và triều Thanh của Trung Quốc yếu. Mặc dù vậy, các vua của vương triều mới vẫn công nhận thể chế triều cống của nhà Thanh và nhận sắc phong của nhà Thanh. Tôi cho rằng, việc nhận sắc phong như vậy là vì nhà Nguyễn đã biết tiền lệ khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê, mặc dù lúc ấy nhà Minh suy yếu song vẫn dùng vũ lực can thiệp vào Việt Nam. Cùng lúc ấy, Việt Nam tuy đã lập nên đế quốc thống nhất đầu tiên nhưng trong bối cảnh xã hội còn chưa ổn định, thì việc được nhà Thanh sắc phong để xác lập quyền lực của vua là điều rất quan trọng. Thêm vào đó, một nguyên nhân quan trọng mà tôi đã đề cập đến ở trên là sau khi họ Mạc cướp ngôi, văn hoá kiểu Trung Quốc thoái trào do nội chiến liên miên kéo theo nhu cầu tiêu thụ thư tịch Trung Quốc gia tăng.



tải về 2.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương