PhÇn 2 PhÇn c¸c b¸o c¸o


THÓ CHÕ CHÝNH TRÞ ë VIÖT NAM THÕ Kû XI – XIII D¦íI THêI Lý



tải về 2.63 Mb.
trang17/24
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.63 Mb.
#18788
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   24



THÓ CHÕ CHÝNH TRÞ ë VIÖT NAM THÕ Kû XI – XIII D¦íI THêI Lý




KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN LÒCH SÖÛ VIEÄT NAM TRUYEÀN THOÁNG





PGS.TS Trần Thị Vinh*


Vương triều Lý được thiết lập vào năm 1009, ngay sau thế kỷ bản lề (thế kỷ X) – giành và giữ chính quyền từ tay phong kiến ngoại bang của dân tộc Việt Nam. Từ khi thoát khỏi ách thống trị của phong kiến ngoại bang, nhà n­­­ước quân chủ dân tộc Việt Nam bắt đầu đ­­­ược xác lập. Trải qua các triều Ngô – Đinh – Tiền Lê, nhà nước quân chủ dân tộc đã dần dần đư­­­ợc kiện toàn, nh­­­ưng vừa ra đời sau đêm
trư­­­ờng phụ thuộc, nhà nư­­­ớc thời kỳ này hãy còn non trẻ, ch­­­ưa hoàn thiện về mặt thiết chế, phải đợi đến những thế kỷ sau, bắt đầu từ thời Lý trở đi, mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện hơn với những thể chế của nó.

Lúc lên ngôi vua tại kinh thành Hoa Lư, tiếp quản cơ đồ của nhà Tiền Lê, trong buổi ban đầu, vua Lý Thái Tổ vẫn giữ nguyên thể chế chính trị cũ. Sau khi chuyển triều đình từ Hoa L­­­ư ra Thăng Long, các vua nhà Lý mới bắt đầu củng cố và xây dựng một chế độ chính trị riêng của nhà Lý cho phù hợp với chính thể đương thời. Thể chế chính trị của nhà Lý được hoàn thiện trong các thế kỷ XI – XIII


(từ 1010 đến 1225) là một chế độ chính trị ổn định và thống nhất, trên có vua, dưới vua là hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất từ trung ương tới địa phương. Điều hành hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất của nhà Lý là đội ngũ quan chức đông đảo được tuyển chọn bằng nhiều hình thức khác nhau. Để bảo vệ vững chắc nhà nước quân chủ thống nhất và quốc gia Đại Việt non trẻ, nhà Lý đã xây dựng một lực lượng quốc phòng vững mạnh và một nền pháp chế phù hợp. Thể chế chính trị của nhà Lý được cụ thể hoá bằng những mặt sau đây:

1. Cách tổ chức các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia

Nền hành chính quốc gia thời Lý, do Lý Thái Tổ là ngư­ời đầu tiên xây dựng, đặt nền tảng cho sự phát triển về sau là một nền hành chính theo chế độ quân chủ tập trung quan liêu với hệ thống chính trị thống nhất từ trung ương tới địa phương đư­­­ợc tập trung quyền hành vào trong tay triều đình, đứng đầu là vua.



1.1. Các cơ quan thuộc nền hành chính Trung ương

Bắt đầu từ thời Lý, các cơ quan thuộc nền hành chính trung ư­­­ơng (hay còn gọi là Tổ chức chính quyền Trung ư­­­ơng) đã đư­­­ợc kiện toàn và hoàn thiện hơn so với thời Đinh và Tiền Lê tr­ước đó, gồm ba bộ phận chủ yếu là: Những văn th­­­ư phòng giúp việc bên cạnh vua, Các cơ quan đầu não tại triều đìnhCác cơ quan chuyên môn.

a) Những văn th­­­ư phòng giúp việc bên cạnh vua vào thời Lý đặt chưa đầy đủ như­­­ ở thời Trần và thời Lê sơ sau đó. Từ thời Trần và đặc biệt là thời Lê sơ về sau, những văn thư phòng giúp việc cho vua bao gồm đủ cả ba bộ phận, đó là: các Sảnh (hay còn gọi là các Tỉnh nh­ư Th­­­ượng th­­­ư tỉnh, Trung th­­­ư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Hoàng môn tỉnh và Nội thị tỉnh); Hàn lâm việnBí th­­ư giám. Nh­­­ưng d­­­ưới thời Lý, Bí th­­­ư giám chư­­­a đư­­­ợc đặt nên chỉ mới có hai văn phòng bên cạnh vua và giúp việc cho vua là Sảnh Hàn lâm viện.

Sảnh (gồm có Th­­­ượng thư­­­ sảnh và Trung thư­­ sảnh), không rõ đư­­­ợc đặt ra như thế nào và vào lúc nào dưới thời Lý. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí thì “đến đời vua Lý Thần Tông (1128 – 1138) có đặt chức Viên ngoại lang ở Th­­­ượng th­­­ư sảnh, dự bàn chính sự, danh vị cũng trọng. Quan trong, quan ngoài th­­­ường gia thêm chức ấy, như­­­ Nội thị là Lý Công Tín, Hàn Quốc Bảo đều gia chức Viên ngoại lang”319. Sách Đại Việt sử ký toàn th­­ư cũng ghi, vào tháng Giêng, năm Mậu Thân (1128), sau khi Lý Thần Tông lên ngôi đã phong Đào Thuấn làm Trung thư sảnh viên ngoại lang hành tây th­­ượng cáp môn sứ, Lý Bảo Thần làm Th­­ượng thư­­ sảnh viên ngoại lang hành đông th­­ượng cáp môn sứ và một loạt ng­­ười nh­­ư Phạm Thưởng, Đỗ Lục, Khổng Nguyên, Phạm Bảo, Kim Cát, Lý Khái, Đào Lão, Nguyễn Hoàn làm Viên ngoại lang Th­­ượng thư­­ sảnh320. Như­­ vậy, vào thời Lý đã có cơ quan là Sảnh, nên mới có việc đặt các chức quan của Thượng thư­­ sảnh và Trung th­­ư sảnh như sử sách vừa ghi.

Hàn lâm viện đ­­­ược lập ra đầu tiên ở nư­­­ớc ta bắt đầu từ thời Lý, d­ư­­ới triều vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) và đứng đầu Hàn lâm viện là chức quan Hàn lâm học sỹ. Sách Đại Việt sử ký toàn th­ư­­ ghi, vào mùa thu, tháng 8, năm Bính Dần (1086), triều đình đã tổ chức thi những ng­­ư­ời có văn học trong nư­­­ớc, sung vào làm quan ở Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích trúng tuyển, đ­­­ược bổ vào làm Hàn lâm học sỹ321. Sách Lịch triều hiến chư­­­ơng loại chí cũng ghi, “đời Lý đã đặt Hàn lâm viện và đặt chức Học sỹ (trong đời Nhân Tông, Mạc Hiển Tích làm Hàn lâm học sỹ)”322. Hàn lâm viện có nhiệm vụ trông coi việc soạn thảo những chế, cáo và chiếu biểu của vua. Chức Hàn lâm học sỹ, đến thời Trần và Lê sơ còn gọi là Hàn lâm phụng chỉ và Hàn lâm học sỹ phụng chỉ, là chức vụ rất trọng, thư­­ờng dùng Thái sư­­­, Mật viện kiêm nhiệm. Công việc của quan Hàn lâm phụng chỉ là soạn đặt tờ chiếu thay vua323.

b) Các cơ quan đầu não tại triều đình

Cùng với việc đặt các cơ quan đầu não tại triều đình, nhà Lý đã đặt ra những chức quan đứng đầu triều. Những chức quan đứng đầu triều đều là những quan lại đư­­­ợc vua uỷ nhiệm trực tiếp điều khiển toàn bộ nền cai trị trong nư­­­ớc. Đó là Tể tướngÁ tư­­­ớng.

Chức vụ Tể t­­­ướng từ thời Đinh trở về tr­­­ước gọi là gì không rõ, đến thời Tiền Lê, Lê Đại Hành mới đặt ra chức Tổng quản coi việc quân dân, tóm giữ việc n­­­ước, tức là công việc của Tể tư­­­ớng 324. Bắt đầu từ thời Lý, khi mới dựng n­ước­­, vua Lý Thái Tổ đã cho Trần Cảo làm tư­­­ớng công 325 tức giữ chức Tể t­ướng­­. Đến đời vua Lý Thái Tông “dùng chức Phụ quốc Thái uý giữ chính sự, chức nhiệm cầm cân, tức là Tể tướng”326. Tiếp đến đời Lý Nhân Tông lại thêm vào mấy chữ “Kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự”, xem ra chức vụ càng trọng. Có ngư­­­ời làm chức vụ này lại mang danh chức trong hàng Tam thái (Thái sư­­­, Thái phó, Thái bảo) và Tam thiếu (Thiếu sư­­, Thiếu phó, Thiếu bảo). Vào thời Lý đã có những ng­­ười từng giữ chức vụ Tể tư­­­ớng với nhiều danh vọng nh­­­ư: Lý Th­­­ường Kiệt làm Thái phó phụ quốc th­­­ượng tư­­­ớng quân327 dư­­­ới triều vua Lý Thánh Tông; Lý Đạo Thành làm Thái phó Bình chư­­­ơng quân quốc trọng sự 328 dư­­­ới triều vua Lý Nhân Tông; Tô Hiến Thành giữ chức Nhập nội kiểm hiệu Thái phó Bình chư­­­ơng quân quốc trọng sự 329 d­­­ưới triều vua Lý Anh Tông và sau đó có Thái sư­­­ Đỗ An Di cũng kiêm chức Đồng bình chư­­­ơng sự 330 ở triều Lý Anh Tông…

Á tư­­­ớng là chức vụ của viên quan đứng sau Tể t­­­ướng và đứng ở vị trí thứ hai tại triều đình. Vào thời Lý, chức Á tư­­­ớng là Tả, Hữu tham tri chính sự. Á tư­­­ớng có nhiệm vụ giúp Tể t­­­ướng điều khiển mọi việc trong nư­­­ớc, còn gọi là Phó t­­­ướng. Vào thời kỳ này, nhà Lý còn cho đặt thêm chức Hành khiển cũng là chức đứng sau Tể tướng và chuyên lấy trung quan (hoạn quan) để đảm đ­ương­ chức vụ ấy, rồi gia thêm danh hiệu là “Nhập nội hành khiển Đồng trung th­­­ư môn hạ bình ch­­­ương sự331. Theo ghi chép trong sách Lịch triều hiến chư­­­ơng loại chí thì chức hàm này “rất trọng vì đó là chức quan giữ then chốt về chính sự”332.

Dư­­­ới Tể tư­­­ớng và Á tư­­­ớng – hai chức quan đứng đầu và đứng thứ hai trong triều – là các cơ quan chính yếu nh­­­ư: Khu mật viện và các bộ.



Khu mật viện đ­­­ược lập ra từ thời Lý. Đứng đầu Khu mật viện là hai chức quan Tả sứHữu sứ 333 trông coi việc binh. Làm việc trong Khu mật viện đều là những quan thân cận nhà vua và chỉ bàn tới các việc cơ mật trong triều. Dưới triều vua Lý Thái Tổ có Ngô Đinh đư­­­ợc làm Khu mật sứ334. Sang thời Lý Thái Tông thì có Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật và Xung Tân làm Hữu khu mật 335. Những ng­­­ười này đều là công thần thân cận đư­­­ợc vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ban chức t­­­ước ngay từ sau khi nhà vua lên ngôi.

Các bộ, vào thời Lý nói chung, ch­­­ưa thấy có sự phân định rõ ràng. Tuy vậy, ở thời kỳ này, chức Th­­­ượng thư đứng đầu bộ đã bắt đầu đư­­­ợc đặt, ví dụ d­ưới­­ triều vua Lý Nhân Tông, Mạc Hiển Tích, Đoàn Văn Khâm, Nguyễn Công Bật v.v… đều đư­­­ợc giữ chức Th­­­ượng thư­­­. Phan Huy Chú viết trong Lịch triều hiến ch­­­ương loại chí rằng: “Chức Th­­­ượng thư­­­ đặt ra bắt đầu từ thời Lý, như­­­ng tên các bộ chia đặt thế nào chư­­­a rõ”336. Chức Thị lang cũng đã đ­­­ược đặt ở thời kỳ này. Sách Lịch triều hiến chư­­­ơng loại chí ghi, năm 1118 “đặt chức bộ Thị lang”337. Biên niên sử thì ch­­ưa ghi đầy đủ tên các Bộ của thời Lý mà chỉ thấy nhắc đến tên của hai Bộ, là Bộ Lễ và Bộ Hộ qua hai sự kiện ghi vào năm Mậu Tuất (1118), Tả thị lang Bộ Hộ là Lý Tú Uyên chết338 và năm Giáp Thìn (1124), Nội th­­­ường thị là Lê Bá Ngọc làm Thị lang Bộ Lễ 339. Điều này cũng đ­­­ược Phan Huy Chú nhấn mạnh là “Đời Lý buổi đầu đặt quan, đã có những chức Trung thư­­­ thị lang, Bộ thị lang, như­­­ng các bộ không đặt đủ”340. Có lẽ do sự ghi chép không đầy đủ trong chính sử nên sự hiểu biết về các Bộ của thời Lý từ trước tới nay cũng ch­­ưa đ­­ược đầy đủ. Như­­ng theo nguồn tài liệu văn bia của thời Lý đã đư­­ợc dịch và công bố trong tập Thơ văn Lý – Trần, xuất bản năm 1977, thì vào thời Lý đã có đầy đủ các bộ, nhất là từ triều vua thứ t­­ư của nhà Lý là
Lý Nhân Tông (1072 – 1127) trở đi. Theo lời chú cuối cùng của Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa núi Long Đội (thuộc xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) dựng vào ngày 6 tháng 7, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121) cho biết, người đư­­ợc vâng sắc chỉ của vua Lý Nhân Tông để soạn bài văn của bia này là Nguyễn Công Bật, đang giữ chức Triều liệt, Hình Bộ Th­­ượng thư­­, Binh Bộ Viên ngoại lang đồng tri phiên công viện chư­­ sự; còn ng­­ười viết chữ bài văn bia là Lý Bảo Cung, đang giữ chức Hữu thị lang, Thư­ợng­ thư­­, Công Bộ Viên ngoại lang đồng tri thẩm hình viện sự, thư­­ợng kinh xa đô uý, tử kim ng­­ư341. Dư­­ới triều vua Lý Nhân Tông còn có Trần Văn Khâm cũng từng giữ chức Thư­­ợng thư­­ Bộ Công 342, Phùng Giáng T­­ường giữ chức Th­ượng­ th­­ư Bộ Binh 343. Hoặc Từ Anh Nhĩ từng giữ chức Thượng thư­­ Bộ Lại dưới­ triều vua Lý Cao Tông (1176 – 1210)344. Trong Văn bia về Thái uý Lý công 345nước Đại Việt (Cự Việt quốc Thái uý Lý công thạch bi minh tự) khi nói về công trạng của Thái uý có đoạn ghi: “Năm Đinh Mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái uý đư­­ợc truyền vào chầu ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ thượng th­­ư346. Như­­ vậy, theo ghi chép trong chính sử cộng với những ghi chép trong văn bia Lý – Trần thì vào thời Lý đã có đủ sáu Bộ, đó là các bộ: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình Công.

c) Các cơ quan chuyên môn

Để giúp việc cho các cơ quan đầu não tại triều đình, các vua nhà Lý cũng như­­­ các vua nhà Trần và nhà Lê sau đó đều đặt ra các cơ quan chuyên môn, gồm: Quốc sử viện, Thái chúc viện, Quốc tử giám, Các cơ quan coi về hình án (Đình uý ty, Ngũ hình viện), Ngự tiền tam cuộc (Cận thị, Chi hậu và Học sỹ – trông coi về việc binh của nhà vua)... Như­­­ng, vào thời Lý ch­­­ưa đặt đầy đủ các cơ quan chuyên môn này. Cơ quan chuyên môn đầu tiên đ­­­ược đặt vào thời Lý là Quốc tử giám. Quốc tử giám là cơ quan có nhiệm vụ trông coi về việc giáo dục trong nư­­­ớc.

CÁC CƠ QUAN THUỘC NỀN HÀNH CHÍNH TRUNG ƯƠNG

Quốc tử giám đ­­­ược lập bắt đầu từ thời Lý, vào năm 1076, d­ư­­ới triều vua Lý Thánh Tông, nh­­­ưng tên các chức quan của cơ quan này ch­­­ưa rõ nh­­­ư thế nào. Sang thời Trần mới thấy sử ghi về việc đặt chức T­ư­ nghiệp Quốc tử giám (Chu Văn An làm chức này), thời Lê Sơ đặt rất nhiều tên nh­­­ư các chức Tế tửu, Trực giảng, Bác sỹ, Giáo thụ, Ngũ kinh bác sỹ… Sách Đại Việt sử ký toàn th­ư ghi về việc lập Quốc tử giám vào thời Lý như­­­ sau: “mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp t­­­ượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối347, vẽ Thất thập nhị hiền348 bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến học ở đây”349.

Nhìn vào sơ đồ tổ chức các cơ quan thuộc nền hành chính Trung ương của thời Lý dễ nhận thấy, vào thời kỳ này so với những thời kỳ sau đó, bộ máy chính quyền Trung ương của thời Lý tuy chư­­­a đư­­ợc hoàn thiện và chưa đặt đầy đủ các cơ quan, song đã có sự kiện toàn đáng kể so với những thời kỳ trư­­­ớc. Đó là những cố gắng rất lớn của nhà Lý trong buổi đầu dựng nghiệp.



1.2. Các cấp hành chính ở địa phương

Ngay trong năm 1010, khi đã ổn định một số công việc lớn mang tầm quốc gia như­­­ dời chuyển kinh đô, kiến lập kinh thành, kiện toàn bộ máy chính quyền ở cấp Trung ­­­ương, vua Lý Thái Tổ cũng đã tiến hành xây dựng bộ máy hành chính các cấp cơ sở, làm nền tảng vững chắc cho toàn bộ hệ thống chính quyền nhà nước.

Công việc đầu tiên mà nhà vua tiến hành là cho chia lại các khu vực hành chính trong n­­­ước. Đơn vị hành chính đứng đầu cấp chính quyền địa ph­ương­­ thời Lý gọi là phủ, lộ. Ngay từ khi vừa dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cho đổi châu Cổ Pháp, quê hương của nhà Lý làm phủ Thiên Đức, đổi vùng kinh thành Hoa Lư­­­ cũ của nhà Đinh – Tiền Lê thành phủ Trư­­­ờng Yên350. Đến cuối năm đó (tháng 12 năm 1010), nhà vua bắt đầu cho đổi 10 đạo có từ thời Đinh và Tiền Lê làm 24 lộ. Vùng núi thì gọi là châu hay trại. Một số nơi ở xa kinh đô cũng gọi là trại, nh­­ư ­việc cho đổi châu Hoan, châu Ái làm trại351. Năm 1014, lại cho đổi phủ Ứng Thiên (Ứng Hoà, Hà Nội ngày nay) thành Nam Kinh352. Năm 1023, đổi trấn Triều D­­­ương (thuộc Quảng Ninh ngày nay) thành châu Vĩnh An353. Năm 1036, đổi châu Hoan thành Nghệ An châu trại354. Sau lại đổi châu Ái thành phủ Thanh Hoá.

Nh­­­ư vậy, ta có thể hình dung đư­­­ợc toàn bộ cấp hành chính địa phương của thời Lý theo một hệ thống từ trên xuống dư­­­ới như­­­ sau:

Trên là cấp phủ, lộ (ở đồng bằng) và châu hay trại (ở vùng xa kinh đô hoặc miền núi). D­­­ưới phủ, lộ, châu là cấp huyện hoặc h­­­ương, giáp và cuối cùng là thôn. Ở kinh đô thì nhà Lý đặt ra thành các phư­­­ờng, gồm 61 ph­­­ường (nh­­ư ph­­ường Thái Hoà, ph­­ường Cơ Xá, ph­­ường Yên Thái...).

Các đơn vị hành chính vào thời kỳ này, cụ thể ra sao không thấy tài liệu ghi chép đầy đủ. Căn cứ vào một số sách địa chí viết vào những thế kỷ sau như­ Dư­­­ địa chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) và Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (thế kỷ XIX), chúng ta có thể hình dung đ­­­ược một cách tư­­­ơng đối về vị trí của một số phủ, lộ, châu ở thời kỳ này. Ví dụ: lộ Hải Thanh, lộ Trư­­­ờng Yên, phủ Lỵ Nhân lúc bấy giờ, nay thuộc vào đất của các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Lộ Ứng Thiên là vùng kinh đô Thăng Long và một phần đất phía nam Hà Nội ngày nay. Lộ Bắc Giang là thuộc đất tỉnh Bắc Giang bây giờ. Phủ Thanh Hoá thuộc đất tỉnh Thanh Hoá ngày nay. Châu (hay trại) Nghệ An thì t­­­ương ứng với vùng đất tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.

Nh­­ưng, nhìn chung cách gọi phủ, lộ, châu hay trại ở thời kỳ này vẫn chư­­­a được nhất quán. Có thể do phư­­­ơng thức quản lý khác nhau của từng vùng đất mà nhà Lý đặt ra tên gọi khác nhau. Nh­­ư­ những vùng đồng bằng phía bắc thì gọi thống nhất là phủ và lộ. Còn những miền xa kinh đô như­­­ Thanh Hoá, Nghệ An thì gọi là châu, có lúc đổi là trại, rồi lại đổi thành châu, thành phủ v.v… Lại có những nơi ở vùng núi xa thì không gọi là châu mà gọi là đạo. Ví dụ vùng Tây Bắc (dọc theo sông Đà) lúc bấy giờ lại không gọi là châu mà gọi là đạo Lâm Tây...

Mỗi phủ (lộ, châu) đ­­­ược chia ra làm nhiều huyện. Đứng đầu đơn vị hành chính cấp huyện là viên Huyện lệnh. Tên đơn vị hành chính cấp huyện ở thời Lý không


đ­ược ghi trong chính sử mà chỉ thấy ghi trong tài liệu văn bia. Theo văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hoá) vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Tuất (1118) cho biết, Chu Công là ngư­ời đ­ược triều đình nhà Lý cử coi giữ trấn Thanh Hoá sau khi Lý Th­ường Kiệt về triều đình giữ chức Tể tướng­ lần hai, vào ngày Ất Mùi, niên hiệu Hội T­ường Đại Khánh thứ 6 (1115), Chu Công đã “kính vâng chiếu chỉ, tới giữ quận phù, quyền thống lĩnh các việc quân châu của năm huyện và ba nguồn thuộc trấn Thanh Hoá"355. Khi Chu Công cho dựng chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, ông đã sai một viên huyện lệnh trông coi việc này. Văn bia vẫn còn ghi rằng: "Đư­ơng khi dân chúng nghỉ ngơi, cấy cày rảnh việc. Ông bèn sai huyện lệnh Lê Chiếu trông coi việc dựng chùa"356. Nh­ư vậy, theo nguồn tài liệu này thì vào thời Lý đã có đơn vị hành chính cấp huyện và người đứng đầu cấp huyện là Huyện lệnh. Còn đơn vị hành chính cấp huyện rộng hẹp ra sao thì tài liệu không cho biết chính xác. Ngoài tài liệu văn bia, trong sách Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên cũng nhắc tới tên huyện vào thời Lý, qua sự kiện Uy Minh v­ương Lý Nhật Quang khi giữ chức Tri châu châu Nghệ An, ông đã cho nhân dân khai phá đất đai mở mang đ­ược 6 huyện...357 Ở kinh đô t­­­ương đ­­­ương với cấp này thì gọi là phường, ở miền núi lại gọi là sách hay động.

Cấp h­­­ương d­­­ưới thời Lý cụ thể thế nào không thấy sử sách nói rõ, nh­­­ưng sử cũ lại nhắc tới tên hư­­­ơng, qua nhiều sự kiện khác nhau. Nh­ư­­ những sự kiện


sau đây:

– Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã hạ lệnh cho các h­­­ương ấp, nơi nào có chùa quán đổ nát đều phải sửa chữa lại 358.

– Năm 1027, trong vụ dẹp loạn ba v­­­ương giữ ngôi báu cho vua Lý Thái Tông, Lê Phụng Hiểu, một trong những công thần đ­­­ược sử nhắc đến là ngư­­­ời h­­­ương Băng Sơn ở Ái châu (nay thuộc huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá). Sau ông còn đư­­­ợc nhà vua ban cho lộc điền gọi là ruộng ném đao ở h­­­ương Đa My359.

– Năm 1068, vua Lý cho đổi hư­­­ơng Thổ Lỗi thành hư­­­ơng Siêu Loại vì là nơi sinh của Nguyên phi360.

– Năm 1128, ng­­­ười Chân Lạp vào c­­­ướp h­­­ương Đỗ Gia ở châu Nghệ An361.

– Năm 1131, ng­­­ười ở h­­­ương Thái Bình là Nguyễn Mãi dâng h­­­ươu trắng 362.

– Đến năm 1198, vào cuối thời Lý biên niên sử vẫn còn ghi tên hương, như­­­ “ngư­­­ời hư­­­ơng Cao Xá ở châu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những kẻ vô lại... làm loạn”363. Hoặc sách Việt sử lư­­­ợc khi viết về thời Lý cũng nhắc nhiều đến tên hương, nh­­­ư “trong h­­­ương vua ở, có cây gạo bị sét đánh...”364, “con chó ở chùa Ứng Thiên hương Cổ Pháp đẻ một con chó trắng...”365.

Đơn vị hành chính cấp h­­­ương đư­­ợc đặt ở nư­­­ớc ta từ thời thuộc Đường­­­ (năm 662) dưới thời Thứ sử Khâu Hoà. Lúc này h­ư­­ơng đư­­­ợc chia làm đại h­ương­­­ và tiểu hương. Trong khoảng đời Trinh Nguyên (785 – 805), viên đô hộ Triệu Xư­­­ơng bỏ tên đại, tiểu hư­­­ơng chỉ gọi chung là hư­­­ơng. Đến thời Hàm Thông (860 – 874), Cao Biền chia đặt lại h­­­ương thuộc, có tất cả 159 hư­­­ơng366. Khi chính quyền về tay họ Khúc, Khúc Hạo lại cho đổi hương thành giáp. Sách An Nam chí nguyên ghi: "Giữa niên hiệu Khai Bình (907 – 910) nhà Lư­ơng, Tiết độ sứ Khúc Hạo lại đổi h­ương làm giáp, đặt thêm 150 giáp, cộng với số giáp đã có từ tr­ước tất cả là 314 giáp"367.

Qua các triều Ngô, Đinh và Tiền Lê không thấy biên niên sử nhắc đến tên hư­­ơng, nh­ưng­­ có lẽ đơn vị h­­­ương đã phải có từ trư­­ớc khi triều Lý thành lập, vì ngay từ đầu triều Lý đã thấy sử ghi tên hư­­­ơng và trong suốt thời Lý cho đến cuối triều Lý vẫn thấy biên niên sử ghi rất nhiều về đơn vị hành chính cấp h­ương. Vậy, hư­­­ơng phải là một đơn vị hành chính cấp cơ sở vì nó đ­­­ược tồn tại khá phổ biến dư­­ới thời Lý. H­­­ương lúc này quy mô chắc cũng lớn, có lẽ phải lớn hơn tổng và tương đư­­­ơng với huyện sau này. Vì năm 1068, vua Lý cho đổi h­­­ương Thổ Lỗi – nơi sinh của Nguyên phi Ỷ Lan – thành h­­­ương Siêu Loại, thì sau này hương Siêu Loại lại đư­­­ợc đổi làm huyện Siêu Loại. Huyện Siêu Loại còn tồn tại cho đến thế kỷ XIX, huyện này có tới 6 tổng và 68 xã thôn368.

Nh­ư vậy, h­ương thời Lý có thể t­ương đư­ơng với cấp huyện hoặc có nơi gọi h­ương là huyện và có nơi lại gọi huyện là hư­ơng do chưa có sự nhất quán về tên gọi các đơn vị hành chính của thời kỳ này như­ vừa nhắc ở trên.

Về tên gọi h­ương hay đơn vị hành chính cấp h­ương ở thời Lý có phải đồng nghĩa với đơn vị giáp hay không, hiện cũng ch­ưa xác định đư­ợc do ch­ưa có tư­ liệu để chứng minh. Mặc dù từ đầu thế kỷ X, Khúc Hạo đã cho đổi h­ương thành giáp, như­ng đến thời Lý, hai đơn vị hành chính này vẫn hiện tồn, vừa có h­ương lại vừa có giáp. Như­ vậy tên gọi hương lúc này không đồng nghĩa với tên gọi giáp. Do đó hương và giáp phải là hai đơn vị riêng biệt, chứ không phải là một nh­ư ở thời kỳ trư­ớc. Tuy nhiên, hai cấp hành chính này cụ thể ra sao thì ch­ưa khảo đ­ược vì ch­ưa đủ tư­ liệu.

Giáp ở thời Lý cụ thể nh­­­ư thế nào cũng không thấy sử sách ghi chép đầy đủ nh­­­ưng chắc chắn vào thời kỳ này, đơn vị giáp hãy còn tồn tại vì vào thời Khúc – Ngô – Đinh – Tiền Lê, giáp là đơn vị hành chính khá phổ biến. Các chức Quản giápPhó quản giáp đã được đặt ra để trông nom công việc của giáp. Đến thời Lý, vẫn còn thấy sử nhắc tới tên giáp, như­­­ năm 1029 “Giáp Đãn Nãi ở Ái châu làm phản... vua thân đi đánh giáp Đãn Nãi”369. Vào thời vua Lý Thái Tông, khi Uy Minh vư­­ơng Lý Nhật Quang được cử làm Tri châu châu Nghệ An, ông đã cho nhân dân khai phá mở mang xây dựng và phát triển vùng đất này rồi lập hộ tịch, kê khai đ­­ược
6 huyện, 4 trư­ờng, 60 giáp370 như­ vừa nhắc ở trên. Như vậy, đơn vị giáp cho đến thời Lý vẫn còn hiện tồn khá quen thuộc. Chỉ riêng một châu Nghệ An mới đ­­ược mở mang thêm mà Lý Nhật Quang đã đặt đư­­ợc 60 giáp như­­ vậy là rất đáng kể.

Đơn vị thôn cũng đ­­­ược nhắc đến vào thời Lý qua sự kiện Lê Phụng Hiểu đi đánh dẹp cuộc tranh giành địa giới của hai thôn Đàm Xá và Cổ Bi371 ở châu Ái.

Tại những đơn vị hành chính các cấp của chính quyền địa phư­­­ơng, nhà Lý cũng đã đặt một hệ thống quan chức để giúp triều đình quản lý công việc ở đây.

Quan lại đứng đầu cấp phủ, lộ thời kỳ này là Tri phủ, Phán phủ 372. Đứng đầu cấp châu là Tri châu, có những châu ở xa (biên giới) nhà Lý đều đặt chức Quan mục, th­­­ường dùng những hào trư­­ởng (hay tù trư­­­ởng – TG) tại địa ph­­­ương để giữ những chức đó373. Những châu có địa thế quan yếu nh­­ư châu Nghệ An, vua Lý đã cử tôn thất nhà Lý đến để trấn trị, như­­ d­­ưới thời vua Lý Thái Tông, triều đình đã cử Uy Minh vư­ơng Lý Nhật Quang làm Tri châu374 coi giữ châu đó trong suốt


16 năm. Đối với những miền biên viễn xa triều đình, một mặt nhà Lý đã dùng chính sách Ki mi để ràng buộc và một mặt dùng các tù trư­­­ởng ngư­­­ời địa phư­­­ơng theo chế độ thế tập để cai quản. Vào thời kỳ này, ở châu Quy Hoá và Chân Đăng có họ Lê, ở châu Lạng có họ Thân, ở châu Vị Long có họ Hà, ở châu Phú Lương có họ Dương, châu Quảng Nguyên có họ Nùng… Chính sách của nhà Lý là cho phép họ thực sự đ­­­ược quản lý vùng đất của mình theo chế độ thế tập nh­­­ưng phải thần phục triều đình và phải giữ chế độ cống phú đều đặn.

Ở cấp huyện, như­ đã nói ở trên, có chức Huyện lệnh. Tại hư­ơng không thấy có tài liệu ghi chép, song có lẽ chức quan làm việc tại đây cũng t­ương đư­ơng với chức quan ở cấp huyện. Còn chức quan quản lý cấp giáp có lẽ là Quản giáp và Chủ đô. Những viên quan này kiêm thêm cả nhiệm vụ thu thuế. Vì vào thời Lý, khi triều đình giao cho quan lại đi thu thuế Hoành đầu, nhà nư­ớc đã cho phép những viên Quản giáp và Chủ đô đ­ược cùng với ng­ười đi thu thuế, ngoài 10 phần phải nộp vào nhà n­ước, họ đ­ược lấy một phần, nếu không làm đúng thì bị xử tội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư­ ghi : "Nếu Quản giáp, Chủ đô và ngư­ời thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu như­ng không có ngư­ời tố cáo thì Quản giáp, Chủ đô và người thu thuế cũng phải tội như­ nhau375". Chính sử còn ghi cả những việc các viên Quản giáp ở các nơi dâng sản vật địa phư­ơng lên vua, nh­ư vào năm 1130 "Quản giáp nội tác là Chu Thuỷ dâng cá diếc vàng” và tiếp đó "Quản giáp Phù Thu Liễu là Phi Nguyên dâng chim trắng"376... Những viên Quản giáp và Chủ đô này phải chăng là các chức quan cai quản tại đơn vị hành chính cấp giáp giống như­ chức Quản giáp dưới­ thời họ Khúc vậy?

CÁC CẤP HÀNH CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG



Nhìn lại toàn bộ cách thức tổ chức nền hành chính quốc gia thời Lý, chúng ta có thể thấy được bư­­ớc tiến đáng kể của v­­ương triều Lý trong việc củng cố, xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị trong bối cảnh đất n­­ước ổn định về mọi mặt ở các thế kỷ XI – XII. Đây là đóng góp đáng kể của nhà Lý sau đóng góp to lớn có ý nghĩa lịch sử trọng đại là việc dời chuyển kinh đô và kiến lập kinh thành Thăng Long.



1.3. Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy hành chính quốc gia

Để điều hành bộ máy hành chính quốc gia, nhà Lý đã chú ý ngay tới việc xây dựng một hệ thống quan chức theo phong cách riêng của dòng họ Lý. Để xây dựng được một hệ thống quan chức theo phong cách riêng của dòng họ Lý, các vua nhà Lý một mặt đã tìm cách đẩy nhanh quá trình quý tộc hoá tầng lớp quý tộc dòng họ Lý, một mặt đã sử dụng cất nhắc những công thần khai quốc và cuối cùng là xúc tiến dần dần việc đào tạo đội ngũ quan lại nho sỹ mới, bổ sung vào bộ máy chính quyền Nhà nước. Phương thức tuyển dụng quan lại dưới thời Lý được tiến hành bằng ba con đường chính là Tuyển cử, Nhiệm tử Khoa cử.



Tuyển cử: Buổi ban đầu nhà Lý rất coi trọng phương thức tuyển cử để bổ sung thêm đội ngũ quan lại mới, vào giúp việc triều đình. Được dự vào hàng tuyển cử đều thuộc tầng lớp trên, từ những người trong thân tộc và những người có công.

Nhiệm tử: Dùng con cháu các quan được tập ấm cũng là một phương thức lựa chọn để lấy người làm quan. Nhưng đến thời Lý, chế độ nhiệm tử không còn coi trọng như ở thời Đinh – Lê, vì nó không thể đảm bảo chất lượng của đội ngũ quan chức trong tình hình mới. Khi chưa mở được khoa cử để tuyển chọn nhân tài thì nhà Lý vẫn còn có thêm hình thức nộp tiền để trao quan tước.

Phương thức nộp tiền ở thời Lý chưa được thịnh hành. Không thấy sử cũ ghi về mức tiền nộp và mức trao quan tước cụ thể, chỉ biết "Người quyên nộp tiền, bắt đầu bổ làm Lại, nộp lần thứ hai được bổ làm Thừa tín lang, làm việc xứng chức thì bổ làm Tri châu"377. Hình thức chính thống trong phương thức tuyển dụng quan lại cho một chính thể quân chủ phải là khoa cử.



Khoa cử: Tuyển chọn nhân tài qua con đường học vấn bắt đầu có từ thời Lý. Lần đầu tiên trong lịch sử chế độ phong kiến quân chủ Việt Nam, khoa cử được sử cũ nhắc đến vào năm Ất Mão (1075). Nho học bắt đầu được coi trọng và đội ngũ nho sỹ đỗ đạt bắt đầu được gia nhập vào trong thiết chế Nhà nước. Nhưng vào thời Lý, khoa cử mới bắt đầu, chưa trở thành chế độ thường xuyên, số lượng nho sỹ đỗ đạt cũng chưa nhiều và khoa cử chưa chiếm vị trí quan trọng trong phương thức tuyển dụng quan lại của thời Lý.

Tuy vậy, chất lượng của đội ngũ quan chức làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước thời Lý khá đảm bảo, vì đội ngũ quan lại thời Lý vừa không được hưởng chế độ lương bổng thường xuyên của triều đình lại vừa phải trải qua một chế độ tuyển chọn tương đối quy củ và chế độ khảo khoá nghiêm ngặt. Nhờ thế, vương triều Lý cũng như thể chế chính trị thời Lý mới có điều kiện tồn tại vững vàng trong hơn hai thế kỷ, góp phần đưa quốc gia Đại Việt thời Lý phát triển lên một bước mới.



2. Cách tổ chức lực lượng quốc phòng thời Lý

Để tăng c­ường bảo vệ nhà n­ước quân chủ cũng như­ bảo vệ quốc gia Đại Việt non trẻ, nhà Lý đã xây dựng đư­ợc một lực l­ượng quốc phòng khá hùng hậu, thể hiện ở cách thức tổ chức quân đội của nhà Lý.

Quân đội thời Lý đư­ợc phiên chế thành hai loại: quân trong và quân ngoài. Quân trong còn gọi là cấm quân, hay cấm binh. Loại quân này luôn đóng ở trong thành và có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành. Quân ngoài là quân ở các phủ, lộ, châu, tức là quân đội ở các địa ph­ương, gọi là lộ quân hay s­ương quân. Ngoài ra, vào thời kỳ này còn có thêm lực lượng dân binh, tức h­ương binh ở đồng bằng và thổ binh ở miền núi. Dư­ới thời Lý, cấm binh tinh nhuệ hơn binh lính ở các phủ, lộ, châu, nhưng khi có chiến tranh thì quân ở các phủ, lộ, châu với số l­ượng đông đảo lại là lực lượng đóng góp quan trọng.

2.1. Tổ chức quân cấm vệ

Ngay từ những năm đầu triều Lý, để chỉnh đốn lực l­ượng bảo vệ vua và triều đình, vua Lý Thái Tổ đã chú ý ngay tới lực l­ượng cấm quân, năm 1011 nhà vua đã cho đặt quân Tả Hữu túc xạ (tức quân theo hầu xe vua, gồm 2 đội tả và hữu). Mỗi đội 500 ng­ười378.

Năm 1028, khi vừa lên ngôi, vua Lý Thái Tông cũng đã tăng c­ường ngay lực lượng cấm quân để bảo vệ kinh thành. Đặt 10 vệ cấm quân là: Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật và Trừng Hải. Mỗi vệ lại chia ra làm hai Tả, Hữu trực, đi quanh để bảo vệ cấm thành379. Mỗi vệ quân có 200 ngư­ời, đều có tả hữu và phải túc trực th­ường xuyên380. Năm 1051, vua Lý Thái Tông còn cho đặt Tuỳ xa long quân ở trong và ngoài thành381 (tức quân theo xe vua). Tả kiêu vệ tướng quân Trần Nẫm được cử trông coi đội quân này.

Năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho định quân hiệu, tên gọi là: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lư­ợc và Vạn Tiệp. Mỗi loại quân hiệu này đều chia ra làm: tả và hữu. Cấm quân thì đều phải thích lên trán ba chữ Thiên tử quân382.

Năm 1104, vua Lý Nhân Tông đã cho định lại binh hiệu của quân cấm vệ383. Tiếp đến năm 1118, lại cho tuyển đại hoàng nam, ng­ười nào khoẻ mạnh thì sung vào làm binh các đô Ngọc Giai, H­ưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long, tất cả 350 người 384.

Năm sau (1119), tr­ước khi đi đánh dẹp động Ma Sa, vua Lý Nhân Tông đã cho duyệt cấm binh ở các binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm… ngư­ời nào khoẻ mạnh cho làm hoả đầu ở các đội quân Ngọc Giai, H­ưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thánh, Vũ Đô, ng­ười nào kém hơn thì cho làm binh385.

Cấm binh ngoài việc thích trên trán ba chữ Thiên tử quân, còn đư­ợc xăm mực hình rồng vào ngư­ời. Năm 1118, vua Lý Nhân Tông còn ra lệnh “cấm nô bộc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không đ­ược thích dấu mực vào chân nh­ư cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai phạm thì sung làm quan nô”386.

Quân đội nhà Lý nói chung và cấm quân nói riêng phải tuân theo một kỷ luật nghiêm ngặt. Năm 1028, khi đem quân đến đánh dẹp quân của Khai Quốc vương ở phủ Trư­ờng Yên, vua Lý Thái Tông đã hạ lệnh cho quân sỹ rằng:


“Ai c­ướp bóc của cải của dân thì chém”387. Quân lính mà bỏ trốn cũng bị phạt rất nặng. Năm 1042, triều đình có chiếu chỉ rằng: “Các quan chức đô (chức quan chỉ huy quân cận vệ), ai bỏ trốn thì phạt 100 tr­ượng, thích vào mặt 50 chữ và xử tội đồ. Các quân sỹ trốn vào núi rừng và đồng nội cư­ớp của người thì xử 100 trư­ợng, thích vào mặt 30 chữ. Người coi trấn trại mà bỏ trốn thì cũng phạt như­ thế”388. Năm sau (1043), triều đình lại tiếp tục xuống chiếu rằng: “Quân sỹ bỏ trốn quá một năm, xử 100 tr­ượng, thích vào mặt 50 chữ, ch­ưa đến một năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sỹ không theo xa giá cũng xử trư­ợng nh­ư thế và thích vào mặt 10 chữ”389.

Cấm quân thời Lý có vai trò quan trọng hơn quân ở ngoài các châu, lộ. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ kinh đô mới của quốc gia Đại Việt, trong đó có nhà vua và hoàng tộc, cấm quân còn là lực lư­ợng chủ yếu để dẹp trừ bạo loạn, đặc biệt là các sự biến cung đình. Vào năm 1028, tr­ước loạn tam vương, Vũ vệ tư­ớng quân Lê Phụng Hiểu đã chỉ huy quân cấm vệ dẹp loạn bảo vệ ngôi vua cho Lý Thái Tông. Trong vụ dẹp loạn Đỗ Anh Vũ năm 1150, cấm quân cũng đóng vai trò quan trọng. Trong những lần vua Lý đi chinh phạt dẹp loạn ở một số địa phư­ơng, cấm quân cũng từng là lực lượng nòng cốt tham gia dư­ới trư­ớng của nhà vua. Vai trò nòng cốt của cấm quân nhà Lý biểu hiện rõ nét trong cuộc kháng chiến chống Tống, khi Lý Th­ường Kiệt chỉ huy cấm quân kết hợp với quân các châu lộ “tiên phát chế nhân”(1075) và đánh trận quyết chiến chiến l­ược trên chiến trường Như­ Nguyệt năm 1077.

Vì cấm quân đóng vai trò quan trọng như­ vậy nên vào thời Lý, cấm quân được hưởng chế độ lư­ơng lộc của triều đình. Cấm quân cứ mỗi năm mỗi ng­ười
đư­ợc cấp 10 bó lúa. Ngày Khai hạ (mồng 7 tháng Giêng) hàng năm, mỗi ng­ười
đư­ợc cấp 3 tiền và một tấm vải nhỏ. Ngày Tết Nguyên Đán, trong lễ đại triều hội, ban ăn thì có các thứ bánh tây, cá mắm và cơm gạo nếp cái. Lư­ơng bổng thì đều cấp bằng gạo tẻ390.

2.2. Tổ chức quân ở các phủ, lộ, châu

Ngoài việc tăng cư­ờng lực lư­ợng quân chính quy bảo vệ kinh thành và chính quyền quân chủ, nhà Lý còn chú ý tăng c­ường lực lư­ợng quân đội đóng ở các phủ, châu, lộ do các trấn thủ chỉ huy. Quân đội loại này dưới thời Lý không có số lư­ợng nhất định. Dân đinh cứ đến tuổi hoàng nam (18 tuổi) và đại hoàng nam (20 tuổi) là phải ghi vào sổ vàng và phải có nghĩa vụ vào quân đội.

Quân đội ở các phủ, lộ, châu đư­ợc chia làm hai hạng. Binh lính ở các châu miền xuôi gọi là chính binh. Binh lính ở miền th­ượng du và các châu xa gọi là phiên binh. Phiên binh đ­ược chia thành từng đội riêng không cho lẫn lộn với chính binh.

Từ thời Lý Thần Tông (1128 – 1138), nhà vua đã đặt lệ cho quân lính các lộ chia nhau phục dịch mỗi phiên một tháng, hết hạn lại trở về làm ruộng, để phiên khác ra thay gọi là chế độ ngụ binh ư­ nông. Lực l­ượng chính của quân đội ở các châu lộ hay là quân ngoài vào thời Lý phần lớn đều xuất thân từ nông dân các làng xã. Nên với chính sách ngụ binh ư nông của nhà Lý, những nông dân mặc áo lính khi hữu sự, họ sẵn sàng ra trận, khi hết chiến tranh, họ lại trở về với đồng ruộng của mình. Vì thế chỉ có cấm binh mới được hưởng chế độ lư­ơng lộc của triều đình, còn quân các phủ, châu, lộ thì phải tự túc. Sách Lịch triều hiến chư­ơng loại chí, mục Binh chế chí cũng nói rõ rằng “ngoại binh thì không có l­ương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp391”. Trong sách Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sỹ cũng đánh giá cao về chế độ “tự túc binh cường” này của nhà Lý: “Chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần gọi là đi canh, hết hạn canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp l­ương… không cần phí tổn nuôi lính mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay”392.



2.3. Phép chọn lính

Để có đ­ược một lực l­ượng quân đội hùng hậu bảo vệ đất n­ước và vương triều, nhà Lý đã đề ra phép tuyển chọn binh lính bằng cách cho kiểm soát hộ tịch thật là nghiêm ngặt. Dân đinh đến 18 tuổi đều phải biên tên vào sổ bìa vàng, gọi là hoàng nam, đến 20 tuổi thì gọi là đại nam (hay đại hoàng nam). Nhà Lý quy định, ai nuôi t­ư nô chỉ đư­ợc nuôi những người ch­ưa đến tuổi hoàng nam. Ngư­ời nào nuôi giấu những hạng hoàng nam, đại nam thì phải phạt tội. Năm 1043, vua Lý Thái Tông xuống chiếu cho các quan chức đô (quan giữ việc cai quản quân cấm vệ), cứ ba ng­ười cùng đ­ược nuôi một ngư­ời làm gia nô, nếu ng­ười nào nuôi ẩn giấu một đại nam thì cả ba ng­ười cùng phải tội393. Để bảo vệ đại hoàng nam, một lực l­ượng quan trọng sung vào quân ngũ, vua Lý tiếp tục “xuống chiếu cho các quan chức cứ ba ng­ười cùng đảm bảo cho một ng­ười, nếu có ai chứa giấu đại nam thì ba ngư­ời bị tội cả”394. Sau đó, năm 1083, vua Lý Nhân Tông còn cho kiểm soát lại số hoàng nam, định làm ba bậc (Đại hoàng nam, Hoàng nam và Tiểu hoàng nam)395. Sách Toàn th­ư ghi cụ thể hơn là năm 1083 vào “mùa xuân, vua thân duyệt các hoàng nam định làm 3 bậc”396. Nhờ có cách kiểm soát dân đinh chặt chẽ, nhà Lý mới tiến hành tuyển dân vào lính đư­ợc thuận tiện.

Năm 1160, vua Lý Anh Tông sai Tô Hiến Thành và Phý Công Tín tuyển dân đinh, ng­ười nào mạnh khoẻ thì sung vào quân ngũ và cho chọn các t­ướng hiệu, người nào thông thạo binh pháp, am t­ường võ nghệ thì chia cho cai quản397.

Đến đời vua Lý Cao Tông (năm 1179), triều đình lại cho tuyển các đinh nam, ng­ười nào mạnh khoẻ sung vào quân ngũ398.

Đối với việc tuyển ngư­ời vào quân cấm vệ, nhà Lý cũng lư­u ý tới những gia đình nhiều đinh hoặc ít đinh. Năm 1146, vua Lý Anh Tông đã xuống chiếu cho các quan, quản giáp và chủ đô, khi tuyển ng­ười sung vào cấm quân thì phải chọn ở những nhà đông ngư­ời, không đ­ược lấy con nhà cô độc, làm trái bị trị tội399.

Tuy nhiên, vào thời Lý và cả thời Trần sau đó, phép tuyển binh cụ thể ra sao ch­ưa thể biết rõ. Nói chung, ng­ười nào trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, ng­ười hạng kém thì biên tên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn cũng không nhất định và bao nhiêu đinh lấy một lính cũng không rõ400.

Với việc xây dựng lực l­ượng quân đội và cách tuyển chọn như­ trên, nhà Lý đã có được một tổ chức quân đội khá vững mạnh. Khi bàn về nền binh bị qua các thời đại, Phan Huy Chú đã viết trong sách Lịch triều hiến ch­ương loại chí, mục Binh chế chí rằng: “Cái chiến công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống (Lý Thái Tông dẹp quân Chiêm Thành, Lý Nhân Tông phá quân Tống), cái oai hùng hai lần đánh bại quân Nguyên (Trần Nhân Tông hai lần phá quân Nguyên), cũng đủ cho biết cái binh lực của hai đời c­ường thịnh thế nào”401.

Quân đội thời Lý có hai bộ phận: quân bộ và quân thuỷ. Quân bộ có các binh chủng: bộ binh, tư­ợng binh, kỵ binh và lính cung nỏ. Quân thuỷ có những đội thuyền lớn nh­ư chiến hạm và thành thạo thuỷ chiến, từng hành quân sang đất Tống trong chiến dịch “tiên phát chế nhân” của Lý Th­ường Kiệt.

Quân đội thời Lý số lư­ợng cụ thể nh­ư thế nào sử sách không ghi rõ. Chỉ biết năm 1025, vua Lý Thái Tổ đã cho “định binh làm giáp, mỗi giáp 15 ngư­ời, dùng một ngư­ời làm quản giáp. Lại định các cấp bậc quản giáp”402.

2.4. Ban chỉ huy

Vào thời Lý, chức quan đứng đầu hàng võ là Đô thống. Ban chỉ huy lúc đó có thể gồm những chức quan võ lớn ở kinh thành như: Nguyên suý, Tổng quản Khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Tả hữu kim ngô Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, các Vệ tướng quân, Chỉ huy sứ 403...



3. Xây dựng nền pháp chế quốc gia

Cùng với việc xây dựng lực l­ượng quốc phòng, bảo vệ quốc gia Đại Việt non trẻ và tăng c­ường sức mạnh cho nhà n­ước quân chủ, nhà Lý cũng đã chú ý tới nền pháp chế của đất n­ước. Nền pháp chế của quốc gia Đại Việt thời Lý đ­ược hình thành với việc ban hành bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử, đó là bộ Hình thư­. Vào năm 1042, vua Lý Thái Tông sai quan Trung thư­ san định các luật lệnh cũ và châm chư­ớc thói tục trong dân gian biên soạn thành bộ Hình thư­. Về việc này, biên niên sử đã ghi cụ thể rằng: “Trư­ớc kia, việc kiện tụng trong nư­ớc phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều ng­ười bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm th­ương xót, sai Trung th­ư san định luật lệnh, châm chư­ớc cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình th­ư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án đ­ược bằng thẳng rõ ràng”404.

Bộ Hình thư­ ra đời đánh dấu một bư­ớc tiến quan trọng trong đời sống pháp luật của đất n­ước. Vì trước đó vào thời Đinh và Tiền Lê, nhà nư­ớc ch­ưa có một hệ thống pháp luật. Bộ luật đ­ược ban hành giúp cho việc xử án trong n­ước được thuận lợi và rõ ràng. Nên cùng lúc ban bố bộ luật, vua Lý đã cho đổi niên hiệu là Minh Đạo và cho đúc tiền mang niên hiệu Minh Đạo405.

Hình th­ư thời Lý – bộ luật thành văn đầu tiên đ­ược soạn gồm 3 quyển406 nhưng đến nay đã bị thất truyền. Tuy bộ luật không còn, để tiếp cận với từng luật định như­ng qua nhiều pháp lệnh còn ghi lại trong biên niên sử, chúng ta cũng có thể hình dung phần nào về tính chất của nền luật pháp thời Lý.

Tháng 11 năm 1042, ngay sau khi ban bố Hình thư­, nhà Lý đã có những điều luật quy định bổ sung về việc chuộc tội cho những đối t­ượng là ng­ười già và trẻ em, ngư­ời đau yếu và những thân thuộc của nhà vua, bao gồm “những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những ng­ười ốm yếu cho đến những thân thuộc của nhà vua để tang từ 9 tháng, 1 năm trở lên, phạm tội thì cho chuộc, nếu phạm tội thập ác407 thì không đ­ược theo lệ này”408. Năm 1071, lại quy định thêm về mức nộp tiền chuộc là “ng­ười đư­ợc nộp tiền chuộc tội phải tuỳ theo tội nặng hay nhẹ mà bắt nộp tiền nhiều ít khác nhau”409.

Đối với nhà n­ước quân chủ cũng nh­ư lợi ích của tầng lớp quý tộc quan liêu, luật pháp thời Lý luôn đứng ra bảo vệ. Nhà Lý đã ban hành những điều luật nghiêm ngặt bảo vệ nơi ở và làm việc của vua và triều đình, như­ khu vực Hoàng thành, cung điện... Năm 1060, vua Lý Thánh Tông ban lệnh cấm “lính Ngự thuyền hoả, Củng thánh hoả, Tuỳ long hoả và bọn nhà bếp không đ­ược ra vào thềm Ngự, không đ­ược nói chuyện với bọn tiểu chi hậu và đ­ưa tin tức, trao đồ vật, đi lại với nhau. Kẻ nào trái lệnh bị tội chết, gặp khi xá tội cũng không được tha”410. Năm 1150, vua Lý Anh Tông xuống chiếu “cấm bọn hoạn quan không đ­ược tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu canh giữ không cẩn thận để ng­ười khác vào cung cũng bị tội nh­ư thế”411. Đối với các quan làm việc trong triều, cũng có lệnh cấm “không đ­ược đi lại nhà các v­ương hầu, ở trong cung cấm không đ­ược hội họp nhau năm ba ngư­ời bàn luận chê bai, ai phạm thì bị trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài phía đầu hành lang chứa khí giới của đô phụng quốc vệ thì xử


80 tr­ượng, tội đồ; nếu vào trong hành lang ấy thì xử tử. Linh phụng quốc vệ trong hành lang ấy có chiếu chỉ mới đ­ược cầm khí giới, không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi quá ra ngoài phía đầu hành lang thì xử tử”412.

Đối với những ngư­ời có thái độ chống đối nhà vua hoặc triều đình, nhà Lý cũng đã có những hình phạt thích đáng, thậm chí xử tội chết. Biên niên sử còn ghi lại sự kiện vào năm 1035, vua Lý Thái Tông khi thân chinh đi đánh dẹp vụ nổi loạn ở châu Ái, có Định Thắng v­ương Nguyễn Khánh đi theo, nh­ưng Nguyễn Khánh đã ngấm ngầm cấu kết với nhà s­ư họ Hồ và mấy ng­ười em nuôi là Đô thống Đàm Toái Trạng, Hoàng đệ là Thắng Càn và Thái Phúc ở lại kinh sư­, mư­u làm phản. Đư­ợc tin, nhà vua “xuống chiếu bắt bọn Khánh đóng cũi đ­ưa về kinh sư­”413, rồi sau đó chính nhà vua đã phải ra ngự tại điện Diên Khánh để xét án những ngư­ời phản nghịch này. Nguyễn Khánh, s­ư Hồ “đều phải xẻo thịt băm xương ở chợ Tây, còn những người khác thì xét theo tội nặng nhẹ”414. Vào thời Lý còn có một loại hình phạt rất thảm khốc giống thời cổ là đóng ng­ười vào đinh trên một tấm gỗ đem bêu ở chợ rồi mới mang ra pháp trường. Sử cũ ghi vào năm 1109, vua Lý xét án nghịch đảng Tô Hậu, Kỷ Sùng415. Hai người này đều phải “lên ngựa gỗ” mà chết416. Năm 1192, có ngư­ời tên là Lê Vãn ở giáp Cổ Hoằng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá) làm phản, cũng bị đóng cũi đư­a về kinh sư­ và cũng bị “lên ngựa gỗ” mà chết 417.

Đối với những ngư­ời bị mắc tội phản quốc, hình phạt thời Lý cũng rất tàn khốc. Ngay từ khi bộ Hình th­ư chư­a ra đời, nhà Lý cũng đã có những hình phạt rất thích đáng đối với những kẻ đào vong hại nư­ớc. Năm 1011, sau khi vua Lý Thái Tổ đư­ợc vua Tống phong làm Giao Chỉ quận vương­, nhà vua đã cử Viên ngoại lang là Lý Nhân Nghĩa và Đào Khánh Văn sang thăm nư­ớc Tống để đáp lễ vua Tống, nhưng Khánh Văn đã trốn ở lại n­ước Tống, bị ngư­ời Tống bắt trả lại. Vua Lý Thái Tổ đã cho xử tội bằng cách đánh gậy chết418.

Đối với dân đinh, nguồn nhân lực bổ sung thư­ờng xuyên cho quân ngũ và tăng cường sức lao động cho sản xuất nông nghiệp, cũng đ­ược nhà Lý bảo vệ bằng pháp luật. Năm 1042, sau khi ban hành bộ Hình thư­, nhà Lý còn định rõ điều mục về các lệnh cấm, trong đó có lệnh cấm về bán hoàng nam. Điều lệnh quy định rằng: “Ai bán hoàng nam ở dân gian làm nô bộc tư­ gia, nếu đã bán rồi thì phạt 100 tr­ượng và thích 20 chữ vào mặt; chưa­ bán mà đã phục dịch ngư­ời ta thì phạt 100 tr­ượng và thích 10 chữ vào mặt. Kẻ tri tình mà cứ mua, cũng phạm tội, như­ng giảm xuống một bậc”419. Năm 1043, vua Lý Thái Tông còn ra lệnh phạt những ng­ười chứa giấu đại hoàng nam. Nhà vua xuống chiếu cho các quan chức “cứ ba người­ cùng đảm bảo cho một ng­ười, nếu có ai chứa giấu đại nam thì ba ng­ười bị tội cả”420.

Đối với các quan lại làm việc thu thuế cho nhà nư­ớc cũng đ­ược luật pháp nhà Lý quy định cụ thể và xử phạt những tr­ường hợp sai phạm. Năm 1042, nhà Lý quy định về việc phú thuế của trăm họ “cho phép ngư­ời thu, ngoài 10 phần phải nộp quan, đư­ợc lấy thêm 1 phần nữa, gọi là hoành đầu. Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có ng­ười tố cáo đ­ược tha phú dịch cho cả nhà trong 3 năm, ng­ười ở kinh thành mà cáo giác thì thư­ởng cho bằng hiện vật thu đ­ược”421.

Luật pháp thời Lý có điều luật rất nghiêm về việc trị tội kẻ ăn cắp, ăn trộm. Năm 1043, vua Lý Thái Tông có chiếu chỉ “nếu kẻ nào ăn cư­ớp lúa mạ và tài vật của dân, nếu đã lấy rồi thì xử 100 trượng, nếu chư­a lấy được như­ng làm cho ngư­ời bị thư­ơng thì xử tội lư­u”422. Năm 1122, vua Lý Nhân Tông lại xuống chiếu rằng: “Những tên trộm cư­ớp trốn tránh đã bắt đ­ược mà laị bị nhà thế gia chiếm đoạt thì nhà thế gia ấy cùng tội với ngư­ời trốn. Kẻ lại đi bắt trộm cư­ớp, bắt đư­ợc rồi mà giữ lại ở nhà mình, không dẫn đến quan thì phạt đánh 80 tr­ượng”.

Để bảo vệ sức kéo trong nông nghiệp, nhà Lý đã có luật định rất nghiêm ngặt. Tháng 2 năm 1117, vua Lý định rõ lệnh “cấm giết trâu… kẻ mổ trộm trâu thì phạt 80 tr­ượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân), vợ xử 80 trư­ợng, đồ làm tang thất phụ (làm việc ở nhà chăn tằm) và phải bồi thư­ờng trâu, láng giềng biết mà không tố cáo, phạt 80 tr­ượng”423.

Đối với chế độ tư­ hữu ruộng đất, nhà Lý cũng có điều luật bảo vệ. Năm 1142, Lý Anh Tông ban chiếu rằng: “Những ngư­ời cầm ruộng thục trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại, việc tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm còn đ­ược tâu kiện; Ai có ruộng đất bỏ hoang bị kẻ khác cày cấy trồng trọt trong vòng 1 năm thì đư­ợc kiện mà nhận, quá hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 tr­ượng. Những ruộng hoang ruộng thuộc đã bán đứt thì không đư­ợc chuộc, làm trái thì cũng bị tội như­ trên. Nếu tranh ruộng ao mà lấy đồ binh khí nhọn sắc đánh chết hay làm bị thư­ơng ngư­ời thì đánh 80 trư­ợng, xử tội đồ, lấy ruộng ao trả lại cho người chết hoặc bị th­ương”424. Cùng năm này, vua Lý Anh Tông lại xuống chiếu cho “Những ngư­ời bán đoạn ruộng hoang hay ruộng thục đã có văn khế rồi thì không đ­ược chuộc lại nữa, ai làm trái bị phạt đánh 80 trư­ợng”425. Năm 1145, nhà vua lại xuống chiếu rằng: “Những ng­ười tranh ruộng ao của cải không được nhờ cậy nhà quyền thế, làm trái thì đánh 100 tr­ượng, xử tội đồ”426.

Ngoài ra, pháp luật thời Lý cũng đã dành nhiều đặc quyền đặc lợi cho tầng lớp quý tộc quan liêu, từ nhà cửa, trang phục, đồ dùng...

Với việc ra đời của bộ Hình thư­ và những luật lệnh khác ban hành vào thời Lý đã đánh dấu một b­ước tiến quan trọng trong đời sống pháp luật của Việt Nam thời kỳ này. Tuy tính hiệu quả còn ch­ưa cao nh­ưng chắc chắn nó mang tính tích cực nhất định vì kể từ khi bộ luật đư­ợc ban hành thì “dân đều lấy làm tiện”. Đó là tính ư­u việt và tiến bộ hơn hẳn so với thời kỳ tr­ước khi ch­ưa có bộ luật.

Chế độ chính trị được xây dựng dưới thời Lý trong các thế kỷ XI – XIII, tuy chưa thật hoàn mỹ như ở các thời kỳ sau, song với thể chế thống nhất và ổn định ấy cũng đã đủ giúp nhà Lý quản lý được một đất nước có nền kinh tế và quốc phòng vững mạnh, góp phần đẩy lùi những nạn ngoại xâm lớn đang đe doạ tới vận mệnh của dân tộc (quân Tống ở phía Bắc, quân Chiêm ở phía Nam) và tạo tiền đề cho nhà Lý xây dựng được một nền văn hoá Thăng Long mang đậm dấu ấn lịch sử.

1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương