V. THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH 1. Chế độ báo cáo.
a) Hồ sơ bệnh án, sổ theo dõi và biểu mẫu báo cáo:
- Hồ sơ bệnh án và đơn xin điều trị của người bệnh thực hiện theo quy định tại “Hướng dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone và hướng dẫn tổ chức thực hiện” do Bộ Y tế ban hành.
- Cơ sở điều trị phải có sổ theo dõi số người bệnh tham gia điều trị và một số thông tin cơ bản liên quan đến việc điều trị bằng Methadone.
- Biểu mẫu báo cáo: Thực hiện theo đúng các biểu mẫu báo cáo do Bộ Y tế quy định.
b) Chế độ báo cáo: Thực hiện báo cáo định kỳ (tháng/quý/năm) và báo cáo đột xuất khi có yêu cầu.
- Báo cáo thường xuyên:
+ Thời điểm khóa sổ báo cáo là ngày cuối cùng của tháng, quý, năm.
+ Cơ sở điều trị Methadone có nhiệm vụ thực hiện các báo cáo tuần, tháng, quý, năm. Báo cáo hàng tháng gồm:
++ Báo cáo số người bệnh tham gia điều trị bằng thuốc Methadone.
++ Báo cáo số lượng thuốc Methadone đã sử dụng của cơ sở điều trị .
++ Báo cáo tình hình kho và dự trù thuốc Methadone.
- Trên cơ sở các báo cáo tháng, tổng hợp thành báo cáo quý và năm.
+ Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS có nhiệm vụ tổng hợp báo cáo của của cơ sở điều trị (tháng, quý, năm) thành báo cáo chung của tỉnh Hà Nam và gửi báo cáo lên Ban Chỉ đạo Chương trình tỉnh Hà Nam và Bộ Y tế (Cục Phòng, chống HIV/AIDS). Thời hạn gửi báo cáo tháng trước ngày 10 tháng sau, báo cáo quý trước ngày 15 tháng đầu của quý sau, báo cáo năm trước ngày 20 tháng 01 năm sau.
- Báo cáo đột xuất: Cơ sở điều trị có trách nhiệm báo cáo đột xuất theo yêu cầu của UBND tỉnh, Bộ Y tế và các cơ quan liên quan khi có yêu cầu.
c) Phần mềm quản lý người bệnh: Cơ sở điều trị triển khai áp dụng phần mềm quản lý bệnh nhân điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone do Bộ Y tế xây dựng.
2. Kiểm tra, giám sát hoạt động.
- Tổ chức giao ban hàng tuần tại cơ sở điều trị Methadone để đánh giá kết quả điều trị trong tuần và triển khai công việc tuần tiếp theo.
- Tổ chức giao ban hàng tháng giữa cơ sở điều trị Methadone và Ban xét chọn bệnh nhân bao gồm đại diện các ngành Công an, Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố để đánh giá tiến độ triển khai và kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai Chương trình.
- Tổ chức họp Ban Chỉ đạo triển khai chương trình tỉnh hàng quý hoặc tổ chức họp đột xuất theo đề nghị của bộ phận thường trực cấp tỉnh để đánh giá sự phối hợp liên ngành trong việc triển khai chương trình, những khó khăn vướng mắc và cách giải quyết.
- Tổ chức các đợt kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc kiểm tra đột xuất của Ban Chỉ đạo triển khai chương trình tỉnh để tăng cường chỉ đạo thực hiện chương trình theo các mục tiêu và tiến độ đề ra.
3. Đánh giá hiệu quả triển khai chương trình.
Ban Chỉ đạo triển khai chương trình tỉnh Hà Nam phối hợp với Cục Phòng, chống HIV/AIDS tiến hành đánh giá trước, trong và sau khi kết thúc chương trình; nội dung đánh giá tập trung thông qua các chỉ số chủ yếu sau:
- Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị;
- Tình hình điều trị: liều điều trị, thời gian dò liều...;
- Tỷ lệ bệnh nhân gặp các tác dụng phụ của thuốc, tỷ lệ bệnh nhân quá liều trong thời gian điều trị;
- Tỷ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm người bệnh tham gia chương trình.
- Hành vi nguy cơ nhiễm HIV của người bệnh tham gia chương trình;
- Tần suất sử dụng các CDTP trước, trong và sau khi điều trị thay thế bằng Methadone của người bệnh;
- Đối tượng tham gia chương trình có việc làm;
- Hành vi tội phạm hình sự của các đối tượng tham gia chương trình;
- Mối quan hệ của các đối tượng tham gia chương trình với gia đình;
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình.
VI. KINH PHÍ HOẠT ĐỘNG
1. Nội dung đầu tư.
1.1 Sửa chữa/nâng cấp các phòng/khu vực chức năng trong cơ sở điều rị Methadone đặt tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Hà Nam theo quy định của Bộ Y tế;
1.2. Mua sắm trang thiết bị chuyên môn y tế, thiết bị văn phòng, vật tư tiêu hao, xét nghiệm, chi phí mua thuốc Methadone.
2. Nguồn vốn đầu tư.
- Ngân sách địa phương
- Ngân sách Trung ương: Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ;
- Các nguồn tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức quốc tế, huy động đóng góp của cộng đồng;
- Huy động các nguồn vốn hợp pháp khác;
Trước mắt, kinh phí chi duy trì hoạt động cơ sở điều trị Methadone bao gồm chi trả lương cho cán bộ, kinh phí vận hành, thuốc Methadone... sẽ do các dự án quốc tế tài trợ. Khi hết tài trợ, kinh phí cho hoạt động của các cơ sở điều trị Methadone trên địa bàn tỉnh Hà Nam sẽ được bố trí từ nguồn ngân sách của tỉnh, nguồn chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống HIV/AIDS, chương trình phòng chống tệ nạn ma túy và hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ.
VII. CÁC YẾU TỐ RỦI RO
1. Đối với người bệnh.
- Quá liều: Có thể xảy ra trong 1-2 tuần đầu điều trị thay thế bằng thuốc Methadone, do liều quá cao hoặc chưa xác định được liều phù hợp cho người bệnh. Hiện tượng quá liều có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng đồng thời rượu và các chất gây nghiện khác. Nguy cơ quá liều sẽ giảm đi khi người bệnh chuyển sang giai đoạn điều trị duy trì.
- Ngộ độc thuốc: Có thể xảy ra nếu người bệnh nghiện rượu hoặc đồng thời sử dụng các loại CDTP khác khi đang tham gia điều trị bằng Methadone.
Người bệnh vẫn tiếp tục sử dụng CDTP trong thời gian đầu điều trị Methadone. Trường hợp này cần đánh giá cân nhắc việc tăng liều cho người bệnh trong mức an toàn cho phép và áp dụng các biện pháp tư vấn, hỗ trợ.
- Nguy cơ tử vong: Người bệnh có thể tử vong do quá liều (có thể gặp trong giai đoạn đầu, hiếm gặp trong giai đoạn điều trị duy trì) và các nguyên nhân khác như nhiễm HIV/AIDS giai đoạn cuối, tai nạn, v.v...
- Tiếp tục có các hành vi tội phạm: Người bệnh có thể vẫn tiếp tục có hành vi tội phạm trong thời gian đầu điều trị, song nguy cơ này sẽ giảm đi đáng kể trong quá trình điều trị.
2. Đối với chương trình.
- Quản lý thuốc Methadone: Việc quản lý thuốc không chặt chẽ có thể dẫn đến một số rủi ro như thiếu/thừa thuốc, thất thoát, rò rỉ thuốc, sử dụng thuốc sai mục đích, thuốc quá hạn, cấp phát thuốc không đúng đối tượng.
- Người bệnh bỏ điều trị: Tỷ lệ bỏ điều trị liên quan đến nhiều yếu tố, thay đổi tùy theo hoàn cảnh và tùy từng cơ sở như: xét chọn người bệnh không đúng tiêu chuẩn; ý thức của người bệnh trong việc tuân thủ điều trị; chất lượng tư vấn điều trị của cán bộ y tế, của tuyên truyền viên đồng đẳng và của gia đình; liều lượng thuốc điều trị; vị trí đặt cơ sở điều trị (không thuận lợi cho người bệnh trong việc tiếp cận dịch vụ, khoảng cách đi lại), sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng...
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |