Yang Jian
82
Vương Thúy Kiều, thế thái nhân tình, sự bất lực vô
vọng trong cuộc sống, sự đè nén bởi thế lực gia tộc
phong kiến,… “Tứ khố đại từ điển” khi nhận xét về giá
trị nghệ thuật của “Kim Vân Kiều Truyện” đã chỉ ra:
“giá trị nghệ thuật lớn nhất của cuốn sách này là hình
tượng Thúy Kiều được khắc họa rất tươi mới, tình tiết li
kì biến hóa. Nhưng ngôn ngữ lại có phần thiếu sinh
động, tình tiết đan xen lời tiên đoán về số mệnh, điều
này là chỗ còn thiếu sót. Nói tóm lại, cuốn sách này có
một vị trí nhất định trong lĩnh vực tiểu thuyết thời kì
Minh - Thanh nhưng không thuộc tác phẩm hạng hai
hạng ba”
[3, tr. 2208]. Không rõ do thời kì này xuất hiện
quá nhiều tác phẩm xuất sắc hay do cuốn tiểu thuyết còn
nhiều hạn chế, khiếm khuyết, mặc dù được in ấn xuất bản
nhiều lần nhưng “Kim Vân Kiều Truyện” như ngọc dưới
cát, không gây được sự chú ý cho người đọc, ngay cả nhà
nghiên cứu khởi xướng lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc,
ông Lỗ Tấn, cũng chưa từng nhắc đến tác phẩm này. Đến
năm 1931, ông Tôn Khải Đệ trong cuốn “Đại cương tiểu
thuyết thông tục Trung Quốc: thể loại tài tử giai nhân”
lần đầu tiên mới nhắc đến “Kim Vân Kiều Truyện”.
Năm 1813, thi hào Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc,
với sự uyên thâm về Hán ngữ và văn học cổ điển Trung
Quốc, ông tìm đọc được “Kim Vân Kiều Truyện” và
thấy vô cùng yêu thích. Mấy năm sau khi về nước ông
đã tiến hành dịch 3254 câu thơ trong “Kim Vân Kiều
Truyện” sang chữ Nôm [4, tr.82]. Nguyễn Du đã vận
dụng thành công lối hành thơ lục bát chữ Nôm, cấu trúc
lại “Kim Vân Kiều Truyện” thành tác phẩm thơ phù hợp
với âm luật đặc sắc trong văn học dân gian Việt Nam.
“Chữ Nôm” được sáng tạo từ chữ Hán, xuất hiện vào
thế kỉ 14, được người Việt Nam vận dụng cách tạo chữ
như tượng thanh (hình/ hài thanh), hội ý, chỉ sự,… kết
hợp ngữ âm tiếng Việt sáng tạo thành kiểu văn tự mới,
có số nét khá phức tạp. Nhưng đây là lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam người Việt đã đưa được chữ viết và
ngữ âm kết hợp sáng tạo thành hệ thống văn tự của dân
tộc mình. Đầu thế kỉ 20, Việt Nam bắt đầu sử dụng
tiếng Việt Nam hiện đại do các nhà truyền giáo phương
Tây kết hợp giữa mẫu tự La tinh phiên âm tiếng Việt và
dần dần từ bỏ sử dụng chữ Nôm. Cũng từ đây “Kim Vân
Kiều Truyện” bản chữ Nôm được các thế hệ sau dịch lại
bằng mẫu tự La tinh, lấy tên là “Truyện Kiều”. Đến nay
Việt Nam đã có hơn 50 phiên bản
Truyện Kiều bao gồm
cả chữ Nôm và mẫu tự La tinh phiên âm hóa
[5, tr.234].
“Truyện Kiều” giữ nguyên được nhân vật và tình tiết
câu chuyện của “Kim Vân Kiều Truyện”, nhưng áp
dụng thể thơ lục bát khiến cho vẻ đẹp ngôn ngữ dân tộc
được thể hiện rõ nét hơn. Tình tiết hấp dẫn cộng với lời
thơ uyển chuyển đã khiến cho “Truyện Kiều” không chỉ
được độc giả trong nước đón nhận mà còn được dịch ra
nhiều thứ tiếng khác nhau như Trung, Anh, Đức, Pháp,
Nga, Nhật, Hàn, Séc,… làm tác phẩm trở nên nổi danh
trên thế giới.
Năm 1959, ông Hoàng Dật Cầu lấy bản chữ Nôm
“Kim Vân Kiều Truyện” của Nguyễn Du kết hợp với
bản tiếng Việt La Tinh hóa dịch sang tiếng Hán và giữ
nguyên tiêu đề. Với việc “Truyện Kiều” được dịch sang
tiếng Hán thì ngày càng có nhiều độc giả Trung Quốc
quan tâm đến việc “Kim Vân Kiều Truyện” được truyền
bá và ảnh hưởng đến các quốc gia xung quanh. Tiếp đó,
các học giả như Đổng Văn Thành, Trần
Quang Huy,
Trần Ích Nguyên, Lý Trung Hiếu, Triệu Ngọc Lan, Lô
Trường Sơn, Kỳ Quảng Mưu, Lưu Trí Cường,… đã bắt
đầu quan tâm nghiên cứu sự dịch chuyển của “Kim Vân
Kiều Truyện” tại Việt Nam, các bài viết về “Truyện
Kiều” bản tiếng Hán cũng ngày càng nhiều hơn.
Có lẽ cũng vì số mệnh lưu truyền của hai tác phẩm
có sự khác nhau mà sự nhận xét về “Truyện Kiều”
thường có vẻ cao hơn so với tiểu thuyết thời
Minh -
Thành “Kim Vân Kiều Truyện”. Giới học giả Việt -
Trung vẫn chưa đưa ra được ý kiến thống nhất đối với
sự đánh giá về hai tác phẩm này. Xét về nguyên nhân cơ
bản, chính vì nhiều học giả đều nghĩ rằng giá trị văn học
của bản dịch thường thấp hơn nguyên bản. Tuy nhiên,
từ Walter Benjamin, Des Tours de Babel đến Lawrence
Venuti theo trường phái chủ nghĩa hậu cấu trúc luận đã
chỉ ra rằng: nên đề cao vị trí tính sáng tạo của người
dịch và lời dịch. Họ cho rằng có thể coi nguyên bản là
“đời này” và bản dịch là “đời sau”, người dịch cũng là
chủ thể của sáng tạo, bản dịch chính là sự sáng tạo của
ngôn ngữ mới. Phương pháp suy luận này cho chúng ta
một cách nhìn mới về vấn đề từ trước đến nay chúng ta
luôn lấy nguyên bản làm trung tâm, việc dịch thuật thì
cứ theo nguyên văn mà làm. Ngoài ra, dịch thuật đối với
tác phẩm văn học nước ngoài không phải “cần giống”
mà cần “có điểm khác biệt”, mục đích không phải xóa
bỏ sự khác biệt trong quá trình dịch, mà là biểu đạt sự
khác biệt giữa hai nền văn hóa và ngôn ngữ trong quá
trình dịch
[7, tr.49
]
. Nghĩa là nhấn mạnh yếu tố bản địa
hóa trong tiếp nhận.