Đào Việt Tuấn Trung tâm Phòng, chống hiv/aids hải Phòng



tải về 2.48 Mb.
trang13/20
Chuyển đổi dữ liệu27.07.2016
Kích2.48 Mb.
#7899
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   20

BÀN LUẬN

Đối tượng sử dụng ATS còn khá trẻ, đặc biệt đối tượng hiện đang sử dụng ATS trẻ hơn hẳn so với nhóm đối tượng không sử dụng ATS với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.Điều này cho thấy xu hướng sử dụng đồng thời heroin với ATS là phổ biến trong nhóm người sử dụng heroin trẻ tuổi.Tuổi trung bình của các đối tượng tham gia nghiên cứu này cũng tương đồng với một số nghiên cứu khác về tình hình sử dụng các chất gây nghiện [2,3]. Đây cũng là lứa tuổi có nhu cầu tình dục cao và hoạt động tình dục mạnh mẽ, do đó sẽ dễ có các hành vi nguy cơ liên quan đến tình dục hơn nếu sử dụng đồng thời nhiều loại ma túy [3].

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tình trạng phổ biến của việc sử dụng đồng thời nhiều loại ma túy trong một thời điểm, với 69% đối tượng sử dụng ATS cùng với hành vi tiêm chích heroin. Mặc dù tỷ lệ đã từng sử dụng thuốc lắc và đá không có sự khác biệt nhiều (77% và 80%), nhưng tỷ lệ hiện đang sử dụng lại có sự chênh lệch khá lớn. 64,8% đối tượng cho biết hiện đang sử dụng đá, trong khi chỉ có 42,2% sử dụng thuốc lắc và 14,8% sử dụng hồng phiến. Điều này phản ánh những thay đổi hiện nay trong xu hướng sử dụng các loại ATS, trong đó ma túy đá đang ngày càng trở thành trào lưu mới của giới trẻ. Xu hướng giảm sử dụng thuốc lắc và tăng sử dụng hàng đá cũng tương đồng với xu thế chung của một số nước châu Á hiện nay [4].

Tuy lý do sử dụng của các loại ATS khá tương đồng nhưng hình thức sử dụng và địa điểm sử dụng các loại ma túy tổng hợp dạng amphetamine có sự khác biệt khá lớn. Hồng phiến và hàng đá chủ yếu được sử dụng qua đường hút (45,0% và 93,8%)và chủ yếu ở khách sạn, nhà nghỉ trong khi thuốc lắc chủ yếu được uống (90,8%) tại các quán bar hay sàn nhảy. Hình thức sử dụng ATS chủ yếu bằng uống hoặc hút tuy không trực tiếp liên quan đến nguy cơ lây nhiễm HIV như hình thức tiêm chích ma túy nhưng có thể gián tiếp làm tăng tỷ lệ nhiễm HIV do các loại ATS này thường được sử dụng trong bối cảnh tình dục [5].



KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết luận

Tỷ lệ sử dụng đồng thời các ma túy khác, đặc biệt là ATS, trong nhóm nam sử dụng heroine rất cao.

Có sự khác biệt trong cách lựa chọn hình thức và địa điểm sử dụng đối với từng loại ATS của đối tượng nghiên cứu.

Khuyến nghị

Các can thiệp cho đối tượng sử dụng heroin cần quan tâm đến thực trạng và nguy cơ từ việc sử dụng đồng thời heroin với các ma túy khác.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Y tế (2012). Báo cáo tình hình nhiễm HIV/AIDS và hoạt động phòng, chống HIV/AIDS năm 2011. phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu năm 2012. Trang 73.

2. IBBS 2009. Results from the HIV/STI integrated biological and behavioral surveillance (IBBS) in Vietnam, round II —2009.

3. Ms Huệ (2010).Tình hình sử dụng cùng lúc nhiều loại chất gây nghiện ở đối tượng tiêm chích ma túy tại TPHCM. Tạp chí Y học thực hành số 742 + 743. trang 245 – 251.

4. UNODC (2012). Patterns and Trends of Amphetamine-Type Stimulants and Other Drugs: Asia and the Pacific. 2012a

5. Colfax G, Santos GM, Chu P, Vittinghoff E, Pluddemann A, Kumar S, Hart C. Amphetamine-group substances and HIV. Lancet. 2010 Aug 7; 376(9739):458-7



TÌM HIỂU CÁC MẠNG LƯỚI TÌNH DỤC CỦA NAM GIỚI

CÓ QUAN HỆ TÌNH DỤC LƯỠNG TÍNH Ở HÀ NỘI

Đặng Văn Khoát, Phạm Hạnh Vân, Siobhan, Peter Higgs và cộng sự

TÓM TẮT

Nghiên cứu của Viện Burnet Australia và VICOMC ở Việt Nam nhằm mục đích tìm hiểu các mạng lưới của nam giới có quan hệ tình dục lưỡng giới ở Hà Nội.Phối hợp nghiên cứu định tính với 96 nam giới có quan hệ tình dục (QHTD) đồng tính (MSM) và định lượng với 249 MSM và bạn tình của họ trong thời gian 2010-2011. Kết quả cho thấy MSM có QHTD với cả nam và nữ (lưỡng tính) là đa dạng, bao gồm cả những người có khuynh hướng tình dục đồng tính hoặc dị tính, cả những người có hoặc không có sở thích tình dục đồng tính nhưng vì nhiều lý do khác về kinh tế, xã hội. MSM có QHTD lưỡng tính có hành vi nguy cơ cao hơn, số bạn tình nhiều hơn và ít sử dụng bao cao su thường xuyên hơn. Họ đặc biệt có vai trò kết nối các mạng lưới QHTD đồng tính và QHTD dị tính.Khuyến nghị: MSM có QHTD lưỡng tính cần được quan tâm đặc biệt để dự phòng HIV cho nam giới và cho cả phụ nữ, những người là bạn tình hoặc vợ của MSM có QHTD lưỡng tính.

SUMMARY

The study was conducted by Australian Burnet Institute and Vietnamese VICOMC in order to understand the networks of bisexual men in Hanoi. We conducted both qualitative research on 96 men who have sex with men (MSM) and quantitative research on 249 MSMs and their partners in 2010-2011. Result shows that MSMs who have sex with both men and women (bisexual) are diversified, including those having bisexual or heterosexual tendancy, even those who do not like bisexual but bound by other economic, social reasons. We emphasized that MSMs have bisexual sex also have higher risk, more sex partners and less condom usage. Especially, they have a role in connecting bisexual and heterosexual sex networks. We recommend taking special attention to MSMs having bisexual sex to prevent HIV for both men and women, sex partners or wives of bisexual.
ĐẶT VẤN ĐỀ

Viện Burnet tiến hành nghiên cứu “Tìm hiểu các mạng lưới tình dục của nam giới có QHTD với cả nam và nữ tạiViên Chăn, Lào và Hà Nội, Việt Nam”.Nghiên cứu ở Việt Nam có sự hợp tác giữaViện Burnet với Trung tâm Huy động Cộng đồng Việt Nam (VICOMC). Báo cáo nghiên cứu này dựa chủ yếu vào báo cáo nêu trên công bố vào tháng 9.2011; và được bổ sung vào tháng 6.2013. Ở châu Á, các ước tính về tỷ lệ của nam đã từng có QHTD đồng tính (MSM) rất khác nhau, từ 33% đến18% (1), (4). Một sốphụ nữ, chủ yếu là đã kết hôn thường được xem là có cơ thấp, sẽ nhiễm HIV do bạn tình hoặc chồng của họ, trong đó có những MSM có QHTD đồng tính (4). Ở Việt Nam, theo báo cáo tháng 3.2012 của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS; phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm về “Tiến độ phòng chống AIDS Việt Nam năm 2012 giai đoạn 2012-2011”, tỉ lệ nhiễm HIV ở Hà Nội trong nhóm MSM bán dâm là từ 14.8% đến 14,3% và trong nhóm MSM không bán dâm là 19,8% (IBBS 2009) (1). Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các mạng lưới tình dục của MSM, vai trò kết nối của MSM có QHTD lưỡng tính ở Hà Nội và thêm các bằng chứng về tiềm năng lây truyền HIV giữa các mạng lưới tình dục khác nhau của MSM.



PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu định tính

Tập trung vào lý do dẫn đến QHTD đồng tính, nơi và việc hẹn hò, thương lượng và QHTD, ảnh hưởng của thời điểm và nơi diễn ra các hành vi tình dục. Các phương pháp là lập bản đồ, ghép cặp hợp lý (pair-wise ranking), thảo luận nhóm trọng tâm (TLN) và phỏng vấn người thông tin chủ chốt.Nghiên cứu định tính bao gồm 14 cuộc TLN do điều tra viên đồng đẳng tiến hành với 96 MSM tham gia trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 10.2010. Những người tham gia (NTG) được tuyển chọn tại những nơi MSM thường lui tới.



Nghiên cứu định lượng

Tìm hiểu khuynh hướng tình dục, hành vi tình dục thâm nhập, số và loại bạn tình, kiến thức về HIV lây qua đường tình dục, việc sử dụng bao cao su thường xuyên, và lập bản đồ mạng lưới tình dục trong quý 4 năm 2010. Nghiên cứu vận dụng bảng câu hỏi chọn mẫu hướng về người được phỏng vấn, nam và nữ có bảng hỏi riêng.Những NTG là MSM lưỡng tính và các bạn tình của họ.Mười hạt giống (HG - seed) ban đầu đã được tuyển chọn, trong đó có hai người nghiện chích ma túy. Đó là những người báo cáo có QHTD lưỡng tính trong 12 tháng qua. Những HG này sau đó đã tuyển chọn 49 điểm kết nối (ĐKN1 - node) trong vòng sóng đầu tiên; 49 ĐKN1 này lại tuyển chọn 155 ĐKN2 của vòng sóng thứ hai; 155 ĐKN2 này sau đó tuyển chọn 32 ĐKN3 trong vòng sóng thứ ba.Tổng cộng có 246 NTG được tuyển chọn và 239 người được đưa vào kết quả phân tích dữ liệu.



Đạo đức nghiên cứu

Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội đã duyệt đề tài vào tháng 3.2010.



Phân tích

Kết quả phỏng vấn được xử lý và phân tích bằng phần mềm stataSTATA 11 11.



KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu định tính

MSM ở Hà Nội thường hẹn hò với nhau ở công viên, bờ hồ, sàn nhẩy, quán bar, phòng tắm hơi, mát xa; còn QHTD thường là ở khách sạn, nhà nghỉ, sauna, ở công viên, các chợ tình và ở các cơ sở khép kín. Họ đã nói về sở thích tình dục.“Mình thích QHTD đồng tính để thỏa mãn chứ không phải để yêu.Khi mình chán nữ thì mình tìm nam” hoặc “Mình thích nam vì mình có thể là người cho và cũng có thể là người nhận.Còn phụ nữ, họ chỉ nằm và chờ ta thôi”.Có bạn kể “Có một hôm, thày giáo bảo mình đến phòng ngủ của thày xem phim và thế là mình bị ép phải QHTD”. Bạn khác nhớ lại: “Hồi nhỏ mình chơi với các bạn ở vườn hoa hàng Đậu. Các dì (là nam) dụ dỗ bọn mình đến nhà, bảo QHTD và cho tiền. Bạn khác kể chuyện QHTD đồng tình ở nơi chỉ có đàn ông: “Mình đi bộ đội. Ở Hà Giang rét quá và hai đứa thường ngủ chung chăn. Sau lần đầu ôm ấp, cả hai đứa đều ngượng; nhưng rồi lại thích “yêu” nhau. Hết nghĩa vụ cả hai đứa đều lấy vợ và chuyện cũ chỉ còn là kỷ niệm”.

Rượu làm dễ quên bao cao su (BCS): “Chính mình say rượu khi QHTD đồng tính mình cũng chẳng dùng BCS”. Rượu còn tiếp tay cho lạm dụng tình dục: “Mình uống rượu say với mấy đứa bạn ở nhà nghỉ. Sáng hôm sau, mình mới biết mình đã phải làm bot. Nhưng không thằng nào nhận đêm qua đã lạm dụng mình”.

Có bạn cho rằng “Tôi nghĩ ma túy làm cho mình hứng lên và QHTD lâu hơn.Khi dùng amphetamin, tôi chẳng quan tâm bạn tình mình là ai”. Ma túy liên quan đến mại dâm: “Những người tiêm chích ma túy như mình cần tiền, các bạn của mình hầu hết bán dâm..Mà bán dâm ít nguy hiểm hơn là trộm cắp”. “Còn mình đã lấy vợ được một năm nhưng thất nghiệp.Mình phải QHTD đồng tính để có tiền”. Bạn khác nói thẳng: “Nam giới như tôi cóQHTDlà để kiếm tiền. Người khác là gay có vợ nhưng vẫn thích QHTD đồng tính”. Có bạn tâm sự: “Anh ta là gay người nước ngoài đã giúp mình rất nhiều nhưng không cần mình trả nợ. Mình đã QHTD với anh ta như để trả ơn”.

Họ có thê tin ở bạn tình: “It khi tôi dùng BCS, chỉ dùng BCS khi mình không tin tưởng thôi”. Có khi là thiếu BCS: “Mình chỉ dùng BCS ở sauna vì ở đó sẵn có. Nơi khác thì không, kiếm đâu ra BCS”. Có khi vì mùi vị BCS “Minh không dùng bao cao su khi quan hệ tình dục đường miệng, mùi vị nó khó chịu lắm”.

Có bạn chia sẻ “Mình cố gắng giấu kín vì họ không cởi mở đâu. Vợ mình nếu biết cũng không tha đâu”. Nhưng cũng có bạn hi vọng “Đôi khi mình cảm thấy xấu hổvì mình là MSM. Thái độ cuả xã hội đang thay đổi. Hi vọng trong tương lai xã hội sẽ có cái nhìn khác về MSM”.



Nghiên cứu định lượng

Có 177 NTG đã trả lời và cho thấy MSM lưỡng tính so với với nam đồng tính và dị tính có số bạn tình nhiều nhất (11,5 so với 2,5 và 2,5) kể cả số bạn tình là nam (7 so với 2 và 0) và số bạn tình là nữ (4 so với 0 và 2). Tuy nhiên họ lạicó mức độ sử dụng BCS thường xuyên (16%) ít hơn MSM đồng tính (35%). Tỉ lệ sử dụng BCS trong quan hệ với những người chuyển giới của MSM lưỡng tính thấp hơn so với MSM đồng tính (39% và 50%), với nam giới cũng vậy (28% và 35%). Tất cả NTG có kiến thức khá về sử dụng bao cao su, nhưng thực tế lại ít khi dùng bao cao su thường xuyên.

Bản đồ về các mạng lưới tình dục dưới đây cho thấy các mạng lưới tình dục của MSM không loại trừ nhau và đặc biệt MSM có QHTD lưỡng tính có vai trò chủ chốt kết nối các mạng lưới này do có QHTD với cả nam và nữ.

BÀN LUẬN

Nơi hẹn hò và nơi QHTD có ảnh hưởng đến việc sử dụng bao cao su, nơi đó có sẵn bao cao su hay không.Vì thế, nên khuyến khích và bình thường hóa việc trong túi có bao cao su; đa dạng hóa việc cung cấp miễn phí bao cao su đảm bảo đễ dàng và kín đáo tiếp nhận.Những lý do dẫn đến QHTD đồng giới là đa dạng, không phải chỉ có yếu tố khuynh hướng tình dục mà còn là sở thích tình dục, hoặc ở nơi chỉ có nam giới với nhau. QHTD đồng tính có thể đồng thuận hay cưỡng ép, trả ơn hoặc mua bán dâm. Từ hiểu biết về BCS đến việc dùng thường xuyên BCS còn một khoảng cách lớn; MSM lưỡng tính trong nghiên cứu này có các hành vi có nguy cơ cao hơn MSM đồng tính hoặc MSM dị tính. Lý do họ nêu ra tương tự như một nghiên cứu về “Tiếp cận MSM ở TP Hồ Chí Minh”: Không sử dụng BCS vì nó giảm khoái cảm, bạn tình là quen biết và khỏe mạnh, hoặc không có sẵn BCS (3).

Các mạng lưới xã hội và tình dục ngày càng được quan tâm trong nghiên cứu. Một nghiên cứu về “Các đặc điểm xã hội và tình dục với các đối tác tình dục trong các phụ nữ Hoa Kỳ gốc Phi có nguy cơ cao ở thành phố” của Grieb SM và CS đã cho thêm bằng chứng về sử dụng ma túy đồng hành với mạng lưới QHTD.

Chúng tôi cho rằng HIV và các bệnh lây qua đường tình dục (STIs) khác là nhiễm trùng dựa trên hành vi, tiến triển của dịch trong một quần thể không xảy ra một cách thống nhất hoặc ngẫu nhiên, mà là kết quả tương tác xã hội thân mật và phức tạp giữa hai hoặc nhiều người. Nguy cơ của một cá nhân nhiễm trùng không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm và hành vi của cá nhân, mà còn vào đặc điểm và hành vi những đối tác của mình, và những đối tác của các đối tác đó. Rủi ro, nói cách khác, phụ thuộc vào toàn bộ mạng lưới và vào mức độ và cơ cấu liên hệ QHTD trong cả hệ thống. Trong sơ đồ các mạng lưới của NTG dưới đây, ô vuông màu xanh đại diện cho NTG là nam và vòng tròn mầu đỏ đại diện cho NTG là nữ. Những ô màu xanh lớn nhất đại diện cho 10 NTG là hạt giống. Mạng thành phần lớn nhất (bên dưới sơ đồ) có 95 NTG liên kết bốn hạt nhân (E, J, B và I), làm nổi bật tầm quan trọng của cấu trúc mạng cho lây nhiễm HIV. Sáumạng thành phần nhỏ hơn (với các hạt nhân A, C, D, F, G, H) nằm ở phần trên sơ đồ. Điều này nhấn mạnh một thực tế là các loại khác nhau của mạng lưới tình dục là không loại trừ lẫn nhau và những người đàn ông lưỡng tính có thể là diểm liên kết giữa họ với nhau. Nâng cao hiểu biết về các hoạt động tình dục của những MSM lưỡng tính là cần thiết cho việc lập chương trình dự phòng lây nhiễm HIV và STI cho họ.





Sơ đồ các mạng lưới xã hội và tình dục của MSM ở Hà Nội
KẾT LUẬN

Nam giới có quan hệ tình dục với nam giới là khái niệm để chỉ hành vi tình dục. Những người có QHTD lưỡng tính là đa dạng, kể cả những người có khuynh hướng tình dục đồng tính hoặc dị tính, cả những người có hoặc không có sở thích tình dục đồng tính nhưng vì nhiều lý do khác về kinh tế, xã hội.

Nam giới có QHTD lưỡng tính có hành vi nguy cơ cao hơn, số bạn tình nhiều hơn và ít sử dụng bao cao su thường xuyên hơn. Họ đặc biệt có vai trò kết nối các mạng lưới QHTD đồng tính và QHTD dị tính, họ cần được quan tâm đặc biệt để dự phòng HIV cho nam giới và cho cả phụ nữ, những người là bạn tình hoặc vợ của MSM có QHTD lưỡng tính

KHUYẾN NGHỊ

Nên có các nghiên cứu sâu rộng hơn về các mạng lưới xã hội và tình dục của MSM và MSM có quan hệ tình dục lưỡng tính.

Nên sớm có các văn bản về quyền của MSM, chăm sóc sức khỏe và sức khỏe tình dục, sinh sản cho MSM.Cần có các chiến lược truyền thông cụ thể cho từng nhóm MSM nhất là cho MSM có QHTD lưỡng tính.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Báo cáo tiến độ phòng chống AIDS Việt Nam năm 2012. Nhà xuất bản Hồng Đức. 3.2012. Tr. 16-19.

2. FHI. Reaching men who have sex with men in HCMC. 2006. P. 38.

3. M. Boulton, G. Hart and R. Fizpatrick. The sexual behavior of bisexual men in relation to HIV transmission. Published on line 25.9.2007.

4. Siobhan Redden, Pham Thi Hanh Van, Peter Higgs, Dang Van Khoat, Rebecca Jenkinson, Chad Hughes, Mike Toole. Exploring sexual networks of men who have sẽ with men in Hanoi, Viet Nam. Burnet Institute, 3.2011.

ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ LÂY NHIỄM HIV

CỦA KHÁCH HÀNG ĐẾN TƯ VẤN VÀ XÉT NGHIỆM HIV TỰ NGUYỆN TẠI TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

TỪ 2008 – 2011

Trương Tấn Nam, Lê Thành Chung, Huỳnh Thị Hồng Ngọc

Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Thành phố Đà Nẵng

TÓM TẮT

Trong thời gian 4 năm từ tháng 01 năm 2008 đến tháng 12 năm 2011, phòng tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện đặt tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng tiếp nhận 7346 lượt khách hàng đến tư vấn, trong đó có 7308 khách hàng xét nghiệm HIV chiếm 99,5% và có 7210 khách hàng quay lại nhận kết quả đạt 98,7% khách hàng xét nghiệm. Trong tổng số khách hàng xét nghiệm có 250 khách hàng có kết quả HIV dương tính chiếm 3,4%. Lý do khách hàng đến xét nghiệm HIV tự nguyện là do Tiêm chích ma túy, mại dâm, khách hàng của mại dâm và có nhiều bạn tình. Trung bình số lần giao hợp âm đạo cao hơn trung bình số lần giao hợp qua hậu môn, tuy nhiên số lần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục trung bình chỉ 11.6%. Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kết quả xét nghiệm HIV dương tính với giới tính, nhóm tuổi, hành vi quan hệ tình dục, tiêm chích ma túy, tình trạng hôn nhân, số lượng bạn tình và hành vi sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục.

SUMMARY

In 4 years duration (1/2008 to 12/2011), the HIV voluntary counseling and testing center located in Da Nang HIV/AIDS control center had received 7346 arrivals, 7308 clients came to take HIV test (99.5%) and 7210 clients came back for result (98.7%). 250 of them have HIV-positive result (3.4%). Customers came for HIV test voluntary are because of drug injection, prostitution or having multiple sex partners. On average, the number of vaginal sex is higher than the number of anal sex, but condom usage during sex only stays at 11.6%. There are statistically significant connections between positive HIV test result with gender, age group, sexual intercourse behavior, drug injection, marital status, number of sex partner and condom usage in sex.
ĐẶT VẤN ĐỀ

Kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 4/1993 thì đến 31/12/2011 tại thành phố Đà Nẵng đã phát hiện có 1472 ca có xét nghiệm HIV dương tính, trong đó 583 người chuyển sang giai đoạn AIDS và 323 nguời tử vong do AIDS. Nguy cơ lây nhiễm HIV chủ yếu do tiêm chích ma tuý (49,5%), và có xu hướng giảm dần qua các năm. Tuy nhiên nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục không an toàn đang có xu hướng tăng dần trong 3 năm gần đây.

Cùng với việc nỗ lực triển khai các chương trình can thiệp giảm tác hại nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư, thành phố cũng tiến hành tư vấn và xét nghiệm HIV sàng lọc trên các đối tượng khác nhau để từ đó có thể phát hiện các ca nhiễm HIV mới. Việc phát hiện mới các đối tượng nhiễm HIV hàng năm cũng rất quan trọng vì từ đó có thể tiến hành tiếp cận truyền thông thay đổi hành vi làm giảm nguy cơ lây nhiễm sang cộng đồng cũng như giới thiệu bệnh nhân đến cơ sở điều trị. Đồng thời trong những năm gần đây, đa số các ca mới đượ phát hiện nhiễm HIV chủ yếu từ phòng tư vấn và xét nghiệm tự nguyện.

Từ suy nghĩ trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Đánh giá các yếu tố nguy cơ của khách hàng đến tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2011.



Mục tiêu nghiên cứu:

1. Mô tả một số thông tin cơ bản của khách hàng đến tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện.

2. Đánh giá những yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV trong khách hàng đến tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện.

3. Tìm hiểu mối liên quan giữa hành vi nguy cơ cao cũng như đặc điểm của khách hàng với tỷ lệ nhiễm HIV của khách hàng.



ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Đối tượng nghiên cứu

Là những khách hàng cá nhân tự nguyện đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại Phòng tư vấn và xét nghiệm tự nguyên đặt tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Đà Nẵng từ 01/01/2008 đến 31/12/2011.



Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2012.

Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng trước đây đặt tại 315 Phan Chu Trinh và từ tháng 12/2011 đặt tại 311/42 Trường Chinh thành phố Đà Nẵng.

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu.

Phương pháp và công cụ thu thập thông tin: Lấy thông tin từ phiếu thu thập thông tin sẵn có của khách hàng cá nhân tự nguyện đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại Phòng tư vấn và xét nghiệm tự nguyên đặt tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Đà Nẵng từ 01/01/2008 đến 31/12/2011.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Một số đặc điểm của khách hàng

Bảng 1: Đặc điểm của khách hang




Đặc tính

Tần số (n=7346)

Tỷ lệ (%)

Nhóm tuổi

16-19 tuổi

20-24 tuổi

25-29 tuổi

30-39 tuổi

40-49 tuổi

Trên 50 tuổi

477


1881

1808


1859

1073


250

6.5


25.6

24.6


25.3

14.6


3.4

Nơi cư trú

Thị trấn/thành phố

Nông thôn

Tỉnh khác

Người nước ngoài

6042


74

1226


4

82.2


1.0

16.7


0.1

Giới tính

Nam


Nữ

4072


3254

55.7


44.3

Trình độ học vấn

Không đi học

Từ tiểu học trở xuống

THCS


PTTH

Cao đẳng, đại học


35

63



1947

2604


2118

0.5


8.7

26.5


35.4

28.8


Tình trạng hôn nhân

Chưa kết hôn

Đã kết hôn/sống với người yêu

Đã ly hôn/ly thân

Góa

3685


2285

1191


185

50.2


31.1

16.2


2.5


Các kênh thông tin giúp khách hàng tiếp cận dịch vụ



Biểu 1: Các kênh thông tin giới thiệu khách hàng đến với dịch vụ
Tỷ lệ khách hàng đồng ý xét nghiệm và quay lại nhận kết quả

Bảng 2: Tỷ lệ khách hàng xét nghiệm và quay lại nhận kết quả




Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

Tỷ lệ khách hàng được tư vấn/Số khách hàng đến

7346

100

Tỷ lệ khách hàng đồng ý xét nghiệm/ Khách hàng tư vấn

7308

99.5

Tỷ lệ khách hàng quay lại nhận kết quả XN/Số KH xét nghiệm

7210

98.7

Tỷ lệ khách hàng xét nghiệm ghi tên/ Số khách hàng xét nghiệm

2898

39.7

Tỷ lệ khách hàng dương tính

250

3.4


Phân bố số lượt khách hàng theo nguy cơ của bản thân khách hàng



Каталог: bitstream -> VAAC 360 -> 114
114 -> ĐÁnh giá chất lưỢng của máY ĐẾm tế BÀo t cd4 – pima lê Chí Thanh, Vũ Xuân Thịnh, Khưu Văn Nghĩa Trần Tôn, Trương Thị Xuân Liên
VAAC 360 -> CỤc phòNG, chống hiv/aids
VAAC 360 -> XÂy dựng phưƠng pháp in-house đo tải lưỢng VI rút hiv- 1 BẰng kỹ thuật real time rt-pcr nguyễn Thùy Linh *,, Dunford, Linda*,, Dean, Jonathan*,, Nguyễn Thị Lan Anh *,, Carr, Michael *,, Coughlan, Suzie*,, Connell, Jeff *, Nguyễn Trần Hiển
VAAC 360 -> DỰ BÁo nhu cầu và ngân sách sử DỤng thuốc arv tại việt nam (2011 2015)
VAAC 360 -> Danh sách bài báO ĐĂng trên kỷ YẾu hội nghị khoa học quốc gia lần thứ IV
VAAC 360 -> CỤc phòNG, chống hiv/aids báo cáo kết quả nghiên cứU ĐỀ TÀi cấp cơ SỞ
VAAC 360 -> Trung tâm phòNG, chống hiv/aids thanh hóa báo cáo kết quả nghiên cứU ĐỀ TÀi cấp cơ SỞ

tải về 2.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương