NIỀm vui yêu thưƠng (amoris laetitia)



trang13/17
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1 Mb.
#8621
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

284. Không nên làm cho các bạn trẻ bị lộn xộn về hai cấp độ của thực tại: “sự hấp dẫn tình dục tạo ra, trong nhất thời, một ảo tưởng về sự kết hợp, nhưng nếu không có tình yêu, sự ‘kết hợp’ này rốt cục vẫn để lại hai người xa lạ như trước”.303 Ngôn ngữ của thân xác mời gọi một sự tập tành kiên nhẫn để học biết diễn dịch và thông đạt những khao khát nhắm đến sự tự hiến đích thực. Khi chúng ta tưởng như mình trao hiến tất cả ngay lập tức, thì đó rất có thể là chúng ta không trao hiến gì hết. Hiểu sự mong manh và lúng túng của người trẻ, đó là một chuyện; còn khuyến khích họ kéo dài tình trạng ấu trĩ của họ trong cách diễn tả tình yêu, thì đó hoàn toàn là một chuyện khác. Nhưng ai sẽ nói về những điều này hôm nay? Ai có thể quan tâm thực sự đến các bạn trẻ? Ai sẽ giúp họ chuẩn bị một cách nghiêm túc cho một tình yêu quảng đại và cao thượng? Những nơi mà giáo dục giới tính được trình bày thì lại thường được trình bày cách không đúng đắn.
285. Giáo dục giới tính cũng nên bao gồm việc nhận hiểu và tôn trọng sự khác biệt, như một cách giúp người trẻ vượt qua sự mải mê tìm kiếm chính mình và biết mở ra đón nhận người khác. Ngoài những khó khăn có thể hiểu được mà các cá nhân có thể kinh nghiệm, người trẻ cần được giúp đỡ để chấp nhận thân thể của chính mình như nó được tạo nên, vì “việc nghĩ rằng chúng ta có quyền lực tuyệt đối trên thân xác mình sẽ thường vô hình trung chuyển sang cách nghĩ rằng chúng ta có quyền lực tuyệt đối trên công trình sáng tạo… Một sự trân trọng đối với thân xác chúng ta là nam hay nữ cũng cần thiết để chúng ta ý thức về chính mình trong một cuộc hạnh ngộ với những người khác mình. Nhờ đó chúng ta có thể vui tươi chấp nhận một người nam hay nữ khác, là công trình của Thiên Chúa sáng tạo, như quà tặng đặc biệt, và tìm thấy sự phong phú đem lại cho nhau”.304 Chỉ bằng cách bỏ đi nỗi sợ sự khác biệt, chúng ta mới có thể được giải phóng khỏi việc qui hướng về mình và tìm kiếm chính mình. Giáo dục giới tính phải giúp cho người trẻ chấp nhận thân xác mình, và tránh cái ý muốn “khỏa lấp sự khác biệt giới tính bởi vì không còn biết xử lý làm sao với nó nữa”.305
286. Chúng ta cũng không thể phớt lơ sự kiện rằng sự hình thành cốt cách làm người của mình, dù là nam hay nữ, thì không đơn thuần là kết quả của những yếu tố sinh học hay di truyền, nhưng là của rất nhiều yếu tố có liên hệ đến tính khí, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm, giáo dục, ảnh hưởng từ bạn bè, từ các thành viên trong gia đình và những người đáng kính, cũng như những hoàn cảnh đào tạo khác. Quả thực là chúng ta không thể tách rời nam tính và nữ tính khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, điều vốn đi trước mọi quyết định và kinh nghiệm của chúng ta, và trong đó có tồn tại rõ ràng các yếu tố sinh học không thể bị bỏ qua. Nhưng cũng đúng rằng nam tính và nữ tính không phải là những phạm trù cứng nhắc. Chẳng hạn, cách thể hiện nam tính của một người chồng có thể được linh động thích nghi với thời biểu làm việc của người vợ. Đảm nhận những công việc trong nhà hay một số phần việc nuôi dạy con cái, điều đó không hề làm cho anh ta bớt nam tính hơn hay là hàm nghĩa thất bại, thiếu trách nhiệm, hay là lý do để xấu hổ. Con cái phải được giúp để chấp nhận là bình thường những “trao đổi” lành mạnh như thế, vốn chẳng hề làm giảm phẩm giá của người cha. Một cách tiếp cận cứng nhắc sẽ hóa thành sự nhấn mạnh quá mức về nam tính hay nữ tính, nó không giúp trẻ em và những người trẻ trân trọng tính tương nhượng đích thực gắn liền với những điều kiện thực tế của hôn nhân. Sự cứng nhắc như vậy, đến lượt nó, có thể cản trở sự phát triển của các khả năng cá nhân, đến mức dẫn người ta đến cách nghĩ rằng – chẳng hạn – tỉ mẩn nghệ thuật hay múa nhảy thì không phải là đàn ông thực, hoặc nắm vai trò lãnh đạo thì không phải là phụ nữ đúng nghĩa lắm. Thật may là điều này đã thay đổi, nhưng tại một số nơi những quan niệm lệch lạc vẫn còn ảnh hưởng đến sự tự do chính đáng, và cản trở sự phát triển đích thực của căn tính và những tiềm năng đặc biệt của trẻ.

CHUYỂN THÔNG ĐỨC TIN


287. Việc nuôi dạy con cái cần một tiến trình chuyển thông đức tin cách mạch lạc. Điều này trở nên khó khăn do những lối sống đương đại, do thời biểu công việc, và do tính phức tạp của thế giới ngày nay, trong đó nhiều người bị cuốn vào nhịp sống hối hả chỉ để tồn tại.306 Dù sao, gia đình phải tiếp tục là nơi mà chúng ta học biết trân trọng ý nghĩa và vẻ đẹp của đức tin, biết cầu nguyện và phục vụ người xung quanh mình. Điều này bắt đầu với Phép Rửa, trong đó, như Thánh Augustinô nói, những người mẹ nuôi dạy con cái mình “cộng tác trong cuộc sinh hạ thánh thiêng”.307 Như thế, hành trình lớn lên trong sự sống mới ấy được bắt đầu. Đức tin là quà tặng của Thiên Chúa, được nhận lãnh trong Phép Rửa, chứ không phải công trình của chúng ta, tuy nhiên cha mẹ là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp đức tin lớn lên và phát triển. Vì thế “thật là tuyệt vời khi người mẹ dạy đứa con nhỏ của mình cử chỉ hôn Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Cử chỉ thật là tình cảm biết bao! Lúc ấy trái tim của đứa trẻ trở thành một nơi cầu nguyện”.308 Việc chuyển thông đức tin giả định rằng chính cha mẹ thực sự tin tưởng vào Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài và cảm thấy cần Ngài, vì chỉ bằng cách này thì mới diễn ra chuyện “đời này tuyên dương cho đời khác công việc của Chúa, và kể lại các hành động đầy quyền năng của Ngài” (Tv 144,4) và “những người cha kể lại cho con cái biết lòng trung thành của Chúa” (Is 38,19). Điều này có nghĩa là chúng ta cần cầu xin Chúa hành động trong tâm hồn của con cái, nơi mà chính chúng ta không thể đạt tới được. Một hạt cải, rất bé nhỏ, trở thành một cây lớn (x. Mt 13,31-32); điều này dạy chúng ta nhận ra sự không tương xứng giữa những việc ta làm và các hiệu quả của những việc ấy. Chúng ta biết rằng mình không phải là chủ nhân của món quà, nhưng chúng ta được ủy thác để săn sóc nó. Nhưng sự dấn thân đầy sáng tạo của chúng ta tự nó là một sự trao hiến có thể giúp chúng ta cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì vậy, “các đôi bạn và các cha mẹ phải được nhìn nhận đúng đắn là những tác nhân tích cực trong việc huấn giáo… Việc huấn giáo về gia đình là sự hỗ trợ lớn lao xét như một phương pháp hữu hiệu giúp các cha mẹ trẻ ý thức về sứ mạng của mình trong tư cách là những tác nhân Phúc Âm hóa gia đình mình”.309
288. Giáo dục đức tin phải thích nghi với mỗi đứa trẻ, vì những phương thế và những lề lối cũ không luôn luôn hữu hiệu. Trẻ em cần những biểu tượng, những hành động, và những câu chuyện. Vì thanh thiếu niên thường có những vấn đề với quyền bính và các qui tắc, nên tốt nhất là khích lệ kinh nghiệm đức tin của chính các em và cung cấp cho các em những chứng từ có sức lôi cuốn, các em sẽ được chinh phục bởi vẻ đẹp của các chứng từ ấy. Các cha mẹ mong ước nuôi dưỡng đức tin của con cái mình sẽ nhạy cảm với những kiểu thức phát triển của chúng, vì họ biết rằng kinh nghiệm thiêng liêng thì không được áp đặt, nhưng được đề nghị một cách tự do. Thật thiết yếu việc trẻ em thấy rõ rằng đối với cha mẹ chúng, cầu nguyện là một điều gì đó thực sự quan trọng. Vì thế, những khoảnh khắc cầu nguyện trong gia đình và những thực hành đạo đức có thể có năng lực Phúc Âm hóa hơn so với bất cứ lớp giáo lý hay bài thuyết giáo nào. Ở đây tôi muốn diễn tả sự tri ân cách riêng đối với tất cả những bà mẹ không ngừng cầu nguyện, như Thánh Mônica, cho những đứa con của mình lỡ đi lạc xa khỏi Đức Kitô.
289. Công việc chuyển thông đức tin cho con cái, theo nghĩa là tạo điều kiện cho sự diễn tả và sự phát triển đức tin, sẽ hỗ trợ toàn gia đình trong sứ mạng Phúc Âm hóa của mình. Một cách tự nhiên, gia đình bắt đầu giới thiệu đức tin cho mọi người chung quanh mình, cả những người bên ngoài phạm vi gia đình. Những con cái lớn lên trong các gia đình nhiệt tâm sứ mạng thường trở thành những nhà thừa sai; lớn lên trong gia đình thân thiện và ấm cúng, chúng học biết cách liên hệ với thế giới theo cùng cách ấy, mà không từ bỏ đức tin hay những niềm xác tín của mình. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã ăn uống với các tội nhân (x. Mc 2,16); Mt 11,19), nói chuyện với một phụ nữ Samaria (x. Ga 4,7-26), tiếp chuyện với Nicôđêmô vào ban đêm (x. Ga 3,1-21), cho phép một cô gái điếm xức dầu chân mình (Lc 7,36-50), và Người không ngần ngại đặt tay trên những người bệnh (x. Mc 1,40-45; 7,33). Các tông đồ của Chúa cũng vậy, các ông không xem thường người khác, không chỉ xúm chụm với nhau trong những nhóm nhỏ ưu tú, và không cắt đứt khỏi đời sống của dân chúng. Mặc dù bị nhà cầm quyền sách nhiễu, các tông đồ vẫn nhận được sự quí mến “của toàn thể dân chúng” (Cv 2,47; x. 4,21.33; 5,13).
290. “Gia đình, vì thế, là một tác nhân của hoạt động mục vụ xuyên qua việc trực tiếp loan báo Tin Mừng và qua kho tàng các hình thức chứng tá đa dạng, như sự liên đới với người nghèo, sự cởi mở với những con người rất khác nhau, sự bảo vệ công trình tạo dựng, sự liên đới về luân lý và về vật chất với các gia đình khác, bao gồm những người nghèo túng nhất, sự dấn thân thăng tiến công ích, và sự thay đổi những cấu trúc xã hội bất công, bắt đầu từ địa phương nơi gia đình sinh sống, xuyên qua việc thực hành những công việc của lòng thương xót đối với xác và hồn người ta”.310 Tất cả những điều này là một diễn tả niềm tin Kitô giáo thâm sâu của chúng ta đối với tình yêu của Chúa Cha, Đấng hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta, một tình yêu được thể hiện nơi sự tự hiến hoàn toàn của Đức Giêsu Kitô, Đấng mà ngay trong hiện tại này cũng đang sống giữa chúng ta và giúp chúng ta có thể cùng nhau đương đầu các giông tố của cuộc đời ở mọi giai đoạn. Tin Mừng cần phải âm vang trong tất cả các gia đình, khi vui cũng như khi buồn, như một nguồn ánh sáng soi dẫn đường đi. Nhờ kinh nghiệm đời sống trong gia đình, tất cả chúng ta sẽ có thể nói: “Chúng tôi đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng tôi” (1Ga 4,16). Chỉ trên cơ sở kinh nghiệm này, sự săn sóc mục vụ của Giáo Hội cho các gia đình mới có thể giúp họ trở thành vừa là những Giáo Hội tại gia vừa là men Phúc Âm hóa trong xã hội.

CHƯƠNG TÁM:

ĐỒNG HÀNH, PHÂN ĐỊNH,

VÀ HỘI NHẬP SỰ YẾU ĐUỐI


291. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng mặc dù Giáo Hội ý thức bất cứ sự cắt đứt nào của mối dây hôn phối cũng “đều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa”, song Giáo Hội cũng “ý thức về sự mỏng dòn của nhiều con cái mình”.311 Được soi sáng bởi ánh nhìn của Đức Giêsu Kitô, “với tình thương, Giáo Hội hướng về những ai tham dự vào đời sống Giáo Hội một cách không trọn vẹn, nhìn nhận rằng ơn sủng Thiên Chúa cũng hoạt động trong đời sống của họ bằng cách ban cho họ ơn can đảm để làm việc thiện, chăm sóc nhau trong yêu thương, và phục vụ cộng đoàn nơi họ sống và làm việc”.312 Sự tiếp cận này cũng được thúc đẩy bởi việc chúng ta cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mặc dù Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh tiếng gọi nên hoàn thiện và thúc đẩy một sự đáp trả trọn vẹn hơn đối với Thiên Chúa, “Giáo Hội cũng phải ân cần quan tâm đồng hành với những con cái yếu đuối nhất của mình – những người cho thấy các dấu hiệu của một tình yêu bị thương tích và rối loạn – để phục hồi nơi họ niềm hy vọng và tin tưởng, giống như ngọn hải đăng ở cảng hay như ngọn đuốc giương lên giữa dân chúng để giúp soi dẫn những kẻ lạc đường hay những ai đang bị bủa vây trong bão tố”.313 Chúng ta không được quên rằng công việc của Giáo Hội thường giống như công việc của một bệnh viện tiền phương.
292. Hôn nhân Kitô giáo, như phản ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội, được thực hiện trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trao hiến chính mình cho nhau trong một tình yêu độc hữu, trung thành và tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và họ mở ra đón nhận việc truyền sinh, họ được thánh hiến bằng bí tích có sức trao ban ơn sủng để họ trở thành một Hội Thánh tại gia và trở nên men sự sống mới cho xã hội. Một số hình thức kết hợp đi ngược lại lý tưởng này cách tận căn, trong khi một số hình thức khác thực hiện lý tưởng này ít nhất một phần và theo cách loại suy. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng Giáo Hội không xem thường những yếu tố tích cực trong những hoàn cảnh chưa hay không còn tương hợp với giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân.314
TÍNH TIỆM TIẾN TRONG SĂN SÓC MỤC VỤ
293. Các Nghị Phụ cũng lưu ý đến hoàn cảnh đặc biệt của một hôn phối thuần túy dân sự hay thậm chí chỉ đơn thuần là sự sống chung, với sự phân biệt rõ ràng giữa hai trường hợp ấy, các ngài ghi nhận rằng “khi những kết hợp như thế đạt được một sự ổn định nhất định, được pháp luật nhìn nhận, được đặc trưng bởi tình thương và trách nhiệm thâm sâu đối với con cái, và cho thấy có một khả năng vượt qua các thử thách, thì những sự kết hợp ấy có thể cung ứng cơ hội cho việc săn sóc mục vụ, với đích ngắm là cuối cùng dẫn tới việc cử hành bí tích hôn nhân”.315 Mặt khác, thật rất đáng ưu tư việc nhiều người trẻ ngày nay không tin vào hôn nhân, họ sống chung và trì hoãn vô thời hạn việc cam kết hôn nhân, trong khi những người khác thì phá vỡ một cam kết đã được đưa ra để rồi ngay lập tức làm một cam kết mới. “Là thành viên của Giáo Hội, họ cũng cần sự săn sóc mục vụ đầy ý nghĩa thương xót và trợ giúp”.316 Vì các mục tử của Giáo Hội không chỉ có trách nhiệm thăng tiến hôn nhân Kitô giáo, mà còn có trách nhiệm “biện phân mục vụ đối với các hoàn cảnh của rất nhiều người không còn sống thực tại ấy. Cần phải đi vào cuộc đối thoại mục vụ với những người này để nhận ra những yếu tố trong đời sống họ có thể dẫn đến một sự cởi mở hơn nữa đối với Tin Mừng về hôn nhân ở mức trọn vẹn của nó”.317 Trong việc biện phân mục vụ này, cần phải “nhận diện những yếu tố có thể thúc đẩy việc Phúc Âm hóa và sự phát triển nhân bản cũng như thiêng liêng”.318
294. “Sự chọn lựa một cuộc hôn phối dân sự, hay trong nhiều trường hợp chỉ đơn thuần là một sự sống chung, thường không bị thúc đẩy bởi thành kiến hay bởi sự phản kháng đối với một kết hợp có tính bí tích, nhưng thường do những tình huống có tính văn hóa hoặc ngẫu nhiên”.319 Trong những trường hợp ấy, người ta cũng có thể bày tỏ sự kính trọng đối với các dấu hiệu của tình yêu mà, cách nào đó, phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa.320 Chúng ta biết rằng có “một sự gia tăng không ngừng con số những người mà sau khi sống chung một thời gian dài, họ xin được kết hôn trong Giáo Hội. Việc đơn thuần sống chung thường là một chọn lựa xuất phát từ một thái độ nói chung chống lại bất cứ gì có tính thiết chế hay có tính dứt khoát; cũng có thể người ta chọn lựa như thế trong khi chờ đợi sự ổn định hơn trong đời sống (chẳng hạn, một công việc làm và một thu nhập ổn định). Tại một số quốc gia, những kết hợp de facto (tức chuyện đã rồi trong thực tế) có rất nhiều, không chỉ vì người ta tẩy chay các giá trị liên quan đến gia đình và hôn phối, nhưng chủ yếu bởi vì việc cử hành lễ cưới được thấy là quá tốn kém trong bối cảnh xã hội. Như vậy, tình trạng nghèo nàn vật chất kéo người ta vào những sự kết hợp de facto”.321 Dù trường hợp nào đi nữa, “tất cả những hoàn cảnh này đòi một sự đáp trả tích cực, tức tìm cách chuyển hóa chúng thành những cơ hội có thể dẫn tới thực tại đầy đủ của hôn nhân và gia đình phù hợp với Tin Mừng. Những đôi vợ chồng này cần được đón tiếp và hướng dẫn một cách kiên nhẫn và thận trọng”.322 Thử xem cách mà Đức Giêsu ứng xử với người phụ nữ Samari (x. Ga 4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thực của chị, để giải thoát chị khỏi bóng tối trong cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin Mừng.
295. Theo tinh thần ấy, Thánh Phaolô đề ra cái gọi là “luật tiệm tiến” với nhận thức rằng con người “hiểu biết, yêu mến và đạt tới sự thiện luân lý theo những giai đoạn phát triển khác nhau”.323 Đây không phải là một “sự tiệm tiến của luật” nhưng đúng hơn là một sự tiệm tiến trong việc thi hành cách khôn ngoan những hành động tự do xét về phía những chủ thể không ở trong một vị thế có thể hiểu, trân trọng, hay thực thi đầy đủ những đòi hỏi khách quan của luật. Vì luật tự nó là một quà tặng của Thiên Chúa giúp chỉ đường, một quà tặng cho mọi người không trừ ai; nên nó có thể được tuân theo với sự trợ giúp của ơn sủng, ngay cả dù mỗi con người “tiến tới từ từ với sự hội nhập không ngừng những quà tặng của Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối và dứt khoát của Thiên Chúa trong toàn thể đời sống cá nhân và xã hội của mình”.324
PHÂN ĐỊNH NHỮNG

HOÀN CẢNH “BẤT THƯỜNG”325


296. Thượng Hội Đồng đề cập những hoàn cảnh yếu đuối và bất toàn khác nhau. Ở đây tôi muốn nhắc lại một điều mà tôi đã cố gắng làm sáng tỏ cho toàn thể Giáo Hội, phòng tránh trường hợp chúng ta đi lạc: “Có hai cách nghĩ vẫn thấy diễn ra trong lịch sử Giáo Hội: đó là, loại bỏ và phục hồi. Kể từ thời Công đồng Giêrusalem, con đường của Giáo Hội luôn luôn là con đường của Đức Giêsu, con đường thương xót và phục hồi… Con đường của Giáo Hội là không lên án bất cứ ai vĩnh viễn; đó là đổ dầu thơm lòng thương xót của Thiên Chúa trên tất cả những ai chân thành kêu xin… Vì bác ái đích thực thì không bao giờ đòi người ta phải xứng đáng, nó luôn luôn vô điều kiện và nhưng không”.326 Vì thế, cần phải “tránh những phán quyết không có sự xem xét đến tính phức tạp của các hoàn cảnh khác nhau” và cần “lưu tâm đến nỗi khốn khổ mà người ta phải chịu do hoàn cảnh của họ”.327
297. Điều quan trọng là đi đến với mọi người, giúp mỗi người tìm ra cách thích đáng để tham dự vào cộng đoàn Giáo Hội, và nhờ đó họ kinh nghiệm mình được chạm đến bởi một lòng thương xót “nhưng không, vô điều kiện mà mình hoàn toàn bất xứng”. Không ai có thể bị lên án vĩnh viễn, vì đó không phải là cách thức của Tin Mừng! Ở đây tôi không chỉ nói về những người ly dị và tái hôn, nhưng nói về mọi người, trong bất luận hoàn cảnh nào. Dĩ nhiên, nếu một ai đó phô bày một tội khách quan như thể đó là một phần của lý tưởng Kitô giáo, hoặc muốn áp đặt một cái gì đó khác với những gì Giáo Hội giảng dạy, thì người ấy không thể mạo nhận danh nghĩa giảng dạy cho kẻ khác; đây là một trường hợp tự tách mình ra khỏi cộng đoàn (x. Mt 18,17). Những người ấy cần phải lắng nghe lại sứ điệp Tin Mừng và lời mời gọi hoán cải của Tin Mừng. Tuy nhiên, ngay cả đối với một người như thế, vẫn có thể có cách để tham dự vào đời sống của cộng đoàn, ví dụ, trong công tác xã hội, trong các cuộc họp mặt cầu nguyện, hoặc bằng một cách nào đó mà người ấy có thể nghĩ ra, với sự phân định của cha sở. Liên quan tới cách ứng xử đối với các hoàn cảnh “bất thường”, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đạt được một sự đồng thuận chung mà tôi vốn ủng hộ: “Khi xem xét một phương thức mục vụ đối với những người đã ký kết một hôn phối dân sự, những người ly dị và tái hôn, hay những người chỉ đơn thuần sống chung, Giáo Hội có trách nhiệm giúp họ hiểu khoa sư phạm ơn sủng của Thiên Chúa trong cuộc đời họ, và cung ứng cho họ sự trợ giúp để họ có thể đạt được đầy đủ kế hoạch của Thiên Chúa cho mình”,328 điều này luôn luôn có thể, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
298. Những người ly dị đã đi vào một mối kết hợp mới, chẳng hạn, có thể thuộc rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, mà ta không được phớt lờ hay ép vào những cách phân loại quá cứng nhắc và chẳng còn chừa chỗ nào cho một sự phân định cá nhân hay mục vụ thích hợp. Ví như trường hợp một mối kết hợp thứ hai đã vững chắc qua thời gian, với các con cái mới, với sự trung thành được chứng tỏ, với sự quảng đại tự hiến, với nhiệt tâm sống đạo, với một ý thức về tình trạng bất thường của mình và về cái khó khăn sừng sững của việc làm sao quay lui mà đồng thời trong lương tâm không cảm thấy rằng mình sẽ rơi vào những tội mới. Giáo Hội ý thức những hoàn cảnh “trong đó, vì những lý do hệ trọng, như việc nuôi dạy con cái, một đôi nam nữ không thể thỏa mãn sự đòi buộc phải chia tay”.329 Cũng có những trường hợp trong đó người ta đã cố gắng hết sức để cứu cuộc hôn nhân thứ nhất của mình và đã bị ruồng bỏ một cách bất công, hay “những người đã đi vào một mối kết hợp thứ hai vì lợi ích của việc nuôi dạy con cái, và đôi khi trong lương tâm họ tin rằng cuộc hôn phối trước đây đã đổ vỡ vô phương sửa chữa ấy là một hôn phối không thành hiệu”.330 Còn ví như trường hợp khác, một mối kết hợp mới xảy ra từ một cuộc ly dị chưa lâu, với tất cả nỗi đau khổ và hoang mang gây ra cho con cái và toàn gia đình, hay trường hợp một người cố lì trong tình trạng bỏ bê bổn phận đối với gia đình. Phải thấy rõ rằng đó không phải là lý tưởng mà Tin Mừng đề ra cho hôn nhân và gia đình. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng sự phân định của các mục tử phải luôn luôn được làm “với sự biện biệt thích đáng”,331 với một cách tiếp cận “biện phân kỹ lưỡng các hoàn cảnh”.332 Chúng ta vốn biết rằng “những cách kê toa dễ dãi” không hề tồn tại.333
299. Tôi đồng ý với nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng trong ghi nhận rằng “những tín hữu đã ly dị và tái hôn về mặt dân sự cần phải được hội nhập đầy đủ hơn vào các cộng đoàn Kitô hữu bằng những cách có thể, trong khi phòng tránh bất cứ điều gì gây gương xấu. Lô-gíc hội nhập là chìa khóa của việc săn sóc mục vụ đối với họ, một sự săn sóc cho phép họ không chỉ nhận ra rằng mình thuộc về Giáo Hội là Thân Thể Đức Kitô, mà còn biết rằng mình có thể có được một kinh nghiệm đầy hoa trái và niềm vui trong đó. Họ đã lãnh Phép Rửa; họ là anh chị em; Chúa Thánh Thần đổ vào trái tim họ những ơn sủng và khả năng để phục vụ cho thiện ích chung. Sự tham gia của họ có thể được thể hiện trong những việc phục vụ khác nhau trong Giáo Hội, điều này nhất thiết đòi hỏi sự phân định xem ta có thể vượt qua những hình thức nào trong nhiều hình thức cấm cản khác nhau vốn đang được áp dụng trong cơ cấu phụng vụ, mục vụ, giáo dục và tổ chức. Những người ấy cần cảm thấy mình không phải là những thành viên bị tuyệt thông của Giáo Hội, nhưng là những thành viên sống động, có thể sống và lớn lên trong Giáo Hội, và kinh nghiệm Giáo Hội như một người mẹ luôn đón nhận mình, người mẹ ân cần săn sóc và khích lệ mình trên nẻo đường của sự sống và của Tin Mừng. Sự hội nhập này cũng rất cần trong việc săn sóc và giáo dục Kitô giáo cho con cái họ, là đối tượng phải được xem là quan trọng nhất”.334
300. Nếu chúng ta xem xét những hoàn cảnh cụ thể quá đỗi đa dạng như những gì tôi vừa đề cập, thì dễ nhận hiểu rằng không thể kỳ vọng Thượng Hội Đồng hay Tông Huấn này cung cấp một bộ luật chung mới, có tính qui chuẩn và có thể áp dụng cho mọi trường hợp. Điều có thể, đó là một sự khích lệ mới mẻ để đảm nhận một sự phân định cá nhân và mục vụ đầy trách nhiệm đối với những trường hợp cụ thể, một sự phân định trong đó người ta nhìn nhận rằng vì “mức trách nhiệm không như nhau trong mọi trường hợp”,335 nên những hệ quả hay những hiệu ứng của một qui tắc không luôn đương nhiên giống nhau.336 Các linh mục có bổn phận “đồng hành [với những người ly dị và tái hôn] để giúp họ hiểu hoàn cảnh của họ dựa vào giáo huấn của Giáo Hội và những hướng dẫn của giám mục. Một sự khảo sát lương tâm xuyên qua những khoảnh khắc hồi tâm và thống hối sẽ rất hữu ích cho tiến trình này. Những người ly dị và tái hôn cần tự vấn: mình đã hành động thế nào đối với con cái khi mối kết hợp vợ chồng đi vào khủng hoảng; mình đã có những cố gắng để hòa giải hay không; người bị mình ruồng bỏ đã ra sao; mối quan hệ mới có những hệ quả gì trên những người khác trong gia đình và trong cộng đoàn tín hữu; và mình đang nêu gương gì cho các bạn trẻ đang chuẩn bị hôn nhân. Một sự hồi tâm chân thành có thể củng cố niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa vốn không từ chối bất cứ ai”.337 Chúng ta đang nói về một tiến trình đồng hành và phân định có thể “dẫn dắt các tín hữu tới một ý thức về hoàn cảnh của họ trước mặt Thiên Chúa. Việc trao đổi với linh mục, ở tòa trong, sẽ góp phần đào tạo một phán đoán đúng đắn về những gì đang cản trở khả năng cho một sự tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Giáo Hội, và về những bước nào có thể thúc đẩy khả năng ấy và tăng cường nó. Vì sự tiệm tiến không nằm trong luật (x. Familiaris Consortio, 34), nên sự phân định này không bao giờ bỏ qua những đòi hỏi của Tin Mừng về sự thật và bác ái, như Giáo Hội đã nêu. Để có được sự phân định ấy, nhất thiết phải có những điều kiện sau đây: sự khiêm tốn, sự thận trọng và lòng yêu mến đối với Giáo Hội và giáo huấn của Giáo Hội, lòng chân thành tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và một niềm khát khao đáp lại thánh ý Chúa một cách hoàn hảo hơn”.338 Những tâm thế này là thiết yếu để tránh mối nguy lớn của những cách hiểu sai lầm, chẳng hạn cho rằng bất cứ linh mục nào cũng có thể nhanh chóng ban “sự chuẩn chước”, hay cho rằng một số người có thể đạt được những đặc ân về bí tích bằng cách mua chuộc. Khi một người tế nhị và có trách nhiệm – tức người không đặt những mong muốn của riêng mình lên trên thiện ích chung của Giáo Hội – gặp một mục tử có khả năng nhận biết tính hệ trọng của vấn đề mà mình đang đối diện, thì không thể có nguy cơ rằng một sự phân định riêng biệt nào đó có thể khiến người ta nghĩ rằng Giáo Hội đang dùng một tiêu chuẩn kép.
NHỮNG YẾU TỐ GIẢM NHẸ

TRONG PHÂN ĐỊNH MỤC VỤ




Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương