NIỀm vui yêu thưƠng (amoris laetitia)



trang11/17
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1 Mb.
#8621
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   17

235. Một số cuộc khủng hoảng là đặc trưng của hầu như mọi cuộc hôn nhân. Các vợ chồng trẻ cần học biết cách chấp nhận những khác biệt của mình và biết tách ra khỏi sự ràng buộc với cha mẹ. Sự xuất hiện của một đứa con sẽ kéo theo những thách đố mới về mặt cảm xúc. Việc nuôi dạy con cái còn nhỏ đòi người ta phải thay đổi trong lối sống, trong khi giai đoạn con cái bước vào tuổi thanh niên sẽ gây ra áp lực, mệt mỏi và thậm chí căng thẳng giữa cha mẹ. Một “tổ trống trơn” buộc đôi vợ chồng phải xác định lại mối tương quan của mình, trong khi nhu cầu săn sóc các cha mẹ già đòi phải có những quyết định khó khăn liên quan tới các vị. Đây là những hoàn cảnh gay go có thể gây ra lo sợ, mặc cảm tội lỗi, suy sụp tinh thần và mệt mỏi, với những ảnh hưởng nghiêm trọng trên một cuộc hôn nhân.
236. Rồi có những khủng hoảng cá nhân ảnh hưởng đến đời sống vợ chồng, thường liên quan đến tiền bạc, các vấn đề ở sở làm, những khó khăn về tâm cảm, xã hội và tâm linh. Những tình huống bất ngờ xảy ra, phá vỡ đời sống gia đình và đòi một tiến trình tha thứ và hòa giải. Trong khi người này quyết tâm chân thành tha thứ cho người kia, thì đương sự phải trầm lắng và khiêm tốn tự vấn rằng phải chăng, cách nào đó, mình đã không tạo ra các tình huống dẫn đến những lỗi lầm của người kia. Một số gia đình sụp đổ khi vợ chồng mải mê buộc tội nhau, nhưng “kinh nghiệm cho thấy rằng với sự trợ giúp đúng đắn và với những hành động hòa giải, nhờ ơn sủng, rất nhiều cuộc hôn nhân chao đảo đã tìm thấy cách giải quyết thỏa đáng. Biết cách tha thứ và cảm nhận mình được tha thứ, đó là một kinh nghiệm căn bản trong đời sống gia đình”.254 “Nghệ thuật kiên trì hòa giải, vốn cần sự nâng đỡ của ân sủng, cũng đòi sự cộng tác quảng đại của bà con và bạn bè, và đôi khi ngay cả sự giúp đỡ từ bên ngoài và những hỗ trợ chuyên môn”.255
237. Càng ngày người ta càng có xu hướng nghĩ rằng khi một hay cả hai người phối ngẫu không còn cảm thấy thỏa mãn, hay khi mọi sự không diễn ra như mình mong muốn, thì như thế là có đủ lý do để chấm dứt cuộc hôn nhân. Nếu vậy, thì chẳng có hôn nhân nào có thể bền vững. Nhiều khi, tất cả lý do đưa đến quyết định rằng mọi sự đã chấm dứt chỉ là vì một chuyện bất mãn nào đó, vì người kia đã vắng mặt khi cần phải có mặt nhất, vì lòng tự hào bị tổn thương, hay vì một nỗi sợ mơ hồ. Rõ ràng, các hoàn cảnh sẽ hiện lộ ra liên quan đến sự yếu đuối của con người, và có thể thấy rõ đó là những sự bộc phát của cảm xúc. Người vợ hay người chồng có thể cảm thấy mình không được trân trọng đầy đủ, hay có thể bị lôi cuốn bởi một người nào đó khác. Sự ghen tuông và những căng thẳng có thể nổi lên, hay những quan tâm mới chiếm lấy thời gian và sự chú ý của người kia. Những thay đổi thể lý xảy ra cách tự nhiên nơi mọi người. Những điều này, và rất nhiều điều khác nữa, thay vì đe dọa tình yêu, thì chúng là vô số cơ hội để đổi mới và làm sống hoạt tình yêu.
238. Trong những trường hợp như thế, một số người có sự trưởng thành cần thiết để xác nhận lại sự chọn lựa của mình, đó là chọn người kia như người bạn đời mãi mãi, bất chấp những giới hạn của mối tương quan. Họ chấp nhận cách thực tiễn rằng người kia không thể lấp đầy mọi giấc mơ mà mình ôm ấp. Những người như thế sẽ tránh nghĩ về mình như những kẻ tuẫn đạo; họ sẽ tận dụng mọi khả năng mà đời sống gia đình trao cho, và họ kiên nhẫn tìm cách củng cố mối dây hôn nhân. Nói cho cùng, họ nhận ra rằng mọi khủng hoảng đều có thể là một “lời ưng thuận” mới, làm cho tình yêu được đổi mới, được đào sâu và được củng cố từ bên trong. Khi các khủng hoảng đến, họ không sợ truy tìm gốc rễ của chúng, bàn thảo lại những điều căn bản, đạt được một sự cân bằng mới, và cùng nhau tiến về phía trước. Với thái độ cởi mở thường xuyên này, họ có thể đối mặt với mọi trường hợp khó khăn. Bất luận hoàn cảnh nào, trong khi nhận thức rằng hòa giải là một khả năng, chúng ta cũng thấy rằng “điều khẩn thiết cần hôm nay là một sứ vụ săn sóc những người đã bị đổ vỡ mối tương quan vợ chồng”.256
Những vết thương cũ
239. Dễ hiểu, các gia đình thường gặp các vấn đề khi một thành viên không trưởng thành về tâm cảm, bởi vì đương sự vẫn mang những vết thẹo của các kinh nghiệm trước đây. Một tuổi thơ hay tuổi thanh niên bất hạnh có thể sinh ra những khủng hoảng cá nhân, gây ảnh hưởng đến hôn nhân của đương sự. Nếu mọi người đều trưởng thành bình thường, khủng hoảng sẽ ít xảy ra hơn và ít gây đau đớn hơn. Nhưng thực tế cho thấy, một số người chỉ khi đến tuổi ngoài bốn mươi mới có được mức trưởng thành mà lẽ ra họ đã phải đạt được vào tuổi đôi mươi. Một số người yêu với thứ tình yêu ích kỷ, thất thường, qui hướng về mình, như một đứa trẻ: đó là một tình yêu tham lam, sẽ thét ré lên khi không có được điều mình mong muốn. Những người khác yêu với một tình yêu của tuổi thanh niên, được đánh dấu bằng sự gây hấn, sự phê phán nặng nề và nhu cầu trách móc người khác; bị mắc kẹt trong những cảm xúc và tưởng tượng của mình, những người như thế chờ mong kẻ khác lấp đầy sự trống rỗng và thỏa mãn mọi khao khát của họ.
240. Nhiều người bước qua thời thơ ấu mà không bao giờ cảm nhận được tình yêu vô điều kiện. Điều này ảnh hưởng đến khả năng của họ trong việc tin tưởng và cởi mở đối với người khác. Một tương quan thảm hại với cha mẹ và anh chị em, nếu không được chữa trị, có thể lại ngoi lên và làm tổn hại một cuộc hôn nhân. Những vấn đề chưa được giải quyết cần phải được xử lý và một tiến trình giải phóng phải diễn ra. Khi các vấn đề nổi lên trong một cuộc hôn nhân, trước khi đưa ra những quyết định quan trọng, cần bảo đảm rằng mỗi người đã nắm hiểu lịch sử đời mình. Điều này bao gồm việc nhìn nhận nhu cầu chữa trị, việc cầu nguyện thâm sâu xin ơn tha thứ và được tha thứ, một thái độ sẵn lòng nhận sự giúp đỡ, và quyết tâm không đầu hàng nhưng sẽ tiếp tục cố gắng. Sự chân thành khảo sát chính mình sẽ giúp người ta nhận ra cách mà những khuyết điểm và sự ấu trĩ của mình ảnh hưởng đến mối tương quan. Ngay cả dù dường như thật rõ rằng người kia sai lỗi, thì một khủng hoảng không bao giờ được vượt qua duy chỉ bằng cách chờ đợi người ấy thay đổi. Chúng ta cũng phải tự hỏi những gì trong đời sống chúng ta cần phát triển hay chữa trị nếu muốn giải quyết được sự xung đột.

Đồng hành sau khi đổ vỡ và ly dị
241. Trong một số trường hợp, sự tôn trọng phẩm giá của mình và thiện ích của con cái yêu cầu người ta không chịu khuất phục trước những đòi hỏi quá đáng, hay không được bỏ cuộc trong việc ngăn chặn một bất công nghiêm trọng, bạo lực hay tình trạng thường xuyên bị xử tệ. Trong những trường hợp như thế, “ly thân trở thành điều không tránh được. Nhiều khi đó thậm chí là sự cần thiết luân lý, tức khi mà đó là cách để giải thoát người phối ngẫu dễ tổn thương hơn hay những đứa con nhỏ khỏi bị thương tích nghiêm trọng do sự lạm dụng và bạo lực, sự làm nhục và bóc lột, sự thiếu quan tâm và thờ ơ”.257 Ngay cả trong trường hợp đó, “ly thân phải được coi như là biện pháp cuối cùng, sau khi mọi cố gắng hợp lý khác để hòa giải đã tỏ ra vô hiệu”.258
242. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “thiết yếu phải có sự phân định đặc biệt trong việc săn sóc mục vụ những người ly thân, ly dị hay bị ruồng bỏ. Cần bày tỏ sự lưu tâm đặc biệt đối với những đau khổ của người phải chịu ly thân, ly dị hay bị ruồng bỏ cách bất công, hay người đã bị buộc phải cắt đứt đời sống chung do sự ngược đãi từ chồng hay vợ mình. Tha thứ cho một bất công gây đau khổ như thế là điều không dễ dàng, nhưng ân sủng sẽ làm cho điều đó trở thành có thể. Việc săn sóc mục vụ nhất thiết phải bao gồm những nỗ lực làm trung gian và hòa giải, xuyên qua việc thiết lập những trung tâm tư vấn đặc biệt trong giáo phận”.259 Đồng thời, “những người ly dị mà không tái hôn, và thường làm chứng cho sự trung tín vợ chồng, phải được khích lệ để tìm thấy trong Thánh Thể sự nuôi dưỡng họ cần để đứng vững trong hoàn cảnh sống hiện tại. Cộng đoàn địa phương và các mục tử phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi có liên quan đến các con cái hay khi họ gặp khó khăn tài chánh nghiêm trọng”.260 Sự đổ vỡ gia đình càng chấn động và đau đớn trong trường hợp của người nghèo, vì họ không có bao nhiêu nguồn lực trong tầm tay để bắt đầu một cuộc sống mới. Một người nghèo, khi bị tách ly khỏi môi trường gia đình an ổn, thì càng chênh vênh gấp bội trước nguy cơ trở thành chơ vơ và có thể bị tổn hại.
243. Thật quan trọng việc những người ly dị đã đi vào một mối kết hợp mới phải được giúp đỡ để họ cảm thấy mình thuộc về Giáo Hội. “Họ không bị tuyệt thông”, và họ không nên bị đối xử như vậy, vì họ vẫn là thành phần của cộng đoàn Giáo Hội.261 Những hoàn cảnh này “đòi hỏi sự phân định kỹ lưỡng và sự đồng hành đầy tôn trọng. Cần tránh những ngôn ngữ hay hành vi có thể làm họ cảm thấy mình bị kỳ thị, và họ cần được khích lệ tham gia vào đời sống của cộng đoàn. Sự săn sóc của cộng đoàn Kitô hữu cho những người như thế không được coi như là một việc làm suy yếu đức tin và suy yếu chứng từ về tính bất khả phân ly của hôn nhân; đúng hơn, sự săn sóc ấy là một diễn tả đặc biệt của đức ái”.262
244. Nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng “nhấn mạnh rằng cần phải làm cho thủ tục trong các vụ án tiêu hôn trở nên dễ tiếp cận hơn và bớt tốn thời gian hơn, và nếu có thể, nên miễn phí”.263 Sự chậm chạp của tiến trình gây nản lòng và ức chế cho những người liên hệ. Hai văn kiện gần đây của tôi đề cập đến vấn đề này264 đã làm đơn giản hóa các thủ tục tiến tới tuyên bố tiêu hôn. Theo đó, tôi muốn “làm rõ rằng chính vị giám mục, trong Giáo Hội thuộc trách nhiệm mục tử và lãnh đạo của ngài, là người phán quyết về các tín hữu được ủy thác cho sự săn sóc của ngài”.265 “Việc thực thi những văn kiện này, do đó, là một trách nhiệm lớn đối với các Bản Quyền tại các giáo phận, các vị được mời gọi đích thân thẩm xét một số trường hợp, và trong mọi trường hợp, các vị bảo đảm sao cho người tín hữu đạt được công lý cách dễ dàng hơn. Điều này giả thiết việc chuẩn bị đủ nhân sự, gồm có các giáo sĩ và giáo dân được ủy nhiệm chủ yếu loại công tác này trong Giáo Hội. Các thông tin, các dịch vụ tư vấn và giới thiệu nối kết với việc tông đồ gia đình cũng phải có sẵn cho những ai đã ly thân hay các đôi vợ chồng gặp khủng hoảng. Những công tác này cũng có thể bao gồm việc gặp gỡ các cá nhân nhằm điều tra sơ bộ về một tiến trình liên quan đến hôn phối (x. Mitis Iudex, khoản 2-3)”.266
245. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng lưu ý đến “những hậu quả của sự ly thân hay ly dị trên con cái, trong mọi trường hợp đó là những nạn nhân vô tội của hoàn cảnh”.267 Bên cạnh mọi xem xét khác, thiện ích của con cái phải là mối quan tâm hàng đầu, và không được bị che lấp bởi bất cứ mối quan tâm hay mục tiêu ẩn giấu nào. Tôi khẩn thiết kêu gọi các cha mẹ đã ly thân: “Đừng, đừng bao giờ dùng đứa con làm con tin! Bạn ly thân vì nhiều vấn đề và nhiều lý do. Đời sống đã trao cho bạn thử thách này, nhưng con cái bạn không nên bị bắt mang lấy gánh nặng của sự ly thân ấy, hay bị dùng như những con tin để chống lại người phối ngẫu kia. Chúng cần được lớn lên trong khi nghe người mẹ nói tốt về người cha, và người cha nói tốt về người mẹ, cho dù hai người không sống với nhau”.268 Thật là vô trách nhiệm việc nói xấu người kia như một cách để tranh thủ tình cảm của đứa con, hay do hận thù, hay do muốn biện minh cho mình. Làm như thế sẽ ảnh hưởng đến sự yên ổn bên trong của đứa con và gây ra những vết thương khó chữa lành.
246. Trong khi hiểu rằng các hoàn cảnh xung đột vốn là một phần của hôn nhân, Giáo Hội không thể không lên tiếng nhân danh những con người dễ tổn thương nhất: đó là, những đứa con thường phải âm thầm chịu khổ sở. Ngày nay, “bất chấp những cảm thức có vẻ tiến bộ của chúng ta và tất cả những phân tích tâm lý rất tinh tế của chúng ta, tôi tự hỏi phải chăng chúng ta không đang trở thành trơ lì trước sự tổn thương trong tâm hồn của trẻ em… Chúng ta có cảm nhận được gánh nặng tâm lý to lớn mà các trẻ em phải chịu trong các gia đình nơi mà các thành viên xử tệ và làm tổn thương nhau, đến mức phá vỡ các mối dây trung tín vợ chồng?”269 Những kinh nghiệm tai hại như thế không giúp cho trẻ em lớn lên với sự trưởng thành cần thiết để có những sự dấn thân dứt khoát. Vì thế, các cộng đoàn Kitô hữu không được bỏ rơi các cha mẹ ly dị và đã đi vào một mối kết hợp mới, nhưng phải bao gồm và hỗ trợ họ trong những cố gắng của họ để nuôi dạy con cái. “Làm sao chúng ta có thể khích lệ những cha mẹ ấy làm mọi sự có thể để nuôi dạy con cái trong đức tin Kitô giáo, để trao cho chúng một gương mẫu về một đức tin thực tiễn và dấn thân, nếu chúng ta hất hủi họ khỏi đời sống cộng đoàn, như thể một cách nào đó họ bị tuyệt thông vậy? Chúng ta phải tránh hành động theo cách càng bồi thêm gánh nặng mà con cái trong những hoàn cảnh này vốn đã phải chịu!”270 Việc giúp chữa trị các vết thương của cha mẹ và nâng đỡ họ về mặt thiêng liêng cũng thật có ích cho con cái, chúng cần khuôn mặt thân thuộc của Giáo Hội nhìn thấy chúng xuyên qua kinh nghiệm đầy thương tổn này. Ly dị là một sự dữ và con số ly dị ngày càng tăng là điều thật rất đáng ưu tư. Vì thế, công tác mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình, đó là giúp củng cố tình yêu của họ, giúp họ chữa lành các thương tích, và cố gắng ngăn chặn sự lan tràn của bi kịch này trong thời đại chúng ta.

Một số hoàn cảnh phức tạp
247. “Những vấn đề liên quan tới các cuộc hôn nhân hỗn hợp đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Hôn phối giữa những người Công giáo và những người khác cũng đã lãnh Phép Rửa ‘có bản chất riêng của nó, nhưng nó chứa nhiều yếu tố có thể được vận dụng và phát triển, vừa do giá trị nội tại của nó, vừa do sự đóng góp mà nó có thể đem lại cho phong trào đại kết’. Vì mục đích này, ‘cần có một nỗ lực để thiết lập sự cộng tác chân thành giữa các thừa tác viên Công giáo và không Công giáo, từ thời gian bắt đầu chuẩn bị cho hôn nhân và lễ cưới’ (Familiaris Consortio, 78). Liên quan tới việc chia sẻ Thánh Thể, ‘vấn đề phía không Công giáo của cuộc hôn phối có được chấp nhận rước Thánh Thể hay không, sự quyết định sẽ được đưa ra dựa theo những tiêu chuẩn tổng quát hiện hành, cả đối với các Kitô hữu Đông phương lẫn đối với các Kitô hữu khác, có xét đến hoàn cảnh riêng của việc lãnh nhận Bí tích Hôn Phối do hai người Kitô hữu đã chịu Phép Rửa. Mặc dù những người phối ngẫu trong một hôn phối hỗn hợp chia sẻ Bí tích Phép Rửa và Hôn Phối, việc chia sẻ Thánh Thể chỉ có thể là ngoại lệ và trong mỗi trường hợp phải theo các tiêu chuẩn đã được tuyên bố (Hội Đồng Giáo Hoàng về Thăng Tiến Sự Hiệp Nhất Kitô hữu, Huấn thị về việc Áp dụng các Nguyên tắc và các Tiêu chuẩn Đại kết, 25 tháng 3, 1993, 159-160)”.271
248. “Những hôn phối khác đạo thể hiện một nơi đặc biệt cho cuộc đối thoại tôn giáo trong đời sống hằng ngày… Những hôn phối này cũng bao gồm các khó khăn đặc biệt liên quan đến cả căn tính gia đình của Kitô giáo lẫn việc giáo dục tôn giáo cho con cái… Con số gia đình với vợ chồng khác đạo, đang gia tăng trong những vùng đất sứ mạng thừa sai và ngay cả tại những nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời, khẩn thiết đòi hỏi sự cung ứng săn sóc mục vụ đặc biệt, phù hợp với các bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau. Tại một số nước nơi mà không có tự do tôn giáo, người Kitô hữu bị buộc phải cải đạo theo tôn giáo khác để kết hôn, và do đó không thể cử hành hôn phối khác đạo theo giáo luật hay rửa tội cho con cái. Do đó chúng ta phải lặp lại điều thiết yếu rằng tự do tôn giáo của mọi người phải được tôn trọng”.272 “Cần chú ý đến những người đi vào những hôn phối như vậy, không chỉ trong giai đoạn trước lễ cưới. Những thách đố đặc loại đặt ra cho các đôi bạn và các gia đình trong đó một người là Công giáo còn người kia là người không tin. Trong những trường hợp như thế, việc làm chứng cho khả năng Tin Mừng có thể hòa nhập vào những hoàn cảnh này sẽ giúp người ta có thể giáo dục con cái trong đức tin Kitô giáo”.273
249. “Các vấn đề đặc biệt nổi lên khi những người ở trong tình trạng hôn phối phức tạp ước ao lãnh Phép Rửa. Những người này ký kết một hôn ước ổn định vào lúc mà ít nhất một trong hai người đã không biết đức tin Kitô giáo. Trong những trường hợp như thế, các giám mục được mời gọi làm công việc phân định mục vụ thích đáng với ích lợi thiêng liêng của họ”.274
250.Giáo Hội lấy tâm tư của Chúa Giêsu làm của mình, Chúa trao ban tình yêu không giới hạn cho mỗi người không trừ ai.275 Trong suốt Thượng Hội Đồng, chúng tôi đã thảo luận về hoàn cảnh của các gia đình trong đó các thành viên bao gồm những người kinh nghiệm khuynh hướng đồng giới, một hoàn cảnh không dễ dàng cho cha mẹ hay cho con cái. Chúng tôi muốn trước hết tái khẳng định rằng mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục, phải được tôn trọng trong phẩm giá của họ và phải được đối xử với sự trân trọng, trong khi phải lưu ý tránh ‘mọi dấu hiệu kỳ thị bất công’,276 nhất là mọi hình thức gây hấn và bạo lực. Những gia đình như thế cần được ân cần trao cho sự hướng dẫn mục vụ, để những người bộc lộ khuynh hướng đồng tính có thể nhận được sự hỗ trợ họ cần, hầu có thể hiểu và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời mình.277
251. Trong khi thảo luận về phẩm giá và sứ mạng của gia đình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “về đề nghị đặt những sự kết hợp giữa những người đồng tính trên cùng bình diện như hôn nhân, tuyệt đối không có cơ sở nào để xem những sự kết hợp đồng tính là tương tự hay thậm chí giống một cách xa xa với kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình”. Không thể chấp nhận “rằng các Giáo Hội địa phương phải chịu thua sức ép trong vấn đề này và rằng các cơ chế quốc tế phải trợ giúp tài chánh cho các nước nghèo tùy thuộc vào việc ban hành những luật thiết lập ‘hôn nhân’ giữa những người cùng giới tính”.278
252. Những gia đình có cha hay mẹ đơn thân thường xảy ra từ “trường hợp những người cha hay người mẹ sinh học không sẵn lòng để trở nên thành phần của một gia đình; những hoàn cảnh bạo lực, trong đó người cha hay mẹ bị buộc phải trốn thoát với con cái; cái chết của người cha hay người mẹ; hoặc người cha hay người mẹ bỏ rơi gia đình, và nhiều hoàn cảnh khác nữa. Dù trường hợp nào đi nữa, những người cha hay mẹ đơn thân cần nhận được sự khích lệ và nâng đỡ từ các gia đình khác trong cộng đoàn Kitô hữu, và từ sự quan tâm mục vụ của giáo xứ. Những gia đình này thường phải chịu các truân chuyên khác, như những khó khăn về kinh tế, những viễn ảnh công ăn việc làm không chắc chắn, những vấn đề về chăm sóc con cái, và về nhà ở”.279
KHI CÁI CHẾT LÀM CHÚNG TA

CẢM NHẬN NỖI ĐAU


253. Có những lúc đời sống gia đình bị thách đố bởi cái chết của một người thân. Chúng ta không thể không cung cấp ánh sáng đức tin như một nâng đỡ cho các gia đình nếm trải kinh nghiệm này.280 Việc dửng dưng với một tang gia đang buồn đau sẽ cho thấy thiếu lòng thương xót, có nghĩa là đánh mất một cơ hội mục vụ, và đóng cánh cửa chặn đứng các nỗ lực khác của việc loan báo Tin Mừng.
254. Tôi có thể hiểu nỗi đau của những người vừa mất một người rất thân yêu, một người bạn đời mà mình đã chia sẻ bao ngọt bùi. Chính Đức Giêsu đã xúc động sâu sắc và khóc thổn thức trước cái chết của một người bạn (x. Ga 11,33.35). Và làm sao chúng ta có thể thực sự hiểu nỗi đau thương của những người cha mẹ mất đứa con của mình? “Thời gian như thể ngừng lại: một vực thẳm mở ra nhận chìm cả quá khứ và tương lai”, và “nhiều khi chúng ta thậm chí đi xa đến mức oán trách Thiên Chúa. Biết bao người nổi giận với Chúa – và tôi có thể thông cảm với họ”.281 Mất người bạn đời là một kinh nghiệm đặc biệt khó khăn… Kể từ khoảnh khắc chịu đựng nỗi mất mát, một số cho thấy có khả năng tập trung năng lực của mình vào một sự hiến thân nhiều hơn cho con cháu, họ tìm thấy trong kinh nghiệm yêu thương này một cảm thức sứ mạng mới trong việc nuôi dạy con cái… Những người không có họ hàng để bầu bạn và để nhận được sự cảm thông cần phải được trợ giúp bởi cộng đoàn Kitô hữu, với sự chú ý và quan tâm đặc biệt, nhất là nếu họ là những người nghèo”.282
255. Thông thường, sự thương tiếc người thân là một tiến trình diễn ra trong một quãng thời gian, và khi người mục tử phải đồng hành với tiến trình ấy, ngài phải thích ứng với những yêu cầu của mỗi chặng trong đó. Toàn thể tiến trình được đong đầy bởi những vấn nạn: về những lý do cái chết của người thân yêu đó, về tất cả những gì lẽ ra đã được làm, về kinh nghiệm của một người tại khoảnh khắc từ trần. Với một tiến trình cầu nguyện chân thành và kiên nhẫn cùng với sự giải phóng bên trong, bình an sẽ trở lại. Có những lúc chúng ta phải giúp người đang thương tiếc ấy nhận ra rằng sau sự mất mát người thân yêu, chúng ta vẫn có một sứ mạng để thi hành, và rằng không ích gì việc kéo dài nỗi đau khổ, như thể đó là một hình thức cống nạp. Những người thân yêu quá cố của chúng ta không muốn chúng ta đau khổ, họ cũng không vui khi chúng ta tàn phá đời sống của mình. Và cách diễn tả tốt nhất của tình yêu cũng không phải là cố bám chặt lấy họ và liên tục nhắc đến tên họ, bởi vì như vậy là lệ thuộc vào quá khứ chứ không phải là tiếp tục yêu thương họ trong hiện tại khi họ đã khuất. Họ không còn có thể hiện diện hữu hình với chúng ta nữa, nhưng dù sự chết mạnh đến mấy thì “tình yêu vẫn mạnh không kém sự chết” (Diễm ca 8,6). Tình yêu có một trực giác giúp chúng ta nghe cái vô thanh và thấy cái vô hình. Điều này không có nghĩa là tưởng tượng người thân yêu quá cố của chúng ta như là họ trước đó, nhưng là khả năng chấp nhận họ đã thay đổi như họ hiện nay. Hãy xem Đức Giêsu phục sinh, khi Maria, bạn Người, muốn ôm lấy Người, Người đã bảo chị ấy đừng cầm giữ Người lại (x. Ga 20,17), để mở ra cho chị ấy một loại gặp gỡ khác.
256. Chúng ta được an ủi khi biết rằng những người đã chết không hoàn toàn trôi qua mất, và đức tin bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Phục sinh sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Vì thế chúng ta có thể “ngăn không cho cái chết làm nhiễm độc sự sống, làm cho tình yêu của ta thành trống rỗng, hay xô đẩy ta xuống vực thẳm tăm tối nhất”.283 Thánh Kinh bảo rằng Thiên Chúa đã sáng tạo chúng ta do tình yêu, và Ngài đã tạo nên chúng ta theo một cách thức mà sự sống của ta không chấm dứt với cái chết (x. Kn 3,2-3). Thánh Phaolô nói về một cuộc hạnh ngộ với Đức Kitô ngay sau cái chết: “Mong ước của tôi là được ra đi để ở với Đức Kitô” (Pl 1,23). Với Đức Kitô, sau cái chết, điều đón đợi chúng ta là “những gì Thiên Chúa đã sửa soạn cho những ai yêu mến Ngài” (1Cr 2,9). Kinh Tiền Tụng của Phụng vụ Cầu cho các tín hữu đã qua đời diễn tả rất hay: “Dù buồn sầu vì số phận chắc chắn phải chết, chúng con vẫn được ủi an, bởi Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt. Vì lạy Chúa, đối với chúng con là những tín hữu, sự sống thay đổi chứ không mất đi”. Thật vậy, “những người thân yêu của chúng ta không mất hút trong bóng hư không; đức cậy bảo đảm với chúng ta rằng họ ở trong bàn tay tốt lành và mạnh mẽ của Thiên Chúa”.284
257. Một cách để duy trì tình thân với những người thân yêu quá cố, đó là cầu nguyện cho họ.285 Thánh Kinh dạy rằng “việc cầu nguyện cho người quá cố” là việc “thánh thiện và đạo đức” (2Mcb 12,44-45). “Lời cầu nguyện của chúng ta cho họ không chỉ có sức giúp họ, mà còn làm cho sự chuyển cầu của họ cho chúng ta được hữu hiệu”.286 Sách Khải Huyền mô tả các vị tuẫn đạo chuyển cầu cho những ai chịu đau khổ vì bất công trên trần gian (x. Kh 6,9-11), trong sự liên đới với thế giới và lịch sử này. Một số vị thánh, trước khi từ trần, đã an ủi những người thân yêu bằng cách hứa với họ rằng các vị sẽ ở gần để trợ giúp họ. Thánh Têrêsa Lisieux ước ao tiếp tục làm những việc tốt lành từ thiên đàng.287 Thánh Đa-minh tuyên bố rằng “ngài sẽ giúp ích nhiều hơn sau khi qua đời… sẽ có quyền lực hơn để đạt được ân sủng”.288 Đó là “những mối dây yêu thương” đích thực,289 vì “sự kết hợp giữa những người còn đang lữ hành với anh chị em đã yên nghỉ trong Chúa chắc chắn không bị cắt đứt… [nhưng] được củng cố bởi một sự trao đổi các thiện ích thiêng liêng”.290


Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương