Nhập Nhằng ‘Một Ngàn Năm Thăng Long’ Nguyễn Lộc Yên (Sept. 2010)


Nguyễn Thanh Ty   Boston, 15/9/2010



tải về 0.65 Mb.
trang5/10
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.65 Mb.
#19912
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Nguyễn Thanh Ty   Boston, 15/9/2010

DUYÊN DÁNG VIẾT NAM” VÀ “NGÀN NĂM THĂNG LONG”.  



Chu Tất Tiến

Hạ tuần tháng 8 năm 2010, đi ngang qua một ngôi chợ “Super Market” ở ngay trung tâm khu “Little Saigon” mà được quen gọi là “Thủ Đô Tị Nạn”, người ta ngạc nhiên thấy một tấm “pano” quảng cáo mầu vàng treo ngay trước cửa vào chợ, mời gọi người đi chợ mua “Thẻ Điện Thoại Duyên Dáng Việt Nam”. Người chủ tấm quảng cáo và người chủ chợ thật “gan cùng mình” khi công khai quảng cáo cho một chương trình được Cộng Sản Việt Nam đỡ đầu. Chương trình có tên này, trước đây vài năm, đã thất bại khi đoàn văn công Cộng Sản sang “nắn gân và chọc tức” bà con hải ngoại. Sau khi bị cộng đồng tẩy chay và biểu tình ngay trước cửa rạp, chương trình lưu diễn “nắn gân và chọc tức” ấy bị đình bản tại Mỹ và Úc. Tuy nhiên, có lẽ vì có “máu”, không bao giờ chịu thua cuộc, như lời văn công Đàm Vĩnh Hưng đã trả lời cộng đồng trong một lần họp báo cũng tại Nam California, nên thỉnh thoảng, nhóm chữ “Duyên Dáng Việt Nam” này vẫn được gửi đi trong một chương trình văn nghệ tại khác tại Singapore, rồi bây giờ lại lén lút trở về khu Thủ Đô Tị Nạn như chương trình bán thẻ điện thoại ấy. Trên một chương trình truyền hình địa phương tại miền Nam California, khán giả cũng thấy đài cho chiếu quảng cáo cho thẻ điện thoại mang nhóm chữ khoe khoang “Duyên Dáng Việt Nam”. Dĩ nhiên cộng đồng tị nạn đau đớn lắm nhưng vì tính chất Dân Chủ và Tự Do, cộng đồng dù tức bực nhưng cũng đành nhắm mắt cho quên. 

Trong tháng 9 này, dân Hà Nội đang chờ đón vũ hội “Ngàn Năm Thăng Long”, một chương trình tốn vài tỷ đô la được tổ chức vào tháng 10 sắp tới. Qua nhóm chữ khoe khoang một cách văn hoa ấy, Hà Nội một lần nữa lại chứng tỏ cho mọi người thấy tính chất tự kiêu về văn chương của mình. Tuy nhiên, một điều mâu thuẫn là các mô hình sinh hoạt lại mang đầy mầu sắc Trung Hoa, từ phim ảnh, điêu khắc, đến các vũ điệu và trang phục… đầy tính chất Tầu đến nỗi nhiều đảng viên Cộng Sản cũng phải lên tiếng yêu cầu là phải coi lại toàn bộ vấn đề, nhất là phải bỏ phim “Lý Công Uẩn” đi vì nó mang phiên bản nô lệ quá sức! Một điều đau đớn cho văn hóa và lịch sử dân tộc là thời gian kiêu hãnh khoe mẽ này lại trùng với ngày Quốc Khánh Trung Hoa! Không một lời biện hộ nào có thể chứng minh rằng đó là những trùng hợp ngầu nhiên, vì dự án tổ chức đã được bàn thảo liên tục từ vài năm trước.

Nhưng thôi, bỏ qua chuyện tổ chức “Ngàn Năm Thăng Long” như là lời chúc mừng Quốc Khánh Tầu đi, trở lại vấn đề “Duyên Dáng Việt Nam”. Khi nghe người hải ngoại la ó ở trước cửa hí viện đang trình diễn “Duyên Dáng Việt Nam”, một số các bạn du sinh rất khó chịu và cho hải ngoại là những kẻ đầy hận thù cá nhân, những người mất bổng lộc của chế độ cũ, đang sống huy hoàng trong vương giả của một chế độ “người bóc lột người”, nên khi bị đẩy ra ngoài xã hội, mãi giữ lòng căm ghét chế độ mới, và bất cứ những gì do chế độ mới tạo ra, đều bị kiếm cớ chê bỏ. Theo lời biện hộ của những kẻ tổ chức, chương trình “Duyên Dáng Việt Nam” không có gì đề cao Cộng Sản cả, chỉ là những màn vũ dân tộc, những bài ca gợi tình quê hương, làm đẹp cho đất nước tại xứ người... mà cũng bị đả đảo um xùm. Nhiều người cho là sau nhiều năm tù đầy cải tạo, cộng đồng hải ngoại chỉ biết “ghét” mà không biết “thương”, biết “giận” mà không “quên”...

Thật ra, nếu chỉ nhìn vào một mặt nổi của vấn đề, điều biện hộ ấy có lý lắm. Nhưng rất tiếc, chỉ đúng khi chưa phân tích kỹ lưỡng những gì ẩn dấu sau cái bề ngoài sôi nổi ấy.

Đã là một con người, ai cũng có đủ “thất tình” cả. “Thất tình” đây là Bẩy tình cảm mà con người sở hữu từ khi có trí khôn: “hỉ, nộ, ái, ố, ai, dục, cụ”. Có nghĩa là: “Vui, giận, yêu, ghét, buồn, muốn, sợ”. Lớp cộng đồng thế hệ thứ nhất, dĩ nhiên, đều có “thất tình”, nghĩa là ngoài những vui, buồn, ham muốn...nhất định phải biết ghét những bất công, và yêu những điều đáng quý. Những người hải ngoại, khi đi xem các buổi trình diễn văn nghệ đều vui cười ầm ĩ hoặc nhỏ lệ thương đau đến nhạt nhòa son phấn tùy theo nội dung trình diễn. Với những nghệ sĩ đi riêng lẻ, đến trình diễn đâu đó, cộng đồng hải ngoai vẫn để họ thoải mái, tự do. Nếu chương trình “Duyên Dáng Việt Nam” là do một nhóm trẻ tổ chức, mà không có cán bộ đứng chỉ huy, không có công an núp trong cánh gà, không được chi trả bằng tiền của ngân hàng Nhà nước với con dấu đỏ au, người hải ngoại sẵn sàng ngồi chung với ban tổ chức và cùng chia xẻ những nụ cười hoặc niềm cảm xúc. Hải ngọai yêu lắm những câu Quan Họ Bắc Ninh lả lướt cánh cò bay, những câu hò miền Nam dạt dào sông nước. Nhưng yêu hơn cả là những vè lục bình trôi giạt mông lung, các cọng rác lênh đênh, cái vó lưới cá nghiêng nghiêng, những bàn chân vội vã qua chiếc cầu khỉ chông chênh, gánh nặng oằn vai người thiếu phụ, nhất là khuôn mặt già nhăn nheo những rãnh đời của bà mẹ ngồi bên nải chuối cạnh đường. Gần đây, lại đau sót với các khuôn mặt trẻ thơ mà nét hồn nhiên không còn khi các cháu, các em giật áo Việt Kiều mà gọi: “Chú ơi! Ôm không, chú?” Hải ngoại thương đến xót xa tuổi thơ đáng lẽ phải đến trường, chơi với những con chữ, nhưng lại lang thang đánh giầy, bán vé số, lượm lon, nhặt bao nylông, hay “vồ, giật” qua ngày. Cũng yêu và đau đến nhỏ lệ khi biết nghe người bạn già kể lại, lúc về Cần Thơ, qua phà, gặp mấy em gái 17, 18 thủ thỉ với ông bạn rằng: “Chú ơi! Chơi... cháu không? Chú nhớ cho nhiều tiền Típ nhe! Cháu cần mua cho thằng em cháu cái quần dài mặc đi học!”



Chỉ nghe qua, mà chưa nhìn thấy, nước mắt đã trào ra dàn dụa rồi! Có phải “Duyên dáng Việt Nam” là thế chăng? Phải “Ngàn Năm Thăng Long“ đó chăng? Duyên Dáng Việt Nam” có đau đứt ruột không khi hàng ngàn cô gái bỏ quê, lên thành phố kiếm chồng ngoại, phải tập họp ở khách sạn, lột bỏ quần áo, đi qua đi lại, ưỡn ẹo cho những tên ngoại quốc đến sờ mó, nắn, bóp, bắt thè lưỡi, hả họng.. cho chúng khám đã đời rồi ra giá như mua một con chó. (Thật ra, giống chó ở bên Mỹ này, khi được bán mua, cũng không đến nỗi bị xâm phạm tồi tệ như vậy. Một con chó quý có thể bán cả ngàn đô. Thiếu nữ Việt chỉ khoảng một, hai trăm đô.) Sau đó, hên nhờ rủi chịu. Lấy một chồng thì may, phải lấy nhiều chồng, hay què, mù, đui, sứt... thì ráng qua hết kiếp.

 ”Duyên Dáng Việt Nam” và “Ngàn Năm Thăng Long” ở đâu khi thiếu nữ Việt Nam phải rao bán ở nước ngoài, phải đứng trong lồng kính cho khách ngoại đến dòm ngó và trả giá? Các cô gái Việt ở Singapore có thể bị đem đi xài “thử” một tuần, bị bắt thực hành đủ trò dâm đãng rồi có thể bị trả lại, nếu chủ mua nô lệ không vừa ý. Mà nếu mua, cũng chỉ được trả có vài đồng Singapore mà thôi.

Ôi! Thân phận Việt Nam Bốn ngàn năm văn hiến! Sau ba mươi năm đảng độc quyền cai trị, những lý luận cho rằng kết quả tang thương của đất nước là do “tàn dư Mỹ Ngụy”, “nọc độc Tư Bản Đế Quốc”  đã không còn được nhắc đến nữa, thì giờ đây, hầu như mọi con đường trong thành phố Sàigòn về đêm đã trở thành độc quyền của gái giang hồ. Đi xe gắn máy qua những con đường trước cửa Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, có thể bị giật tay áo bởi những ma cô, các em gái, em trai 13, 14, và những khuôn mặt nhòe nhoẹt phấn son trông rợn người như những xác chết biết đi. Thực tế, họ đã là ma, bởi sống mà tương lai chỉ là giật dọc, dầy vò, xì ke, ma túy, Aids, trại cải tạo phục hồi... thì không còn là sống mà đã chết ngay khi còn hơi thở.  Trên giải đất Việt Nam hình chữ S, có bao nhiêu con người “sống mà chết” đó? Họ lang thang, vất vưởng ở đâu? Tận cực Bắc, Sơn La, Lào Cai, Móng Cái, các mỏm đồi hoang cho thợ đào vàng, kiếm trầm, các chợ nghèo miền Trung; đến cực Nam, Cà Mâu và những đảo nho nhỏ chung quanh, vài nơi vẫn còn tục cho “mướn vợ” vì không có tiền để tự mua vợ cho mình.

  “Duyên Dáng Việt Nam” và “Ngàn Năm Thăng Long” có lẽ chỉ tập trung tại những lầu đài tráng lệ, mới xây tinh khôi, từ vài trăm ngàn đô đến triệu đô la Mỹ. Em “Duyên Dáng” có người hầu, người “ở” vì em là “công chúa đỏ”.

Ba má của em là những vị “đầy tớ nhân dân” cắp cặp táp, đi xe hơi cả trăm ngàn đô, đánh bạc một lúc bằng chục chiếc xe “Van”, bằng tiền của “nhân dân”, hay đi nước ngoài buôn lậu từng chuyến tầu có hải quan hộ tống. Ba má của em có thể là “chú Tư”, anh “Ba” làm ngân hàng có quyền đem tiền ra chia chác, đánh số đề, cho vay nợ. Ba em có thể là chủ tịch quận, ngày trước đùng đùng ra lệnh cho công an, bộ đội, thanh niên, ém các ngả đường vào chợ Tân Bình, Bình Tây, Phú Nhuận... rồi tung tay chân vào vơ vét, cướp sạch đồ đạc, đem về nhà cất rồi tàn tàn đem bán lại, cho chuộc với giá tính bằng vàng ký... Má em có thể là Bộ Trưởng, Bí Thư hay Giám đốc, đem tài sản đất nước đi cầm, đi bán tỉnh bơ. Anh chị của em có thể là Hải Quan, Công An giao thông cướp đường, chặn chợ, bắt tay với trộm cắp cho “chẩy máu văn hóa” ra nước ngoài: tượng, trống, chiêng... cả ngàn năm lịch sử. “Ngàn Năm Thăng Long”, thực tế chỉ là cái vỏ rỗng không, bao nhiêu di tích lớn nhỏ đã bị biến thành trụ sở Công an, bao nhiêu đồ gốm, đồ đồng, đồ sứ, đồ gỗ .. đã bị bán cho tư bản nước ngoài gần hết rồi.

Những quyền năng vô hạn, luật rừng ấy cho Em “duyên dáng” trong vũ trường, thuốc “lắc”. Em chi vài chục đô, hay vài trăm đô cho một tối vui chơi. Em đi xe láng coóng, cầm điện thoại di động, duyên dáng trong trên tuổi một minh tinh điện ảnh, một “môđen” nổi tiếng, và em sẵn sàng bán cái duyên dáng của em lấy trăm đô cho một lần ngủ hoang... Em làm ca sĩ nổi tiếng, tiền “cát xê” lên tới hàng ngàn đô, nhưng em phải “liên hệ” với cấp cao, Thủ Trưởng, Trợ Lý.. để được đi mây về gió, có bảo vệ kè kè. Và, em không bao giờ có cơ hội đi qua những bãi rác ngoại thành nơi nhung nhúc những con người không biết duyên dáng là gì, quần quật, suốt ngày cầm que cào cào, moi móc, nhặt bịch nylông đựng máu, chứa mủ, chứa tay chân người, ruột gan phèo phổi vứt bừa cho chó gặm...

 Còn những em không có chút nào là “duyên dáng” thì ở trong các ký túc xá sinh viên ngập ngụa thuốc lá, bao cao su, trần nhà đen bóng vì bếp nấu, những con bài trôi nổi lập lờ trên vũng nước em bước qua. Em phải có “bồ” bao, nếu không, sẽ không thể trả tiền học, hiện nay cao gấp nhiều lần lợi tức của một công nhân viên. Xã hội “duyên dáng Việt Nam” cho em hai chọn lựa: một là làm vợ thuê, hai là bỏ học. Bố mẹ em có ba chọn lựa: tiếp tục cho con học với điều kiện phải bán nhà, bán xe, bán lợn; hai là mặc con tự tìm đường lấy; ba là gian tham, tham nhũng, vơ vét, gian lận, mánh mung, ăn chia với cán bộ. “Đầu đội, tay xách, nách mang, lưng quàng bao bị.” Đó là câu châm ngôn của các nhân viên nhà nước phải tự bương chải, chộp giật, lấy cắp của công đem về chia chác để sống còn. Công nhân cũng còn câu thần chú khác: “Đặt đâu ngồi đấy, bảo gì dạ nấy, thấy gì lấy nấy.” Tinh thần văn hóa của cả nước ta lại theo câu cách ngôn: “Tiền là Tiên, là Phật; là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, là ý nghĩa tình yêu.”

Tự những câu cách ngôn, châm ngôn, thần chú ấy đã nói lên hết cái “duyên dáng Việt Nam” và “ngàn năm Thăng Long” rồi. Duyên Dáng lại thể hiện rõ nét tại các cuộc tập họp, biểu tình trước Quốc Hội, trước “lầu đài” nghênh ngang của các vị Thủ Tướng, Chủ Tịch nước, để khiếu nại những “đầy tớ nhân dân” ức hiếp “những nguời “chủ đất nước!” Họ đã bị đuổi ra khỏi nơi chôn rau, cắt rốn; bị cướp nhà, cướp đất ngang xương; nhà thờ bị phá làm trụ sở công an; đền đình, nhà chùa biến thành nơi tụ họp văn nghệ, hát xướng; đất ruộng bao đời của tổ tiên để lại biến thành tư hữu của chủ tịch xã, phường... Gần đây nhất, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ra môt luật “cấm không được thưa kiện theo từng nhóm”, để cấm luôn quyền tập hợp lại để làm chung một đơn kiện.

Duyên Dáng Ngàn Năm đang lẩy bẩy trong các nhà tù khủng khiếp của Cộng Sản, nơi các nhà văn, các kỹ sư, giáo sư, luật sư, những người yêu nước bị giam nhốt tệ hơn các con chó trong chuồng.

Nhìn vào thực trạng Việt Nam, có còn ai cho là chế độ cũ “người bóc lột người” nữa không? Ai bóc ai? Ai lột ai trong 30 năm qua? Duyên Dáng Việt Nam, Ngàn Năm Thăng Long… đang là những túp lều tan nát mọc trên một xã hội vô cảm.

  Chu tất Tiến.




Ngàn Năm Thăng Long

Vi Anh

Tạo Hoá gây chi cuộc hí trường,


Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo.
Cảnh cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cỗ. 
Cảnh đấy lòng đây luồng đoạn trường.”

Nếu Bà Huyện Thanh Quan sống lại  bây giờ sẽ còn “đoạn trường” hơn lúc làm bài thơ “Thăng Long Thành Hoài Cỗ” nữa. Nhà cầm quyền CS Hà nội đã xuất hàng mấy tỷ Đô la để làm lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long của VN  để phục hưng  quốc gia dân tộc Việt. Thế nhưng khi làm thì đầy màu sắc, bóng dáng, nội dung hình thức Tàu trong đó. Khiến hầu hết những người dân Việt ở Bắc, ở Nam, ở Trung ở hải ngoại  ai mà theo dõi một chút thôi sẽ đau đứt ruột, tức thấu gan trước cái thiếu  tinh thần văn hoá  Việt nhưng thừa lòng tham tiền “rút ruột công trình” như Ông Thủ Tướng  VC Võ văn Kiệt nói, của những người quyết định tổ chức lễ hội Ngàn Năm Thăng Long. Thí du như:

Một là bất chấp lịch sử, CS Hà nội nhập nhằng lấy kỷ niệm quốc khánh của Trung Quốc 01 tháng 10  mừng ngày kỷ niệm Ngàn Năm Thăng Long của VN, để phục vụ ý đồ chánh trị thần phục Anh Cả Đỏ. Theo Giáo sư Tương Lai, nguyên viện trưởng viện Khoa học Xã Hội Việt Nam CS nói trên RFA, “theo chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn và Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim, thì việc xây cất thành Thăng Long khởi sự vào tháng 7 (âm lịch) đầu thu năm Canh Tuất (1010), tương đương với ngày 10 tháng 08 dương lịch. Như thế Đại lễ kỷ niệm phải được mừng vào mồng 10 tháng 08 năm 2010. Thế nhưng chính phủ đã tự ý chọn thời điểm khai mạc đại lễ vào ngày 01 tháng 10 là quốc khánh của Trung Quốc và bế mạc vào ngày 10 tháng 10 cũng là quốc khánh của Đài Loan.”

Hai là bộ phim truyền hình nhiều tập: “Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long” là một bô phim lai căng Tàu từù hình thức đến nội dung. Do vậy “vừa tung ra mắt một video clip ngắn vài phút trên mạng đã làm dư luận nổi lên gay gắt chống đối đến nỗi nhà nước phải hoãn lại chưa cho phép chiếu trên hệ thống truyền hình Việt Nam. Theo báo chí mô tả thì điều đáng nói ở đây toàn bộ ê kíp làm phim từ lớn tới nhỏ đều là người Trung Quốc. Từ đạo diễn Cận Đức Mậu và đạo diễn Triệu Lôi tới các chuyên gia hóa trang cũng là người Trung Quốc; Trường quay Hoành Điếm cũng tại Trung Quốc. Gần 700 bộ trang phục cổ được người Trung Quốc bao thầu; thậm chí diễn viên đóng thế và hàng trăm diễn viên quần chúng cũng đều là người Trung Quốc... Bỏ ra 10 triệu Đô la dể cho người Tàu bôi bác lịch sư, văn hoá, con người VN như vậy,  người Việt sẽ nghĩ gì?”

Ba, CS Hà  nội đại đa số  nếu không bị CS Bắc Kinh thuần hoá thì cũng bị Hán hoá rổi. Đối với Đảng Nhà Nược, TC đã cấy sinh tử phù đặc quyền đặc lợi kinh tế chánh trị vào 15 ông hội tế của Bộ Chánh Trị Đảng rồi. Như thí dụ Gs Tương Lai cụ thể nói ra đây. “Bà Ngô Thị Thanh Hằng, phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, phụ trách văn hóa chỉ là một cô thanh niên không có nghề nghiệp nhưng hăng hái hoạt động phong trào thanh niên thế rồi được một vài người ưu ái đưa vào thành phó chủ tịch thành phố. Với trình độ như thế lại phụ trách một cái mảng rất quan trọng của thủ đô như thế thì cái việc sai lầm như chúng ta đang thấy là chuyện tất yếu thôi."

Đối với cấp địa phương, TC dùng quyền lực mềm, phóng tài hoá thu nhân tâm qua các họp đồng. xây dựng các nhà máy, phát triển ngành nông nghiệp hay cho vay ưu đãi... TC là nước nhận nhiều họp đồng thực hiễn công trình năng lương nhứt ở VN, theo diều tra của Tây Phương không phải vì TC giỏi, làm rẻ mà vì “hối lộ” giỏi.

Về văn hoá và lịch sử, TC âm thầm nhưng quyết liệt tốn bao nhiêu cũng tốn chứng tỏ Việt Nam khi xưa thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc. “Quảng Đông khi ấy là nơi tập trung dân Bách Việt, và Bách Việt chính là Đồng Choang, họ hàng với các sắc tộc Choang tại Quảng Tây ngày nay."


TC đã hơn một lần tổ chức cho người Việt gốc Choang sang Quảng Tây dự lễ kỷ niệm của Mã Viện.  Họ tế Mã Viện, họ diển trò cho Hai Bà Trưng tế Mã Viện. Cán bộ đảng viên CSVN cũng “ điều” Văn công VN  đóng vai Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân, Thi Sách đọc văn tế và sì sụp bái lạy, cúng tế  Mã Viện. Như  đã làm ở Đông Hưng ngày 21/3/2010.. Và  TC thu hình  dưa lên mạng phổ biên toàn cầu.

Cay đắng hơn nữa, TC qua VN tổ chức viếng mộ quân Tàu chết trong  cuộc chiến tranh  biên giới  do Đặng tiểu Bình dạy cho VN một bài học. Nhà cầm quyền trung ương và địa phương của CS Hà nội ra lịnh cho ban ngành, ủy ban phải đứng ra tiếp rước, tổ chức giúp TC và dự lễ tưởng niệm những người đã bắn giết quân dân VN.


“Truyền hình Việt Nam chiếu phim Trung Quốc chiếm đại đa số thời lượng phim. Hàng hóa tiêu dùng trong toàn xã hội từ cây đinh cho tới chiếc máy cày đều là sản phẩm Trung Quốc. Nhà nước vô tư treo tranh cổ động cho Quân đội nhân dân Việt Nam cũng sử dụng hình ảnh từ quân đội Tàu, tất cả những yếu tố này gộp lại vẽ nên một xã hội Việt Nam hôm nay không còn thuần Việt nữa.”
Theo Gs Tương Lai, “Vẫn biết những hình ảnh này không thể ngày một ngày hai làm cho lịch sử thay đổi, thế nhưng dưới âm mưu "mưa dầm thấm đất". Nhưng “Khi nhìn tấm gương Tây Tạng và Tân Cương người Việt Nam không thể không lo lắng. Hai dân tộc này có tiếng nói, chữ viết, văn hóa và cương vực hoàn toàn khác Trung Hoa thời cổ đại cũng như Trung Quốc ngày nay. Thế nhưng vì ở sát nách họ mà hai quốc gia này cam chịu mất nước.”  (Vi Anh)

Suy nghĩ từ sự kiện bộ phim ‘Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long’
Song Chi

Mấy hôm nay tôi đọc những bài báo và dư luận ở trong nước xung quanh bộ phim truyền hình nhiều tập “Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long”. Và tôi cũng xem được cái trailer quảng cáo của bộ phim. Tôi không muốn nói gì về nội dung và chất lượng nghệ thuật của bộ phim này, thứ nhất vì mới chỉ xem được cái trailer (mặc dù chỉ cần như thế cũng đã thấy được cái bản sắc văn hóa Trung Hoa bao trùm và đây rõ ràng là một bộ phim Tàu nói tiếng Việt không sai), hơn nữa, nhiều người đã có những nhận xét rất chính xác về bộ phim này rồi. Sự bất bình, phẫn nộ của dư luận là hoàn toàn đúng. Ðiều tôi muốn nói, là chúng ta thấy gì qua câu chuyện này?

Sự lệ thuộc về văn hóa-không phải đến bây giờ mới xảy ra!

Nhiều người nói đến sự lệ thuộc về văn hóa hay nô dịch về văn hóa trong bộ phim “Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long”. Nhưng nghĩ cho cùng, ai đã tiếp tay cho văn hóa Trung Quốc nói chung và phim ảnh Trung Quốc nói riêng tràn vào Việt Nam lâu nay? Suốt cả một thời gian dài, trên hầu hết các kênh truyền hình của Việt Nam tràn ngập phim Trung Quốc -hết phim dã sử, lịch sử đến phim tình cảm, hình sự, điều tra phá án... Bật qua kênh nào cũng là phim... Tàu. Bên cạnh đó là phim Hàn Quốc. Hết chiếu phim Trung Quốc, Hàn Quốc, các hãng, đài lại đua nhau làm phim theo công nghệ Hàn Quốc, kịch bản phim Trung Quốc, Hàn Quốc...

Thực tế là mấy năm gần đây do tình hình phim truyền hình Việt Nam sản xuất ồ ạt, kịch bản nhiều khi kiếm người viết không xuể, và lại lâu nữa, thế là để cho nhanh, người ta mua lại những kịch bản phim truyền hình của Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan... và dịch ra, cho một người hoặc một nhóm biên kịch chế biến xào nấu một chút gọi là “Việt hóa”, thế là xong. Phim chiếu ra, từ câu chuyện cho đến tính cách, ngôn ngữ của nhân vật, mặc dù đã cố gắng gia công “Việt hóa” nhưng vẫn như chuyện của nước khác.

Cho đến nay, có khoảng trên 20 bộ phim Việt Nam được Việt hóa từ kịch bản nước ngoài như “Lẵng hoa tình yêu”, “Vòng xoáy tình yêu”, “Bà mẹ nhí”, “Cô gái xấu xí”, “Những người độc thân vui vẻ”, “Hoa dã quỳ”, “Gia đình phép thuật”, “Có lẽ nào ta yêu nhau”, “Ngôi nhà hạnh phúc”, “Anh em nhà bác sĩ”... Chiếm gần một nửa trong số đó là kịch bản phim Hàn Quốc, và có những phim đã được sản xuất từ cả chục năm trước, cũng đã được chiếu ở Việt Nam nhiều lần, như “Anh em nhà bác sĩ” chẳng hạn. Những bộ phim đó thực chất cũng là “phim Hàn nói tiếng Việt” thôi. Chưa kể những bộ phim hoàn toàn do người Việt thực hiện từ kịch bản, đạo diễn... nhưng cũng ảnh hưởng mô típ phim truyền hình Hàn Quốc đầy nước mắt với những bi kịch gia đình, tình yêu trắc trở, bệnh ung thư gây chia lìa...




Một cảnh trong phim “Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long.”

Vậy thì không phải đến “Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long” sự lệ thuộc về văn hóa nước ngoài mới diễn ra. Chỉ có điều, trong trường hợp của bộ phim “Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long”, ai cũng biết, sở dĩ dư luận sôi sục, bất bình, phẫn nộ bởi vì đây là phim lịch sử, lại được làm với mục đích kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, vậy mà lại do... người Trung Quốc thực hiện, từ kịch bản đến đạo diễn, chuyên viên hóa trang, diễn viên đóng thế, diễn viên quần chúng... bối cảnh thì thuê ở phim trường của Trung Quốc, phục trang, đạo cụ... cũng của Trung Quốc!


Tâm lý cứ làm, bất chấp lời cảnh báo rồi có gì tính sau!


Ðiều đáng nói ở đây là tại sao những người có trách nhiệm, những người quản lý phía Việt Nam lại không giám sát thật kỹ khâu kịch bản ngay từ đầu, và khi thấy nhà sản xuất-công ty cổ phần truyền hình Trường Thành, mời cả một êkíp làm phim người Trung Quốc và kéo nhau sang Trung Quốc thuê bối cảnh thì không có ý kiến ngay, để bây giờ phim xong rồi Hội đồng duyệt phim quốc gia mới bảo là “yếu tố Trung Hoa rõ quá” (theo báo Người Lao Ðộng) và bắt phải sửa lại? Ai ở trong nghề cũng biết rằng khi phim đã hoàn tất, cắt sửa một phân đoạn thôi đã là việc không đơn giản, thà bỏ đi quay lại còn dễ hơn. Huống hồ ở đây cả bộ phim từ đầu đến cuối đậm đặc bản sắc Trung Hoa như thế, “Việt hóa” lại cách nào?

Những người làm phim cũng chỉ có thể chỉnh sửa sơ sơ, ví dụ chỉnh những câu thoại không phù hợp, bỏ đi một số cảnh đông diễn viên quần chúng người Trung Quốc, hoặc vài cảnh rộng cho thấy bối cảnh Trung Hoa rõ nét và quá quen thuộc, dễ nhận ra là... ở bên Tàu, v.v... Và nếu dư luận nguôi nguôi, hoặc một thời gian sau quên đi thì dám chắc bộ phim cũng sẽ được cho chiếu như thường. Ở Việt Nam là thế, nhiều sai phạm cực kỳ nghiêm trọng, nặng nề trong nhiều lĩnh vực khác nhau, người ta còn cứ cho qua nữa là một bộ phim! Còn nếu không phát sóng rộng rãi được trong nước thì nhà sản xuất in sang thành DVD, bán ra nước ngoài hoặc bán lại cho các đài truyền hình các nước khác, tìm cách thu hồi vốn, còn các nước khác làm sao mà biết được phim này không đúng với lịch sử, bản sắc văn hóa Việt, hoặc nhiều khi lại tưởng văn hóa Việt giống Trung Hoa đến thế!

Có người sẽ nói, có thể vì bộ phim “Lý Công Uẩn-Ðường đến thành Thăng Long” là do tư nhân sản xuất nên về phía nhà nước, phần biên tập, kiểm soát ngay từ đầu có phần lơi lỏng hơn? Có thể là như vậy nhưng đó là với những bộ phim truyện đề tài đương đại, tình cảm xã hội, (bởi vì trong quan điểm của các vị lãnh đạo văn hóa ở Việt Nam, miễn là nội dung tác phẩm đừng có dính dáng gì đến chính trị, đến những vấn đề “nhạy cảm” mà đảng và nhà nước rất kỵ như tự do dân chủ, nhân quyền, bất công xã hội, đời sống thật của công nhân, nông dân, dân nghèo cho đến sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải... còn lại, đề tài gì, hay dở, nhảm nhí, phản thẩm mỹ, phản văn hóa... ra sao cũng cho qua).

Còn với phim lịch sử, lại làm nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội như thế này thì không thể cẩu thả, cho dù là phim tư nhân hay phim nhà nước. Chưa kể, đang có những thông tin rằng trong bộ phim này, phía Trung Quốc bỏ ra 50 tỷ để đầu tư, chuyện này có thể xem như một sự vô tình không, hay cũng nằm trong ý đồ quảng bá văn hóa Trung Quốc của nước này, mà phía Việt Nam thì các quan chức có trách nhiệm từ trên xuống dưới cứ thấy tiền là gật?

Tôi có cảm giác rằng trong mọi lĩnh vực từ kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật cho đến an ninh quốc phòng, đối ngoại... những người có trách nhiệm cao nhất ở Việt Nam từ lâu nay dường như hay có thói quen... coi thường dư luận, coi thường những lời cảnh báo của những nhà chuyên môn, trí thức cho đến người dân thường có lòng với đất nước. Có khá nhiều chuyện đã được dư luận lên tiếng cảnh báo, góp ý ngay từ đầu nhưng những người lãnh đạo chẳng thèm nghe (mà sự vỡ nợ của Vinashin chẳng hạn là một ví dụ gần đây nhất, trong lĩnh vực kinh tế).

Trong chuyện làm phim về lịch sử, ngay từ đầu khi các hãng đua nhau đưa ra những dự án phim truyền hình, phim nhựa... nhằm kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, nhiều ý kiến của các nhà lịch sử, người trong nghề cũng đã tỏ ý lo ngại rằng trong điều kiện làm phim ở Việt Nam hiện nay, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn từ việc không có phim trường (mà sử dụng bối cảnh thiên nhiên có sẵn thì cũng hiện đại hóa nhiều, thay đổi nhiều theo thời gian), khó khăn về nguồn tư liệu lịch sử trong việc dàn dựng bối cảnh, thiết kế phục trang, đạo cụ... cho đến kinh nghiệm làm phim lịch sử...

Do vậy, việc làm phim lịch sử phải hết sức cẩn trọng, cần phải theo dõi, giám sát kỹ lưỡng; những người làm phim không thể cứ thấy có tiền là làm cho bằng được, bất kể tiền đó từ đâu (từ ngân sách của nhà nước tức tiền thuế của nhân dân hay từ tiền của... nước lạ), còn những người chịu trách nhiệm biên tập, giám sát... khi “tiền trách nhiệm” đã bỏ vào túi rồi thì mặc cho những người thực hiện muốn chế biến, xào nấu ra sao thì ra, đến khi phim đã làm xong, hậu quả tai hại, dư luận lên tiếng thì mới tìm cách sửa chữa, là sửa bằng cách nào?



Thăng Long tứ trấn & tứ quán

Каталог: groups -> 28488987
groups -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
groups -> Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
28488987 -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
28488987 -> Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ

tải về 0.65 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương