NHỮng nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác lênin


Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất



tải về 0.74 Mb.
trang7/9
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích0.74 Mb.
#24959
1   2   3   4   5   6   7   8   9

2. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất

2.1. Cạnh tranh nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi hơn trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

- Biện pháp cạnh tranh là thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của chúng

- Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị thị trường (giá trị xã hội) của từng loại hàng hoá.

Giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất trong một khu vực sản xuất nào đó hay giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất trong điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm của khu vực này

2.2. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân

- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn tức là tìm nơi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

- Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.

- Kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.



BẢNG VỀ SỰ CẠNH TRANH TRONG NỘI BỘ NGÀNH VÀ

SỰ HÌNH THÀNH TỶ SUẤT LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN

Ngành

sản xuất

Chi phí

sản xuất



m'

(%)

m

P’

(%)

Cơ khí

80c +20v

4/1

100

20

20

Dệt

70c + 30v

7/3

100

30

30

Da

60c +40v

3/2

100

40

40

- Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên P’ khác nhau. Do đó, nhà tư bản sẽ không bằng lòng ở những ngành có P' thấp, họ sẽ chuyển vốn sang ngành có P' cao để có lợi nhuận nhiều hơn. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng khi P’ của tất cả các ngành xấp xỉ bằng nhau. Kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.

- Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ suất tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất TBCN.

Ký hiệu:



Khi hình thành thì lợi nhuận của tất các ngành đều tính theo nó. Do vậy, cùng một lượng tư bản thì dù đầu tư vào ngành nào cũng thu được lợi nhuận xấp xỉ nhau, gọi là lợi nhuận bình quân

- Lợi nhuận bình quân là lượng lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào những ngành khác nhau bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào. Kí hiệu :



= x k

- Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che giấu thực chất bóc lột của CNTB vì bất cứ tư bản đầu tư vào ngành nào cũng thu được lợi nhuận ngang nhau, nó không quan hệ đến khối lượng m do lao động làm thuê tạo ra, làm cho người ta lầm tưởng rằng tư bản sinh ra lợi nhuận. Thực chất, lợi nhuận bình quân làm được phân phối lại giữa các ngành sản xuất dưới tác động của cạnh tranh.



3. Sự chuyển hoá của giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất - Cùng với sự hình thành và P’ thì giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất

Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân giá cả sản xuất )

- Tiền đề cho sự hình thành giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả hàng hoá là nền đại công nghiệp cơ khí TBCN phát triển; sự phát triển rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.

- Khi giá cả sản xuất hình thành thì giá cả hàng hoá sẽ không xoay quanh giá trị hàng hoá mà xoay quanh giá cả sản xuất .



4. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các giai cấp bóc lột trong CNTB

4.1.Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp

* Tư bản thương nghiệp dưới CNTB

- Trong CNTB, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá

- Công thức vận động của tư bản thương nghiệp: T - H - T’

- Tư bản thương nghiệp ra đời và phát triển làm cho lưu thông hàng hoá phát triển, thị trường được mở rộng, hàng hoá lưu thông nhanh hơn, từ đó thúc đẩy tư bản sản xuất phát triển



* Lợi nhuận thương nghiệp

- Trước CNTB lợi nhuận thương nghiệp được coi là do mua rẻ bán đắt mà có. Trong CNTB, nếu nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp do mua rẻ bán đắt, do lưu thông tạo ra.

- Thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp để nhà tư bản thương nghiệp bán hàng cho

Tại sao nhà tư bản công nghiệp lại nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần m?

+ Doanh nghiệp thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, đó là một khâu quan trọng của quá trình sản xuất. Nếu không có giai đoạn này thì quá trình tái sản xuất không thể diễn ra liên tục được. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực này nếu không có lợi nhuận thì doanh nghiệp thương nghiệp sẽ không đảm nhận

+ Doanh nghiệp thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất

+ Góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển

+ Nhờ có doanh nghiệp thương nghiệp mà doanh nghiệp sản xuất không phải kinh doanh trên cả hai lĩnh vực là sản xuất và lưu thông nên họ chỉ tập trung vào sản xuất. Nhờ đó, vốn sản xuất sẽ chu chuyển nhanh hơn, thu được lợi nhuận nhiều hơn

+ Góp phần làm tăng NSLĐ, tăng lợi nhuận, từ đó làm tăng phần tích luỹ cho tư bản công nghiệp.

- Nhà tư bản thương nghiệp thu được lợi nhuận thương nghiệp từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Nhưng không phải họ bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó mà nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá từ nhà tư bản công nghiệp với giá thấp hơn giá trị sau đó bán cho người cho người tiêu dùng đúng giá trị.



Ví dụ

Giả sử nhà TBCN có số tư bản là 900$ để sản xuất hàng bao gồm 720c + 180v

Nếu m' = 100% thì W = 720c + 180v + 180m = 1080 $


  • P'cn = = 20%

Để bán số hàng hoá trên thì TBCN phải ứng thêm tiền để làm chi phí lưu thông. Giả sử chi phí đó là 100$ thì:

P'cn = = 18% ( trường hợp này TBCN phải làm tất cả).

Khi TBTN đứng ra đảm nhận chức năng lưu thông thay cho TBCN (họ ứng tiền ra làm chi phí lưu thông). Do đó, TBCN sẽ bán hàng hoá cho TBTN theo giá bán buôn xí nghiệp hay còn gọi là giá cả sản xuất công nghiệp (thấp hơn giá trị của nó) với mức giá: 720c + 180v +180m – 18% x 100 = 1062$


  • P'cn = = 18%

Đến lượt TBTN bán hàng hoá theo đúng giá trị bao gồm:

720c +180v +162Pcn + 18 Ptn = 1080

=> P’tn = = 18%

=> P’cn = P’tn = 18%



4.2. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay

* Tư bản cho vay dưới CNTB

- Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ của nó nhường cho người khác sử dụng một thời gian nhất định để nhận được số tiền lời nào đó. Số tiền lời này gọi là lợi tức, ký hiệu là z.

- Đặc điểm của TBCV:

+ Quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản

+ Là hàng hoá đặc biệt: TBCV cũng có giá trị và GTSD nhưng người bán không mất quyền sở hữu; người mua khi sử dụng thì giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên

+ Tư bản cho vay vận động theo công thức: T - T’ (T’ = T + z) làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền sinh ra tiền. Do vậy đã che giấu được quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.



* Lợi tức và tỷ suất lợi tức

- Lợi tức:

+ Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào số tư bản mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Ký hiệu là z

+ Nguồn gốc của z là một phần m do người công nhân làm thuê tạo ra trong lĩnh vực sản xuất => tư bản cho vay gián tiếp bóc lột công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản đi vay.

+ Giới hạn của lợi tức trong khoảng: 0 < z <

- Tỷ suất lợi tức:

+ Tỷ suất lợi tức là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay (thường tính theo quý, tháng, năm). Ký hiệu là z’

K: Tổng tư bản cho vay

- Giới hạn của tỷ suất lợi tức: 0 < z' <

- Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các nhân tố sau:

+ Tỷ suất lợi nhuận bình quân

+ Tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và lợi nhuận của nhà tư bản hoạt động

+ Quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.



4.3. Quan hệ tín dụng TBCN. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

* Quan hệ tín dụng TBCN

- Tín dụng thương nghiệp là tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hoá với nhau.

(Trong tín dụng thương nghiệp thì mỗi nhà tư bản vừa là người cho vay, vừa là người đi vay)

- Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua qua ngân hàng làm môi giới.

(Đây là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội)

* Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

- Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay.

- Ngân hàng có 2 nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay. Ngoài ra ngân hàng còn đóng vai trò thủ quỹ cho xã hội: quản lý tiền mặt, phát hành tiền giấy, làm trung tâm thanh toán cho xã hội

- Lợi nhuận ngân hàng là khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gởi trừ đi các khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền tệ.



Phân biệt tư bản cho vay và tư bản ngân hàng

TB ngân hàng có đặc điểm khác căn bản so với TBCV:

- TBCV là tư bản tiềm thế, tư bản không hoạt động; còn tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, tư bản chức năng. Vì là tư bản không hoạt động, nên TBCV chỉ thu được lợi tức, còn tư bản ngân hàng thu được lợi nhuận bình quân.

- TBCV chỉ bao gồm tư bản nhàn rỗi, còn tư bản ngân hàng ngoài các tư bản nhàn rỗi còn có các kim loại quý, các chứng khoán có giá. Nguồn vốn ngân hàng gồm tư bản tiền tệ của chủ ngân hàng, tư bản tiền tệ của các nhà TBCN còn để ở dạng quỹ khấu hao, tiền tiết kiệm của dân cư...



4.4. Công ty cổ phần. Tư bản giả và thị trường chứng khoán

* Công ty cổ phần

- Công ty cổ phần là một xí nghiệp lớn mà vốn của nó được hình thành từ sự đóng góp của nhiều người thông qua phát hành cổ phiếu.

- Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá do công ty cổ phần phát hành ghi nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (còn gọi là cổ đông), đồng thời đảm bảo cho cổ đông có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty (cổ tức) căn cứ vào giá trị cổ phần và tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.

- Cổ phiếu được mua bán trên thị trường chứng khoán theo thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu được xác định tương đương với một số tiền nếu đem gửi vào ngân hàng thì căn cứ theo tỷ suất lợi tức tiền gửi hiện hành thì cũng mang lại một khoản lợi tức tương đương mức lợi tức.

- Thị giá cổ phiếu phụ thuộc vào:

+ Mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại

+ Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng.

* Tư bản giả

- Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và mang lại thu nhập cho người sở hữu chứng khoán đó.

- Đặc điểm tư bản giả:

+ Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó.

+ Có thể mua bán được.

+ Tư bản giả không có giá trị, nó có thể tăng hay giảm mà không cần đến sự thay đổi tương đương của tư bản thật



* Thị trường chứng khoán:

- Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán

- Thị trường chứng khoán được phân thành 2 cấp độ:

+ Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán trong lần phát hành đấu tiên

+ Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán và thường được thực hiện thông qua các sở giao dịch chứng khoán

4.5. Quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp và địa tô TBCN

* Sự hình thành QHSX TBCN trong nông nghiệp

- Quan hệ sản xuất TBCN hình thành trong nông nghiệp theo hai con đường:

+ Dần dần chuyển nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh thời phương thức sản xuất TBCN sử dụng lao động làm thuê.

+ Thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xoá bỏ chế độ canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển TBCN trong nông nghiệp

- Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp là chế độ độc quyền ruộng đất.

- Khi quan hệ sản xuất TBCN được hình thành trong nông nghiệp thì trong nông nghiệp TBCN có 3 giai cấp cơ bản

+ Giai cấp địa chủ: người sở hữu ruộng.

+ Giai cấp các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp: các nhà tư bản thuê ruộng đất để kinh doanh.

+ Giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê.

* Bản chất của địa tô TBCN

- Địa tô TBCN là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (tức bộ phận GTTD sau khi trừ đi phần lợi nhuận bình quân của các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp) và do nhà tư bản thuê đất nộp cho người sở hữu ruộng đất.

- Phân biệt địa tô TBCN và địa tô phong kiến:

+ Giống nhau: đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu ruộng đất; cả 2 loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với người lao động nông nghiệp.

+ Khác nhau:

 Về chất: địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp: địa chủ và nông dân (giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân), còn địa tô TBCN phản ánh mối quan hệ giữa ba giai cấp:Giai cấp địa chủ, giai cấp các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp, giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê (trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân thông qua tư bản kinh doanh nông nghiệp).

Về lượng: Địa tô phong kiến gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra, đôi khi còn lấn sang cả sản phẩm cần thiết. Còn địa tô TBCN chỉ là 1 phần của sản phẩm thặng dư dôi ra ngoài phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.



* Các hình thức địa tô TBCN

Địa tô chênh lệch

- Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai, vị trí gần thị trường, gần đường hơn, ruộng đất được đầu tư để thâm canh ). Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xuất nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.

Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung - Giá cả sản xuất cá biệt

- Thực chất của địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của nó là một phần giá trị thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Nó gắn liền với chế độ độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối TBCN.

- Có 2 loại địa tô chênh lệch:

+ Địa tô chênh lệch I: là địa tô chênh lệch thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên tốt và trung bình, có vị trí gần thị trường hoặc gần đường giao thông

+ Địa tô chênh lệch II: là địa tô chênh lệch thu được nhờ thâm canh mà có

Địa tô tuyệt đối

- Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất chung.

- Phân biệt địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối.

+ Giống nhau: đều là lợi nhuận siêu ngạch, có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đều là kết quả của sự chiếm đoạt lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê.

+ Khác nhau: độc quyền ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch. Độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối.



* Giá cả ruộng đất

- Giá cả ruộng đất là giá mua quyền thu địa tô do ruộng đất mang lại theo tỷ suất lợi tức hiện hành

Vd: Một mảnh đất hàng năm đem lại địa tô là 200$. Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng là 5%, thì giá cả mảnh đất sẽ là: 200 x 100:5 = 4000$

Chương VI

HỌC THUYẾT KINH TẾ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

I.Chủ nghĩa tư bản độc quyền

1. Sự chuyển biến của Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do thành chủ nghĩa tư bản độc quyền

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Do sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.

- Những tiến bộ khoa học kỹ thuật làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn, mặt khác nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

- Do sự tác động của các quy luật kinh tế của CNTB như quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư…. Ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất qui mô lớn.

- Cạnh tranh khốc liệt tác động mạnh đến quá trình tích luỹ và tập trung, để chiến thắng trong cạnh tranh, các tư bản nhỏ và vừa phải liên kết nhau lại (tập trung sản xuất).

- Hậu quả của khủng hoảng kinh tế 1873 làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh quá trình tập trung sản xuất.

- Sự phát triển của hệ thống tín dụng TBCN trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất nhất là sự hình thành các công ty cổ phần tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.



2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền

2.1. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

- Tổ chức độc quyền: là tổ chức liên minh giữa các tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. dưới các hình thức độc quyền cơ bản là: Cácten, xanhđica, tờ rớt.

+ Cácten hình thức tổ chức không bền vững chỉ thoả thuận với nhau những hiệp định về giá. Còn việc sản xuất và lưu thông vẫn do mỗi doanh nghiệp tự đảm nhiệm.

+ Xanhđica tổ chức cao và bền vững hơn, việc mua bán do một ban quản trị chung đảm nhiệm. Nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành viên.

+ Tờrớt tổ chức có quy mô cao nhất, có sự thống nhất cả sản xuất và lưu thông do một ban quản trị chung đảm nhiệm, các thành viên trở thành các cổ đông.

+ Công-xoóc-xi-om là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia trong này có cả các xí nghiệp lớn và cả những Xanhđica, Tờrớt...thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về mặt kinh tế và kỹ thuật….

Nhờ độc quyền một số ngành sản xuất quan trọng, các tổ chức độc quyền định giá cả hàng hoá (độc quyền bán cao, độc quyền mua thấp)

2.2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

- Cùng quá trình tích tụ tập trung trong sản xuất, trong ngân hàng cũng diễn ra hiện tượng tích tụ tập trung tư bản. Kết quả của quá trình này là các ngân hàng lớn thôn tính các ngân hàng vừa và nhỏ, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Từ chỗ là trung tâm môi giới thanh toán xã hội, ngân hàng trở thành tổ chức độc quyền có thế lực vạn năng chi phối mọi hoạt động kinh tế xã hội của quốc gia.

- Quan hệ tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng cũng khác trước: do có việc nhận gởi và vay những món tiền khổng lồ nên lợi ích của chúng xoắn sít vào nhau: tìm cách xâm nhập vào nhau, cử người vào ban đại diện của nhau: Từ đó hình thành loại tư bản mới đó là tư bản tài chính.

- Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến việc hình thành một nhóm chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính.



2.3. Xuất khẩu tư bản

Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, đặc trưng cơ bản là xuất khẩu hàng hoá (đưa hàng hoá ra nước ngoài thực hiện giá trị và giá trị thặng dư), sang giai đoạn CNTB độc quyền đặc trưng cơ bản là xuất khẩu tư bản.

- Xuất khẩu tư tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài(đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

- Nguyên nhân là do sợ khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa trong nước, mặt khác đưa tư bản ra nước ngoài đầu tư thường có nhiều lợi thế hơn, vì vậy lợi nhuận sẽ cao hơn đầu tư trong nước.

- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, bởi vì:

+ Một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản thừa tương đối cần tìm nơi đầu tư để thu được nhiều lợi nhuận hơn

+ Các nước lạc hậu bị cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản

- Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp (xuất khẩu tư bản hoạt động) và đầu tư gián tiếp (xuất khẩu tư bản cho vay).

+ Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng các xí nghiệp mới hoặc mua lại các xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn của công ty nước ngoài.

+ Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Đó là hình thức xuất khẩu tư bản cho vay.

- Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước:

+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư nhân thực hiện



2.4. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

Việc xuất khẩu tư bản càng mở rộng tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới về kinh tế, tức là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, thị trường tiêu thụ hàng hoá…. và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.



2.5. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

- Các cường quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa để mở rộng lãnh thổ. Bởi vì thuộc địa là nơi đảm bảo nguồn nguyên liệu, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh.

- Nhưng do sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đồng đều của CNTB tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi phân chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh tế giới lần thứ nhất 1914-1918 và lần thức hai 1939-1945.



tải về 0.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương