NHỮng nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác lênin


III.Tiền tệ 1. Lịch sử phát triển các hình thái giá trị và bản chất của tiền tệ



tải về 0.74 Mb.
trang5/9
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích0.74 Mb.
#24959
1   2   3   4   5   6   7   8   9

III.Tiền tệ

1. Lịch sử phát triển các hình thái giá trị và bản chất của tiền tệ

1.1. Lịch sử phát triển các hình thái giá trị

* Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên

- Đây là hình thái phôi thai của giá trị, xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.

Vd: 1 m vải = 10 kg thóc

Giá trị của vải được biểu hiện ở hàng hoá thóc, còn thóc được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Bản thân vải nếu đứng một mình thì không biểu hiện được giá trị của nó. Muốn biết được phải đem so sánh với 10kg thóc. Do đó hình thái giá trị của 1m vải là hình thái tương đối. Còn hàng hoá thóc không biểu thị được giá trị của nó trong mối quan hệ với vải, nó chỉ biểu hiện giá trị của vải nên gọi là hình thái vật ngang giá.

- Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên quan với nhau, không thể tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập nhau trong phương trình trao đổi.

- Đặc điểm của hình thái vật ngang giá:

+ Giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị

+ Lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện của lao động trừu tượng

+ Lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện của lao động xã hội.

 Trong hình thái này, giá trị của một hàng hoá chỉ được phát hiện ở một hàng hoá nhất định khác với nó, chứ không biểu hiện ở mọi hàng hoá khác.



* Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng

1 m vải = 10 kg thóc hoặc

= 1 con cừu hoặc

= 0,1 gr vàng hoặc

= .………….

- Khi LLSX và phân công lao động phát triển hơn (chăn nuôi tách khỏi trồng trọt) sản phẩm đem ra trao đổi nhiều hơn, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác. Do vậy, giá trị của một hàng hoá này được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá.



* Hình thái chung của giá trị

10 kg thóc

1
= 1 m vải
con cừu

0,1 gr vàng

.………..

- Khi LLSX và phân công lao động phát triển cao hơn thì trao đổi trực tiếp không còn phù hợp, sự phát triển của trao đổi đòi hỏi phải hình thành vật ngang giá chung. Trong hình thái này, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hoá đóng vai trò làm vật ngang giá chung.



- Tuy nhiên vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hoá nào, các địa phương khác nhau thì có vật ngang giá chung khác nhau.

* Hình thái tiền tệ

15 m vải

10 kg thóc = 0,1 gr vàng = vật ngang giá chung

….… (Vàng trở thành tiền tệ)

- Khi LLSX và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, thị trường ngày càng mở rộng, đòi hỏi phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định ở một hàng hoá độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị xuất hiện.

- Ban đầu có nhiều kim loại đóng vai trò làm tiền tệ nhưng về sau cố định lại là vàng.

- Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi tiền tệ ra đời làm cho thế giới hàng hoá phân thành hai cực: một bên là những hàng hoá thông thường còn một bên là hàng hoá vàng đóng vai trò làm vật ngang giá.



1.2. Bản chất của tiền tệ

- Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra từ thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung, thống nhất cho các hàng hoá khác; biểu hiện lao động xã hội và quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.



2. Các chức năng của tiền tệ

2.1. Thước đo giá trị

- Làm chức năng thước đo giá trị tiền được dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hoá. Muốn vậy, bản thân tiền phải có giá trị (tức là tiền vàng).

- Giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả của hàng hoá. Giá cả của hàng hoá phụ thuộc vào các yếu tố: giá trị hàng hoá, giá trị của tiền, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường.

- Để làm được chức năng này thì bản thân tiền tệ phải được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá trị của hàng hoá .



2.2. Phương tiện lưu thông

- Tiền làm phương tiện lưu thông tức là làm môi giới trong trao đổi. Để làm chức năng này cần phải có tiền mặt.

- Tiền là hình thức biểu hiện của hàng hoá, nó phục vụ cho sự vận động của hàng hoá. Lưu thông hàng hoá và lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ là hai mặt của một quá trình thống nhất với nhau.

- Trong lưu thông, tiền tệ lúc đầu xuất hiện dưới hình thái vàng thoi, bạc nén, dần dần chuyển sang tiền đúc, tiền đúc bị hao mòn dần, bị mất một phần giá trị nhưng vẫn được chấp nhận như tiền đủ giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát.

2.3. Phương tiện thanh toán

- Làm phương tiện thanh toán tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng...

- Tiền làm phương tiện thanh toán dẫn đến sự xuất hiện của hình thức thanh toán khấu trừ không dùng tiền mặt. Do đó, nó ảnh hưởng tới lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Mặt khác, phát triển hình thức nợ dây chuyền làm tăng khả năng khủng hoảng kinh tế trong sản xuất hàng hoá

2.4. Phương tiện cất trữ

Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông và đem vào cất trữ. Sở dĩ, tiền làm được chức năng này là vì tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thức giá trị nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.



2.5. Tiền tệ thế giới

- Khi trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị hay tiền tín dụng phải được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.

- Thực hiện chức năng này, tiền được sử dụng làm phương tiện mua hàng và thanh toán quốc tế.

IV. Quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá tức là ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.



  1. Nội dung của quy luật giá trị

- Theo quy luật giá trị thì: “sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết”

+ Đối với sản xuất: người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt phù hợp với mức hao phí lao động xã hội. Đối với lưu thông, nó yêu cầu việc trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết và theo nguyên tắc ngang giá.

+ Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động giá cả hàng hoá. Hàng hoá nào giá trị lớn thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại

Ngoài ra, giá cả hàng hoá còn chịu ảnh hưởng của cạnh tranh, quan hệ cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá tách rời với giá trị hàng hoá và lên xuống xoay quanh trục giá trị hàng hoá.



  1. Tác dụng của quy luật giá trị

2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá

- Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.

- Điều tiết lưu thông hàng hoá tức là thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường, thu hút luồng hàng từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cao, làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.

2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, LLSX xã hội phát triển nhanh

Trong nền sản xuất hàng hoá, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt càng thấp hơn hao phí lao động xã hội thì càng thu được nhiều lợi nhuận. Để mức hao phí lao động cá biệt thấp họ phải quan tâm đến việc cải tiến kỹ thuật sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề, giảm chi phí sản xuất, sử dụng lao động có hiệu quả, cải tiến tổ chức quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động… Từ đó thúc đẩy LLSX phát triển.



2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành người giàu, kẻ nghèo

Trong nền sản xuất hàng hoá người nào có điều kiện thuận lợi, có trình độ trang bị kỹ thuật tốt và gặp may mắn trong kinh doanh họ trở nên giàu có. Ngược lại một bộ phận người sản xuất khác do điều kiện sản xuất không thuận lợi hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh có thể bị phá sản trở thành người nghèo khó.



Chương V

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

I. Sự chuyển hoá tiền thành tư bản

1. Công thức chung của tư bản

- Tiền được coi là tiền thông thường thì vận động theo công thức H - T - H. Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức T - H -T.

- So sánh hai công thức trên, ta thấy:

+ Điểm giống nhau của chúng là đều được cấu thành bởi hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.

+ Điểm khác nhau giữa hai công thức:



Lưu thông hàng hoá giản đơn

H - T - H

Lưu thông của tư bản

T - H - T’

@ Điểm mở đầu và điểm kết thúc

  • Bắt đầu bằng việc bán, kết thúc bằng việc mua

  • Điểm mở đầu và kết thúc đều là H, T đóng vai trò trung gian



  • Bắt đầu bằng việc mua, kết thúc bằng việc bán

  • Điểm mở đầu và kết thúc là T, H đóng vai trò trung gian

@ Mục đích

- Nhằm vào giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu nên hàng hoá trao đổi có giá trị sử dụng khác nhau. Người có tiền sẽ mua được giá trị sử dụng như ý muốn





  • Nhằm vào giá trị nhưng không phải giá trị được bảo tồn mà là giá trị tăng thêm. T- H - T’ (T’ = T + T)

@ Giới hạn của sự vận động.

- Kết thúc ở giai đoạn 2, khi người có tiền mua được giá trị sử dụng như ý muốn.





  • Sự vận động không có giới hạn vì mục đích lưu thông của tư bản là sự lớn lên của giá trị, giá trị thặng dư.

- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là GTTD nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn

=> C. Mác gọi công thức T - H - T’ là công thức chung của tư bản vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó.



2. Mâu thuẫn công thức chung của tư bản

- Các nhà kinh tế học tư sản cố tình chứng minh rằng quá trình lưu thông tạo ra GTTD nhằm mục đích che giấu nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản

- Thực ra trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không có GTTD.

+ Nếu trao đổi ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị trong tay mỗi người trước sau vẫn không thay đổi. Nhưng về mặt giá trị sử dụng thì cả hai bên cùng có lợi.

+ Trường hợp trao đổi không ngang giá: hàng hoá được bán cao hoặc thấp hơn giá trị thì có người được lợi, có người bị thiệt nhưng tổng giá trị xã hội không thay đổi.

=> Như vậy, nếu người ta trao đổi những vật ngang giá hay không ngang giá thì không sinh ra giá trị thặng dư. Do đó, lưu thông không tạo ra GTTD. Vậy có phải GTTD được tạo ra ngoài lưu thông?

. Nếu người trao đổi đứng một mình với hàng hoá của mình thì GTHH không tăng lên.

. Nếu người sản xuất tạo ra một giá trị mới cho hàng hoá thì phải bằng sức lao động của bản thân họ.

=> Vậy, tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”.

3. Hàng hoá sức lao động

Để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản, phải tìm trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hoá sức lao động. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.



3.1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá

-.Theo C.Mác: “Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực ở trong thân thể mỗi con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.

- Sức lao động chỉ trở thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định. Đó là:

+ Người lao động được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hoá.

+ Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, để tồn tại họ buộc phải bán sức lao động để kiếm sống.

3.2. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động

Giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng bao gồm hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng:

- Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người, muốn sản xuất và tái sản xuất ra nó thì cần phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn nhu cầu của gia đình và con cái họ cũng như nâng cao trình độ của bản thân.

+ Thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt hay giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.

+ Giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:

. Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống công nhân.

. Phí tổn đào tạo công nhân.

. Giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân.

=> Giá trị của hàng hoá sức lao động là những giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ cả về mặt vật chất và tinh thần

+ Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của giá trị sức lao động. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về học tập và trình độ lành nghề đã làm tăng giá trị sức lao động. Mặt khác, sự tăng năng suất lao động xã hội lại làm giảm giá trị sức lao động.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động tức là quá trình lao động của người công nhân. Đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.

=> Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt, là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn công thức chung của tư bản.

II. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong xã hội tư bản

1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư

* Mục đích của nền sản xuất TBCN không phải là GTSD mà là giá trị, GTTD. Nhưng để sản xuất GTTD trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một GTSD nào đó, vì GTSD là vật mang GTTĐ và GTTD.

* Đặc điểm của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa:

- Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản

- Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.

* Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản: Giả định để sản xuất ra 10 kg sợi, nhà tư bản phải:

- Mua 10 kg bông với giá 10$.

- Khấu hao máy móc thiết bị để chuyển 10 kg bông thành sợi là 2$.

- Mua sức lao động của công nhân trong một ngày (8h) là 3 $.

Giả sử, trong 4h đầu tiên công nhân kéo hết 10 kg bông thành sợi, giá trị của sợi là 15$. Nếu quá trình sản xuất dừng ở đây thì chưa có sự xuất hiện giá trị thặng dư.

Tuy nhiên, nhà tư bản mua sức lao động để sử dụng trong 8h; vì vậy trong 4 giờ tiếp theo, người công nhân vẫn phải tiếp tục lao động. Trong 4 giờ này, nhà tư bản chỉ phải bỏ ra 10 $ để mua 10 kg bông và 2 $ khấu hao máy móc. Giá trị của sợi được tạo ra vẫn là 15 $.

Chi phí sản xuất

Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)

- Tiền mua bông (20kg): 20$

- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$

- Tiền hao mòn máy móc: 4$

- Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi: 4$

- Tiền mua sức lao động trong 1 ngày: 3$

- Giá trị mới do người công nhân tạo ra trong 8h lao động: 6$

Tổng cộng: 27$

Tổng cộng: 30$

Kết quả trong một ngày công nhân sẽ tạo ra hàng hoá có giá trị là 30$.

Tổng chi phí nhà tư bản bỏ ra là 27$, phần chênh lệch với giá trị là 3 $ được gọi là giá trị thặng dư.



Từ ví dụ trên ta rút ra kết luận:

- Phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra bao gồm hai phần: giá trị cũ (c) và giá trị mới (v + m)

+ Giá trị cũ là giá trị của tư liệu sản xuất (c): 24 $

+ Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra (v + m): 6$

Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả, được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.

- Ngày lao động của công nhân được chia thành hai phần:

+ Thời gian lao động cần thiết và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động cần thiết.

+ Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.

- Nghiên cứu quá trình sản xuất GTTD, ta thấy mâu thuẫn công thức chung đã được giải quyết: việc chuyển hoá tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông nhưng đồng thời không phải trong lưu thông. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được hàng hoá sức lao động để sử dụng trong sản xuất (ngoài lĩnh vực lưu thông) để sản xuất ra GTTD cho nhà tư bản. Do đó, tiền chuyển hoá thành tư bản.



2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến

2.1. Bản chất của tư bản

- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê.

- Bản chất của tư bản là thể hiện QHSX xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

2.2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

Căn cứ vào vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư, C. Mác đã chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến.

- Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi đại lượng giá trị của nó, được C.Mác gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là C.

- Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên tức là biến đổi về đại lượng, được C. Mác gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là V.



Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết, không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

3.1. Tỷ suất giá trị thặng dư

- Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

m' = x 100%

m' = x 100%

Trong đó: t’: là thời gian lao động thặng dư

t: là thời gian lao động tất yếu

- Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.

3.2. Khối lượng giá trị thặng dư

- Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.

M = m’ x V

Trong đó: M: Khối lượng giá trị thặng dư

m': Tỷ suất giá trị thặng dư

V: Tổng tư bản khả biến được sử dụng để tiến hành sản xuất

- Khối lượng giá trị thặng dư nói lên quy mô bóc lột của nhà tư bản

- Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao động cao hơn.



4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu ngạch

4.1. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi NSLĐ, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi .

- Các nhà tư bản muốn kéo dài ngày lao động cũng không thể vượt quá giới hạn thể chất và tinh thần của người lao động.

4.2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao NSLĐ trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động như cũ.

- Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng NSLĐ trong các ngành sản xuất ra TLSX để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó

=> Hai phương pháp sản xuất GTTD trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của CNTB.



4.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch

- Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

- GTTD siêu ngạch là phần GTTD thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó.

- Xét trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi toàn xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Nó là động lực trực tiếp kích thích, thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, hợp lý hoá sản xuất để giảm giá trị hàng hoá.



* So sánh GTTD tương đối và GTTD siêu ngạch:

- Giống nhau: thu được dựa trên cơ sở tăng NSLĐ

- Khác nhau:

+ GTTD tương đối thu được do tăng NSLĐ xã hội, còn GTTD siêu ngạch thu được dựa trên việc tăng NSLĐ cá biệt.

+ GTTD tương đối do toàn bộ các nhà tư bản thu được - biểu hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ các nhà tư bản với giai cấp công nhân làm thuê, GTTD siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư bản ứng dụng kỹ thuật tiên tiến thu được - không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.



tải về 0.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương