NHÀ ĐẦu tư thông minh "Cuốn sách hay nhất về đầu tư từng được viết cho đến nay"



tải về 3.49 Mb.
trang9/42
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích3.49 Mb.
#3721
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   42
CHƯƠNG 10 Nhà đầu tư và các cô vấn của anh ta Việc đầu tư tiền vào chứng khoán là một hoạt động độc nhất vô nhị trong các hoạt động kinh doanh khác, ở chỗ nó hầu như luôn phải dựa ờ một mức độ nào đó vào sự tư vấn từ những người khác. Phần lớn các nhà đầu tư là người nghiệp dư. Điều tự nhiên là họ cảm thấy rằng trong việc chọn chứng khoán, họ có thể thu lợi thông qua sự hướng dẫn chuyên nghiệp. Thế nhưng có những điều kỳ quặc vốn có nằm ngay trong khái niệm tư vấn đầu tư.

Nếu lý do mà người ta đẳu tư là để kiếm tiền, thì với việc tìm kiếm lời khuyên, họ đang hỏi người khác cách kiếm tiền như thế nào. Ý tưởng đó có phần ngây thơ. Những nhà kinh doanh tìm kiếm sựtưvấn chuyên nghiệp về các yếu tố khác nhau trong kinh doanh, chứ họ không hy vọng được chỉ ra cách kiếm lợi nhuận. Đó là việc của họ. Khi họ, hay những người không kinh doanh khác, dựa vào người khác để tạo ra lợi nhuận đầu tư cho mình, thì họ đang trông mong một kiểu kết quả không có sự tương đương trong các vụ kinh doanh thông thường.

Nếu chúng tôi giả định là có những kết quả thu nhập bình thường hay chuần mực đạt được từ việc đầu tư vào chứng khoán thì vai trò của người cố vấn có thể được tạo lập một cách dễ dàng hơn. Anh ta sẽ sử dụng những kỹ năng đào tạo và kinh nghiệm xuất sắc của mình để bảo vệ các khách hàng của mình khỏi sai lầm và bảo đảm rằng họ nhận được những kết quả tương xứng với số tiền mà họ bỏ ra. Khi mà nhà đầu tư yêu cằu mức sinh lợi cao hơn so với mức sinh lợi trung bình trên số tiền đầu tư của mình, hay khi cố vấn của anh ta cam kết thực hiện tốt hơn cho anh ta, thì sẽ nảy sinh câu hỏi rằng như vậy có phải là đòi hỏi nhiều hơn hay hứa hẹn nhiều hơn những gì tương đối chắc chắn sẽ đạt được.

Lời khuyên về đầu tư có thê’ được lẩy từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: (1) một người thân hoặc người bạn, hẳn là am hiếu về chứng khoán; (2) một ngân hàng (thương mại) địa phương; (3) một công ty môi giới hoặc doanh nghiệp nghiệp vụ ngân hàng đầu tư; (4) một dịch vụ hoặc tập san tài chính; và (5) một nhà tưvẵn đău tư[276]. Tính chất hỗn hợp của danh sách này thể hiện rằng chưa có phương pháp có logic hay có hệ thống nào đã kết tinh trong đău các nhà đầu tư.

Có một số cân nhắc nhẩt định theo lẽ thường tình liên quan đến các tiêu chuần về kết quả bình thường hay chuần mực đã nói ở trên. Giả thiễtcơbản của chúng tôi là: Nếu nhà đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào lời khuyên của người khác trong việc quản lý các quỹ tiền của mình thì anh ta phải giới hạn mình và các cố vấn của mình một cách nghiêm ngặt vào các kiều đầu tư chuần mực, thận trọng, và thậm chí là không mang tính sáng tạo, hoặc anh ta phải có sự hiểu biết rất thân tình và có ích về người sẽ lái các quỹ của mình vào các kênh khác. Nhưng nếu mối quan hệ giữa đầu tư và các cố vấn của anh ta là mối quan hệ \ doanh hay chuyên nghiệp bình thường thì anh có chấp nhận các ý tưởng sáng tạo hơn chỉ đến ch mực mà bản thân anh ta có đủ kiến thức và \ nghiệm và do đó, đủ khả năng đề tự đánh giá I cách độc lập lời khuyên của người khác. Anh ta kh chuyển từ mục nhà đầu tư phòng vệ hoặc kh mạnh bạo thành nhà đầu tư xông xáo hoặc m bạo.

Tư vân đầu tư và các dịch vụ ủy thác của n\ hàng Các cố vấn đầu tư chuyên nghiệp thực sự - tứ những công ty tư vấn đầu tư nổi tiếng, có tính hằng năm khá cao - thường khá khiêm tốn tr những hứa hẹn và khoe khoang của mình. Phần họ đặt tiền của khách hàng mình vào các ch khoán có lãi suất tiêu chuần và có chi trả cổ tức, về dựa chủ yếu vào kinh nghiệm đầu tư bình thường với các kết quả đầu tư tổng thể. Trong trường hợp điển hình, khả năng hơn 10% tổng quỹ tiền từng bao giờ được đầu tư vào các chứng khoán khác ngoài chứng khoán của các công ty hàng đầu, cộng với các trái phiếu chính phủ (kể cả các phát hành của bang và đô thị) là điều đáng ngờ; họ cũng chưa chắc có các nỗ lực nghiêm túc để lợi dụng các đợt xoay chuyển trên thị trường nói chung.

Các công ty tư vấn đầu tư hàng đằu không tự cho mình là tuyệt vời; họ tự hào vì họ cần thận, thận trọng, và khá thành thạo. Mục đích chính của họ là duy trì giá trị vốn qua các năm và tạo ra mức tỷ suất lợi nhuận thận trọng chấp nhận được. Bất cứ thành tích nào vượt ra ngoài điều đó - và họ luôn cố gắng đề làm tốt hơn - về bản chất được họ coi là một dịch vụ thêm. Có lẽ giá trị chủ yếu của họ đối với khách hàng nằm ở việc bảo vệ khách hàng khỏi những sai lầm đắt giá. Họ cung cấp tất cả những gì mà nhà đầu tư thận trọng có quyền đòi hỏi từ bất cứ nhà tư vấn nào phục vụ công chúng.

Những gì chúng tôi đã nói về những công tytưvấn đầu tư đã được xác lập vững chắc cũng có thể áp dụng chung cho các dịch ủy thác và tư vấn của các ngân hàng lớn hơn[277].

Các dịch vụ tài chính Những cái được gọi là dịch vụ tài chính là những tổ chức thường gửi các tờ tin có dạng thống nhất (đôi khi dưới dạng điện tín) tới những người đăng ký mua. Những chủ đê được nêu có thể bao gồm hiện trạng và triển vọng kinh doanh, động thái và triển vọng của các thị trường chứng khoán, thông tin và tư vấn về những phát hành cụ thể. Thường có một "bộ phận trả lời" để trả lời những câu hỏi liên quan đến một cá nhân đăng ký. Giá của dịch vụ này trung bình thấp hơn rất nhiều so với những gì các nhà tư vấn đầu tư tính cho những khách hàng cá nhân của mình. Một số tổ chức - nổi bật là Babson's và Standard & Poor's - hoạt động theo các mức khác nhau dưới dạng một dịch vụ tài chính và một sự tư vấn đầu tư. (Một cách ngẫu nhiên, các tổ chức khác - như Scudder, Stevens & Clark - hoạt động một cách tách biệt dưới dạng tư vấn đầu tư và dưới dạng một hoặc nhiều quỹ đầu tư).

Các dịch vụ tài chính, nói chung, thường hướng mình đến một phân khúc công chúng tương đối khác so với các công ty tư vấn đầu tư. Các khách hàng của các công ty tư vấn thường muốn được giải phóng khỏi sự phiền phức và việc phải đưa ra các quyết định. Các dịch vụ tài chính thì cung ứng thông tin và hướng dẫn cho những ai đang tự điều hành các thương vụ tài chính của mình hay đang cố vấn cho người khác. Nhiều dịch vụ trong số này giới hạn mình hoàn toàn, hoặc gãn như hoàn toàn, vào việc dự báo chuyển động thị trường bằng các phương pháp "kỹ thuật" khác nhau. Chúng tôi sẽ không xem xét các dịch vụ này vì chúng tôi nhận định rằng công việc của họ không liên quan gì đến các "nhà đầu tu" theo khái niệm được sử dụng trong cuốn sách này.

Mặt khác, một số trong những dịch vụ nổi tiếng nhất - chẳng hạn như Moody's Investment Service và Standard & Poor's - được xem là các tổ chức thống kê thực hiện việc tổng hợp các số liệu thống kê đồ sộ tạo thành cơ sở cho tất cả các phân tích chứng khoán nghiêm túc. Các dịch vụ này có nhóm khách hàng rất rộng, từ nhà đầu tư với tâm lý thận trọng nhất tới nhà đầu cơ cầu thả nhất. Kết quả là họ khó có thể gắn liền với một triết lý rõ ràng hay cơ bản nào để hình thành các ý kiến và lời khuyên của mình.

Một dịch vụ đã có từ lâu như kiểu của Moody's và những tổ chức khác rõ ràng phải cung cấp một điều gì đấy đáng giá đối với một nhóm lớn các nhà đầu tư. Đó là điều gì? Cơ bản, họ chú ý vào các vấn đề mà một nhà đắu tư-đằu cơ chủ động trung bình quan tâm tới, và các quan điểm của họ về những vấn đe này có căn cứ nhất định hoặc ít nhất là có vẻ đáng tin cậy hơn quan điểm của các khách hàng không được hướng dẫn.

Trong nhiều năm, các dịch vụ tài chính đã đưa ra những dự báo về thị trường chứng khoán, song không có ai thực hiện một cách nghiêm túc hoạt động này. Giống như mọi người khác trong lĩnh vực này, có lúc họ đúng, có lúc họ sai. Khi có thể thì họ rào đón các ý kiến của mình để tránh nguy cơ bị chứng minh là hoàn toàn sai. (Có một nghệ thuật đã phát triển từ lâu gọi là cách diễn đạt mập mờ kiểu sấm trạng, tức là tự điều chỉnh mình một cách thành công với bất cứ điều gì mà tương lai đem tới.) Theo quan điểm của chúng tôi - có lẽ là hơi thành kiến - lĩnh vực này không có tãm quan trọng thật sự nào ngoài ánh sáng mà nó rọi vào bản chất con người trong các thị trường chứng khoán. Hầu hết những ai quan tâm tới chứng khoán thường đèu muốn được người khác nói cho biết anh ta nghĩ thị trường sắp làm gì. Có cầu thì phải có cung.

Các diễn giải và dự báo của họ về các điều kiện kinh doanh tất nhiên là có căn cứ hơn và có hiểu biết hơn. Chúng là một phần quan trọng của bộ phận thông tin kinh tế rộng lớn được trải rộng liên tục trong số những người mua và bán chứng khoán và thường tạo ra những mức giá tương đối hợp lý đối với các chứng khoán và trái phiếu trong hầu hết mọi hoàn cảnh. Rõ ràng là những tài liệu xuất bản bởi những dịch vụ tài chính đóng góp thêm vào kho tàng thông tin sẵn có và củng cố thêm cho suy xét về đầu tư của các khách hàng của họ.

Khó có thể đánh giá được các khuyến nghị của họ về các chứng khoán cụ thể. Mỗi dịch vụ đều có quyền được đánh giá một cách riêng biệt, và cách nhận định chỉ có thể được dựa vào một nghiên cứu công phu và tổng quát bao trùm nhiều năm. Theo kinh nghiệm của mình, chúng tôi đã nhận thấy ờ họ một thái độ bao trùm mà chúng tôi nghĩ là sẽ làm tổn hại đến cái lẽ ra là công việc tư vấn có ích hơn. Quan điểm chung của họ là một chứng khoán nên được mua nếu triển vọng trong thời gian sắp tới của công ty là thuận lợi, và nên bán đi khi những triển vọng này không mấy thuận lợi - bất kể mức giá hiện tại là thế nào. Một nguyên tắc nồng cạn đến như vậy thường ngăn cản các dịch vụ đưa ra các phân tích sáng suốt mà nhân viên của họ có khả năng làm được - tức là, đánh giá xem một chứng khoán nào đó được định giá quá thấp hay quá cao so với mức giá hiện tại của nó hay không, dưới góc độ sức kiếm lời dài hạn tương lai đã được dự đoán của nó.

Nhà đầu tư thông minh sẽ không thực hiện việc mua và bán của mình chỉ dựa trên cơ sở các lời khuyên nhận được từ một dịch vụ tài chính. Một khi điểm này đã được xác lập, thì vai trò của dịch vụ tài chính sẽ trở nên có ích trong việc cung cấp thông tin và đưa ra các lời khuyên.

Tư vân từ các công ty môỉ giới Có lẽ khối lượng thông tin và tư vấn lớn nhất đối với công chúng sở hữu chứng khoán là đến từ các công ty môi giới chứng khoán. Đó là các thành viên của sở Giao dịch Chứng khoán New York và các sở giao dịch khác thực hiện các lệnh mua và bán để hưởng một mức hoa hồng tiêu chuẩn. hầu như mọi công ty môi giới cho công chúng đều duy trì một bộ phận "thống kê" hay phân tích, để trả lời các câu hỏi và đưa ra các lời khuyên khác. Một lượng lớn các tư liệu thống kê, trong đó một số rất công phu và tốn kém, được phát hành miễn phí cho các khách hàng (customer) của công ty - được gọi một cách ấn tượng hơn là thân chủ (client).

Có rất nhiều vấn đẻ trong câu hỏi có vẻ ngây thơ rằng "khách hàng" hay "thân chủ" là cái tên gọi đúng hơn. Một công ty kinh doanh thì có khách hàng; một người hay tổ chức hành nghề chuyên nghiệp thì có thân chủ. Khối các công ty môi giới Phố Wall chắc có tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của bất cứ ngành nghề kinh doanh nào, nhưng nó vần đang dò đường đến những tiêu chuần và chỗ đứng của một ngành nghề chuyên nghiệp thực sự[278].

Trong quá khứ, Phố Wall phát đạt chủ yếu nhờ sự đầu cơ, còn các nhà đầu cơ thị trường chứng khoán xét như một giai tăng thì hầu như chắc chắn là bị mất tiền. Do đó; về mặt logic không thể có chuyện các công ty môi giới hoạt động trên một cơ sở hoàn toàn chuyên nghiệp. Để làm như vậy thì họ sẽ phải hướng các nỗ lực của mình tới việc thu nhỏ chứ không phải mở rộng công việc kinh doanh của mình.

Mức xa nhất mà một số công ty môi giới nhất định đã đạt được theo hướng đó - và cũng chỉ thể mong đợi đi tới mức đấy - là tránh lôi kéo hay khuyến khích bất cứ ai đầu cơ. Những công ty môi giới như vậy đã giới hạn mình vào việc thực hiện các chỉ đạo được đưa ra, vào việc cung cấp thông tin và phân tích tài chính, và vào việc cho ý kiến về các lợi thế đầu tư của chứng khoán. Do đó, ít nhất là trên lý thuyết, họ không phải chịu mọi trách nhiệm về lợi nhuận hay thua lỗ của tất cả các khách hàng đằu cơ của họ[279].

Tuy nhiên, hầu hết các công ty giao dịch chứng khoán vẫn gắn bó với các khầu hiệu cũ rằng họ đang kinh doanh để kiếm hoa hồng và cách để thành công trong kinh doanh là cho khách hàng những gì khách hàng muốn. Vì những khách hàng lời lai nhất muốn có những lời khuyên và gợi ý mang tính đằu cơ nên những ý kiến và hoạt động của một công ty điển hình thường hướng gần tới việc kinh doanh trong khoảng một ngày (day-to-day trading) trên thị trường. Do đó; họ ra sức giúp các khách hàng của mình kiếm tiền trong một lĩnh vực mà khách hàng gần như bị chắc chắn theo định luật toán học là cuối cùng sẽ thua lỗ[280]. Chúng tôi nói vậy nghĩa là phần đầu cơ trong các hoạt động của hầu hết những khách hàng của các công ty môi giới sẽ không thể thu lời trong dài hạn. Nhưng những phần hoạt động nào giống như đầu tư thật sự sẽ tạo ra lợi nhuận đầu tư cao hơn cả việc bù đắp cho các thua lỗ đằu cơ của họ.

Nhà đầu tư nhận được những tư vấn và thông tin từ những công ty môi giới chứng khoán thông qua hai loại nhân viên, được gọi một cách chính thức là "người môi giới của khách hàng" [customer's broker] (hay "nhân viên điều hành tài khoản" [account executive]) và các nhà phân tích tài chính.

Người môi giới của khách hàng, còn được gọi là "đại diện đã được đăng ký" (registered representative), trước đây có tên kém tồn kính hơn là "người của khách hàng" (customer's man). Ngày nay, anh ta nói chung là một cá nhân có phẩm chất tốt và kiến thức đáng kể về chứng khoán, hoạt động theo những quy tắc ứng xử nghiêm ngặt. Tuy vậy, vì nghề của anh ta là kiếm hoa hồng, anh ta khó có thể tránh khỏi việc suy nghĩ mang tính đẳu cơ. Do đó; người mua chứng khoán nào muốn tránh bị ảnh hưởng bởi những nhận định mang tính đầu cơ thường sẽ phải cần thận và dửt khoát khi làm việc với người môi giới của mình; anh ta sẽ phải chứng tỏ rõ ràng, qua lời nói và hành động, rằng anh ta không quan tâm tới bất cứ cái gì hơi giống như tiền "boa" kiểu thị trường chứng khoán. Một khi người môi giới của khách hàng hiểu rõ rằng anh ta đang làm việc với một nhà đầu tư thực sự, anh ta sẽ tôn trọng điểm này và hợp tác.

Nhà phân tích tài chính, trước đây chủ yếu được biết đến với tên gọi nhà phân tích chứng khoán, là một người được sự quan tâm đặc biệt của tác giả cuốn sách này, mà bản thân cũng là một nhà phân tích trong hơn năm thập kỷ và đã từng giúp đào tạo vô số những người khác. Tại thời điểm này, chúng tôi chỉ nói đến những nhà phân tích tài chính được thuê bởi các công ty môi giới. Nhiệm vụ của nhà phân tích chứng khoán đã rõ từ cái tên của anh ta. Anh ta là người tạo ra những nghiên cứu chi tiết về những chứng khoán cụ thể, phát triển những so sánh cần thận về các phát hành trong cùng một lĩnh vực, và đưa ra ý kiến chuyên nghiệp về độ an toàn hoặc sự hấp dẫn hoặc giá trị thực sự của tất cả các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau.

Một điều có lẽ là kỳ quặc đối với người ngoài cuộc là không cần phải có thủ tục chính thức nào để trở thành một nhà phân tích chứng khoán. Điều này ngược lại với thực tế là người môi giới của khách hàng phải vượt qua một kỳ kiểm tra, đáp ứng được những kiểm chứng về yêu cằu đối với tính cách, và phải được Sở Giao dịch Chứng khoán New York chính thức chấp nhận và đăng ký. Trên thực tế, hầu hết các nhà phân tích trẻ hơn đẻu được đào tạo lâu dài ở trường kinh doanh, còn những người già hơn thì cũng nhận được kiến thức tương đương từ trường đời kinh nghiệm. Trong hầu hết các trường hợp, có thể dựa vào công ty môi giới để đảm bảo về trình độ và khả năng của các nhà phân tích của nó[281].

Khách hàng của một công ty môi giới có thể làm việc trực tiếp với các nhà phân tích chứng khoán, hoặc cách liên lạc của anh ta có thể là gián tiếp, thông qua người môi giới của khách hàng. Trong mỗi trường hợp thì nhà phân tích có thể đưa cho khách hàng một lượng lớn thông tin và lời khuyên. Hãy để chúng tôi đưa ra một nhận định mạnh mẽ ở đây. Giá trị của nhà phân tích chứng khoán đối với nhà đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của chính nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư hỏi nhà phân tích đúng câu hỏi thì anh ta chắc hẳn sẽ nhận được những câu trả lời đúng - hoặc ít nhất là có giá trị. Chúng tôi tin rằng, các nhà phân tích được các công ty môi giới thuê bị hạn chế khả năng rât lớn bởi cảm giác chung rằng họ cũng phải là các nhà phân tích thị trường. Khi họ được hỏi xem một cổ phiếu thường nào đó có "vững" không, câu hỏi này thường có nghĩa là: "Chứng khoán này liệu có tăng trên thị trường vào những tháng tới không?" Kết quả là nhiều người trong số họ buộc phải phân tích với một mắt hướng vào bảng điện tử ký hiệu chứng khoán - một tư thế không có lợi cho việc suy nghĩ sáng suốt hay các kết luận đáng giá[282].

Trong phần tiếp theo của cuốn sách, chúng tôi sẽ nói tới một số khái niệm và thành tích có thể đạt được của các nhà phân tích chứng khoán. Một lượng lớn các nhà phân tích đang làm việc cho những công ty giao dịch chứng khoán có thể có tầm quan trọng lớn đối với nhà đầu tư ngay thẳng muốn chắc chắn rằng mình nhận được đủ giá trị trên tiền của mình, và có thể là nhiều hơn một chút. Như trong trường hợp của những người môi giới của khách hàng, những gì cằn vào ban đàu là sự thông hiểu của nhà phân tích đối với thái độ và mục tiêu của nhà đầu tư. Một khi nhà phân tích tin rằng anh ta đang làm việc với một người có đầu óc thiên về giá trị chứ không phải là đằu óc thiên về giá niêm yết, thì có cơ hội rất tốt rằng những lời khuyên của anh ta sẽ đem đến lợi ích tổng quát thật sự.

Chứng chì CFA cho các nhà phân tích tài chính Một bước tiến quan trọng đạt được vào năm 1963 với việc đưa ra vị thế nghề nghiệp và trách nhiệm cho các nhà phân tích tài chính. Danh hiệu chính thức, nhà tư vấn tài chính được chứng nhận (chartered financial analyst - CFA) giờ đây được trao cho những người hành nghề lâu năm đã vượt qua được các kỳ kiểm tra được yêu cầu và đáp ứng được những phép kiểm định khác về sự phù hợp[283]. Những môn được kiểm tra gồm phân tích chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư. Sự tương tự với một danh hiệu nghè nghiệp khác đã được xác lập từ lâu - kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề (certified public accountant - CPA) là rõ ràng và có chủ ý. Cái cơ chế tương đối mới mẻ cho việc cồng nhận và kiểm soát này sẽ được sử dụng để nâng cao tiêu chuẩn của các nhà phân tích tài chính và dãn dãn đặt công việc của họ lên một nen tảng chuyên nghiệp thực sự[284].

Làm việc với các công ty môi giới Một trong những diễn biến đáng lo ngại nhất xảy ra trong giai đoạn mà chúng tôi viết cuốn tái bản này là tình trạng lúng túng về tài chính - nói trắng ra, là sự phá sản hoặc gãn như phá sản - của khá nhiều công ty tại Sở Giao dịch Chứng khoán New York, trong đó có ít nhất hai công ty với quy mô đáng kể[285]. Đây là lằn đâu tiên trong nửa thế kỷ có chuyện như vậy xảy ra, và nó đáng kinh ngạc vì nhiều lý do. Trong nhiều thập kỷ, Sở Giao dịch Chứng khoán New York đã đi theo hướng kiểm soát sát sao và chặt chẽ hơn đối với các hoạt động và điều kiện tài chính của các thành viên của nó - bao gồm các yêu cằu về vốn tối thiểu, những lằn kiểm toán đột xuất, vân vân. Ngoài ra, chúng ta đã có 37 năm mà ủy ban Chứng khoán và Giao dịch kiểm soát các sở giao dịch và các thành viên của chúng. Cuối cùng, chính ngành môi giới chứng khoán đâ hoạt động trong những điều kiện thuận lợi - tức là, sự tăng khối lượng rất lớn, các mức chi phí hoa hồng cố định tối thiểu (cơ bản loại bỏ các mức phí cạnh tranh), và một số lượng giới hạn các công ty thành viên.

Những rắc rối tài chính đầu tiên của các công ty môi giới (vào năm 1969) được quy cho chính sự tăng khối lượng. Điêu này, như được tuyên bố; đã đánh thuế quá nặng vào cơ sở thiết bị của họ; làm tăng chi phí gián tiếp, và tạo ra nhiều khó khăn trong các thanh toán tài chính. Cần phải chỉ ra rằng đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử, các công ty lớn đã bị phá sản vì đã kinh doanh nhiều hơn những gì họ có thể xử lý được. Vào năm 1970, khi những vụ phá sản các công ty mồi giới tăng lên, chúng chủ yếu bị đổ tại việc "giảm khối lượng". Đây là một lời phàn nàn kỳ quặc, khi mà ta nhớ lại rằng doanh số của NYSE năm 1970 lên tới 2.937 triệu cổ phiếu, khối lượng lớn nhất trong lịch sử, và nhiều hơn gấp đôi bất cứ một năm nào trước năm 1965. Trong 15 năm thị trường giá lên kết thúc vào năm 1964, khối lượng hằng năm trung bình "chỉ" có 712 triệu cổ phiếu - một phần tư con số của năm 1970 - nhưng ngành môi giới chứng khoán đã được hưởng sự phát đạt lớn nhất trong lịch sử. Nếu, như ta thấy, các công ty thành viên nói chung đã để chi phí gián tiếp và những phí khác của mình tăng với một mức thậm chí không thể chịu được một sự giảm nho nhỏ khối lượng trong một phần của năm, thì điều này không nói tốt cho sự nhạy bén kinh doanh hay sự thận trọng tài chính của họ.

Giải thích thứ ba về các khó khăn tài chính cuối cùng đã xuất hiện từ trong một đám mây mù giấu giếm, và chúng tôi nghi ngờ rằng nó là lý do đáng tin cậy nhất và quan trọng nhất trong ba lý do. Có vẻ là một phần lớn vốn của một số công ty môi giới nhất định đã được giữ dưới dạng các cổ phiếu thường do các đối tác cá nhân sở hữu. Một số cổ phần trong số này dường như đã có tính đằu cơ cao và được giữ với các giá trị bị thổi phồng. Khi thị trường giảm xuống vào năm 1969, giá niêm yết của những chứng khoán này giảm mạnh và một phần vốn đáng kể của các công ty đã biến mất theo[286]. Thật ra các đối tác môi giới nói trên đã đầu cơ với số vốn lẽ ra được dùng để bảo vệ khách hàng khỏi những rủi ro tài chính thông thường của ngành môi giới, để tạo ra lợi nhuận gấp đôi từ đó. Điêu này là không thể chấp nhận được; chúng tôi sẽ không nói thêm nữa.

Nhà đầu tư nên sử dụng trí thông minh của mình không chỉ để hình thành các phương châm tài chính của mình mà còn trong cả những chi tiết có liên quan, trong đó bao gồm việc lựa chọn một người môi giới uy tín để thực hiện những lệnh của mình. Cho tới giờ đã có đủ lý do để khuyên các bạn đọc chỉ làm việc với người là thành viên của sở Giao dịch Chứng khoán New York, trừ phi anh ta có những lý do bắt buộc để sử dụng một công ty không phải thành viên. Chúng tôi nghĩ những người không có tài khoản bảo chứng (margin account)[287] - trong từ điển của chúng tôi điều này nghĩa là mọi nhà đầu tư không chuyên - nên đề ngân hàng của mình xử lý việc gửi và nhận các chứng khoán của mình. Khi đặt lệnh mua cho những nhà môi giới của mình, bạn có thể yêu cằu họ gửi các chứng khoán đã mua đến ngân hàng theo phương thức giao hàng nhận tiền thanh toán của ngân hàng; ngược lại, khi bán bạn có thể yêu cầu ngân hàng của mình gửi các chứng khoán đến công ty môi giới theo phương thức giao hàng nhận tiền. Những dịch vụ này sẽ tốn thêm một chút chi phí nhưng chúng rất đáng làm, xét về mặt an toàn và sự yên ổn đầu óc. Lời khuyên này có thể bỏ qua, nếu không còn cằn thiết, sau khi nhà đầu tư đã chắc chắn rằng mọi vấn đe về các công ty giao dịch chứng khoán đã được loại bỏ, nhưng không phải trước lúc đấy[288].

Các ngân hàng đầu tư Khái niệm "ngân hàng đẳu tu" (“investment banker") được áp dụng cho một công ty hoạt động với mức độ quan trọng trong việc khởi xướng, bao tiêu và bán các phát hành cổ phiếu và trái phiếu mới. (Bao tiêu có nghĩa là đảm bảo với công ty phát hành, hay một nhà phát hành khác, rằng chứng khoán đó sẽ được bán hết.) Một số các công ty môi giới chứng khoán cũng tiến hành một khối lượng nhất định các hoạt động bao tiêu. Thông thường, điều này được giới hạn vào việc tham gia vào các nhóm bao tiêu được thành lập bởi các ngân hàng đẳu tư hàng đằu. Các công ty môi giới còn có xu hướng khởi xướng và đỡ đầu tài trợ cho một ít phát hành mới, đặc biệt là đối với hình thức phát hành nhỏ các cổ phiếu thường khi thị trường giá lên đang mở hết tốc lực.

Nghiệp vụ ngân hàng đầu tư có lẽ là bộ phận đáng kính trọng nhất trong cộng đồng Phố Wall, vì ở đó tài chính đóng một vai trò mang tính chất xây dựng của mình là cung cấp vốn mới để mở rộng ngành công nghiệp. Thật vậy, phần lớn sự biện minh về mặt lý thuyết cho việc duy trì các thị trường chứng khoán hoạt động, bất chấp những sự thái quá có tính đầu cơ thường xuyên của chúng, là ở thực tế các sở giao dịch chứng khoán có tổ chức đã tạo điều kiện cho việc bán trái phiếu và cổ phiếu mới. Nếu các nhà đầu tư hoặc đầu cơ không thể kỳ vọng là sẽ thấy được một thị trường đã sẵn sàng cho một chứng khoán mới được cung ứng cho họ thì họ chắc có lẽ sẽ từ chối mua nó.

Mối quan hệ giữa ngân hàng đầu tư và nhà đầu tư về cơ bản là giống như mối quan hệ giữa nhân viên bán hàng và khách mua hàng triển vọng. Trong nhiều năm qua, một lượng lớn các phát hành mới bằng giá trị đô la bao gồm những phát hành trái phiếu đã được mua chủ yếu bởi các tổ chức tài chính như ngân hàng và các công ty bảo hiểm. Trong lĩnh vực kinh doanh này, những người chuyên bán chứng khoán đã phải làm việc với những người mua sắc sảo và có kinh nghiệm. Do đó; bất cứ lời khuyên nào mà các ngân hàng đầu tư đưa cho các khách hàng này đều phải qua được sự xem xét một cách cẩn thận và đầy hoài nghi. Vì thế mà những giao dịch này hầu như luôn được thực hiện trên cơ sở mang tính kinh doanh.


Каталог: file -> downloadfile6 -> 161
downloadfile6 -> Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hằng Mã sinh viên: 0851015561
downloadfile6 -> Thế giới an ninh- thiết lập hệ thống camera quan sát với card ghi hình Hệ thống Demo bao gồm
downloadfile6 -> 1 Giới thiệu adc 0809
161 -> BÀi giảng quản trị ngân hàng 2
downloadfile6 -> HUỲnh duy khánh các công thức tính thể TÍCH
downloadfile6 -> Dạng 1: Tính các đại lượng cơ bản (công thoát A, v0max, P, ibh, Uh, H…)
downloadfile6 -> Ách đỌc tên latinh đỗ Xuân Cẩm Giảng viên Đh huế
downloadfile6 -> I. TỔng quan về vqg tràm chim vị trí địa lý
161 -> ĐẠi họC ĐÀ NẴng trưỜng đẠi học kinh tế khoa tài chính ngân hàng  bt nhóm môn thanh toán quốc tế

tải về 3.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   42




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương