ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO


Nghiên cứu đánh giá đa dạng di truyền cây lúa



tải về 1.28 Mb.
trang5/20
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích1.28 Mb.
#1522
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20


1.2. Nghiên cứu đánh giá đa dạng di truyền cây lúa

1.2.1. Vị trí và tầm quan trọng của đa dạng di truyền


Đa dạng di truyền là biểu hiện sự đa dạng của các biến dị có thể di truyền trong một loài, một quần xã hoặc giữa các loài, các quần xã. Xét cho cùng, đa dạng di truyền chính là sự biến dị của sự tổ hợp trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản, thành phần axít nucleic, tạo thành mã di truyền [3].

Đa dạng di truyền là cơ sở cho việc tuyển chọn lai tạo những giống, loài mới; đa dạng về loài thường là đối tượng khai thác phục vụ mục đích kinh tế; đa dạng về hệ sinh thái có chức năng bảo vệ môi trường sống; đồng thời các hệ sinh thái được duy trì và bảo vệ chính là nhờ sự tồn tại của các quần thể loài sống trong đó. Phần đa dạng sinh học do con người khai thác sử dụng gọi là đa dạng sinh học nông nghiệp [20].

Giá trị của đa dạng di truyền thể hiện ở ba mặt chính [35]:

Giá trị ổn định: Đa dạng di truyền tạo ra sự ổn định cho các hệ thống nông nghiệp ở quy mô toàn cầu, Quốc gia và địa phương. Sự thiệt hại của một giống cây trồng cụ thể được bù đắp bằng năng suất của các giống hoặc cây trồng khác.

Giá trị lựa chọn: Đa dạng di truyền tạo ra bảo hiểm sinh học cần thiết chống lại những thay đổi bất lợi của môi trường do việc tạo ra những tính trạng hữu ích như tính kháng sâu bệnh hay tính thích nghi. Giá trị của đa dạng di truyền được thể hiện thông qua việc sử dụng và khai thác các tính trạng quý, hiếm của tài nguyên di truyền thực vật như tính chống chịu, năng suất, chất lượng và khả năng thích nghi.

Năm 1946, giống lúa mỳ lùn Nhật Bản Norin 10 được nhập vào Mỹ và đã góp phần quan trọng trong cải tạo giống và tăng năng suất lúa mỳ. Các giống lúa trồng có nguồn gốc Đông Bắc Ấn Độ được sử dụng là nguồn kháng sâu, bệnh cho các vùng khác nhau trên thế giới. Những tính trạng này đã góp phần tăng sản lượng lúa bình quân của châu Á lên 30% giữa những năm 1981 và 1986 [35].



Giá trị khai thác: Đa dạng di truyền được xem là kho dự trữ tiềm năng các tài nguyên chưa biết đến. Đây cũng là lý do cần phải duy trì cả các hệ sinh thái hoang dã lẫn các hệ thống nông nghiệp truyền thống.

1.2.2. Nghiên cứu đa dạng di truyền lúa ở nước ngoài


Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học cùng với sự ra đời của nhiều loại chỉ thị chỉ thị cũng như số lượng của mỗi loại chỉ thị đã làm tăng hiệu quả trong quá trình đánh giá, bảo tồn, khai thác và sử dụng trong với mục đích khác nhau. Chỉ thị ADN được ứng dụng hiệu quả trong nghiên cứu di truyền thực vật mà phân tích đa dạng di truyền, xác định các locus kiểm soát các tính trạng, hay chọn giống phân tử là các lĩnh vực được triển khai hiệu quả.

Virk và cs.(1995) nghiên cứu 12 giống lúa trồng châu Á đại diện cho các vùng sinh thái, địa lý khác nhau bằng chỉ thị RAPD. Kết quả cho thấy 18 trong số 24 mồi cho 83 băng, trong đó có 48 băng đa hình. Số lượng băng đa hình xuất hiện từ 1-5 băng/ mồi, các băng nằm trong khoảng 300-2700bp [67].

Olufowote (1997) nghiên cứu biến động di truyền trong giống của 171 giống lúa bằng cả hai loại chỉ thị SSR và RFLP. Kết quả cho thấy các giống lúa địa phương có mức độ đa dạng, hỗn tạp và dị hợp tử cao hơn các giống lúa cải tiến. Cả hai phương pháp đều cho thấy số lượng các alen ở các giống lúa địa phương cao hơn hẳn các giống lúa cải tiến. Chỉ thị SSR có khả năng phân biệt các cá thể có quan hệ di truyền gần gũi, đồng thời số lượng alen cao hơn chỉ thị RFLP[58].

Tác giả Yu và cs. (2003) đã sử dụng 101 chỉ thị SSR để đánh giá đa dạng 193 giống lúa từ 26 nước trên thế giới. Khoảng cách di truyền từ 0,13-0,88, trung bình là 0,68. Số alen/locus từ 2-11, trung bình 6,3/locus. Kết quả phân tích nhóm đã phân 193 giống thành 3 nhóm chính và 9 phân nhóm. Nhóm I là các giống lúa Indica, nhóm II và III thuộc loài phụ Japonica . Các locus thuộc nhiễm sắc thể 9, 12 phân biệt rõ nhất sự khác nhau giữa IndicaJaponica [61].

Tác giả Xu (2004) sử dụng 113 chỉ thị RFLP và 60 chỉ thị SSR để định lượng đa dạng alen của 125 giống lúa thu được từ các bang miền Tây và miền Nam nước Mỹ và 111 giống từ tập đoàn lúa Quốc tế IRRI. Các tác giả nhận thấy cơ sở di truyền các giống lúa hiện nay có ở Mỹ hẹp hơn nhiều so với các giống từ tập đoàn lúa Quốc tế (56% SSR alen so với 96%, và 92 RFLP so với 99%). 31 trong số 236 giống lúa có số lượng các alen cao (chiếm 95% số alen của RFLP và 74% số alen của SSR) có thể sử dụng làm tập đoàn hạt nhân. Kết quả cho thấy chỉ thị SSR sử dụng hữu hiệu hơn RFLP cả về khả năng phát hiện các alen lẫn chi phí và kỹ thuật[69].

Lu H. và cs. (2005) đã phân tích cấu trúc của quần thể lúa ở Mỹ với 115 giống lúa trồng ở Mỹ và 30 giống lúa châu Á bằng 169 chỉ thị SSR. Kết quả thu được 870 alen, trung bình 5,15 alen/locus. Tần số alen hiếm rất cao, lên đến 50%, trong khi đó tần số alen phổ biến chỉ chiếm 24-26% trong số 870 alen. Hệ số đa dạng PIC đạt khá cao, 0,80. Kết quả phân nhóm cho thấy, 115 giống lúa đã phân thành ba nhóm: Japonica ôn đới với đặc điểm hạt ngắn, Japonica nhiệt đới có đặc điểm hạt trung bình và Japonica nhiệt đới hạt dài. Các giống lúa Indica đại diện cho các giống lúa truyền thống thì phân chia thành các nhóm riêng [46].

Victoria và cs.(2007) nghiên cứu đa dạng trên 24 giống lúa ở Philippine có chất lượng tốt bằng 164 chỉ thị SSR. Trong số 164 chỉ thị SSR có 151 chỉ thị cho đa hình với tổng số alen thu được là 890, trung bình 5,89alen/locus. Trong đó có 89 chỉ thị cho 147 alen hiếm. Hệ số đa dạng di truyền PIC từ 0,18-0,91, đạt trung bình 0,68/chỉ thị. Theo kết quả phân tích UPGMA, 24 giống lúa chia thành ba nhóm ở độ tương đồng 40%. Nhóm 1 gồm 8 giống Japonica, nhóm 2 và 3 là các giống lúa Indica. Trong nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng việc sử dụng chỉ thị SSR rất hiệu quả trong phân nhóm các loài phụ. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, những giống lúa có chất lượng tốt thì thường có khoảng cách di truyền cao hơn và vì thế rất chúng là nguồn vật liệu cho công tác chọn giống [66].

Giarrocco và cs. (2009 ) đã nghiên cứu đa dạng di truyền 69 giống lúa của Argentina bằng 26 chỉ thị SSR. Kết quả thu được là 219 alen . 60 giống lúa phân thành 3 nhóm Indica, Japonica, Japonica nhiệt đới với độ tương đồng di truyền từ 0,12-0,96.[36]

Nghiên cứu của Malik và cs. (2008) về đa dạng di truyền của 40 giống lúa bao gồm 10 giống lúa địa phương của Pakistan, 28 giống lúa cải tiến, 2 giống lúa Nhật Bản bằng 25 chỉ thị RAPD. Kết quả thu được 208 băng, số băng đa hình là 189, chiếm 89,4%. Kích thước các băng từ 200-400bp. Độ tương đồng di truyền của các giống lúa là 0,5-0,96. Dựa trên cơ sở phân nhóm UPGMA, 40 giống lúa đã phân thành 3 nhóm : nhóm lúa thơm, lúa không thơm và Japonica [47].

S.C Wong và cs. (2009) đã sử dụng 12 chỉ thị SSR để đánh giá đa dạng của 8 giống lúa Bario của Malaysia. Kết quả đánh giá hệ số đa dạng di truyền PIC là 0,54, trung bình 2,6 alen/locus. Hệ số tương đồng di truyền trong 8 giống lúa dao động từ 0,16-0,92 [62]

Michael J.T và cs.(2010) đánh giá đa dạng các giống lúa của Indonesia bao gồm 246 giống lúa truyền thống, 63 giống lúa cải tiến bằng 30 chỉ thị SSR. Tổng số alen thu được trong nghiên cứu là 394 alen, trung bình 13 alen/locus. Hệ số đa dạng gen đạt được là 0,66, tần số alen phổ biến từ 21-73%. Kết quả các giống lúa nghiên cứu chia thành hai nhóm lớn: nhóm IndicaJaponica nhiệt đới [49].

Nghiên cứu đa dạng di truyền của 53 giống lúa địa phương của vùng Sarawak- Malaysia của Lee và cs (2011) với 12 chỉ thị nằm trên 12 nhiễm sắc thể . Tổng số alen thu được 43 alen, trung bình 3.58 alen/locus. Hệ số đa dạng di truyền cũng đạt giá trị cao, từ 0,306-0,730. Kết quả 53 giống phân thành 6 nhóm với hệ số tương đồng từ 0,24-1 [50].

Jingguo Wang và cs (2013) đánh giá 288 giống lúa bản địa vùng Đông bắc á bằng 154 chỉ thị SSR. Kết quả đánh giá hệ số đa dạng di truyền dao động từ 0,060-0,856, trung bình 5,344 alen/locus. Hệ số tương đồng di truyền trong 288 giống lúa dao động từ 0,061-0,869 [42].

1.2.3. Nghiên cứu đa dạng di truyền lúa ở Việt Nam và Lào


Việt Nam được coi là một trong những trung tâm khởi nguyên của cây lúa, từ xưa, nhân dân ta đã biết mô tả hình thái các giống lúa và thời vụ gieo trồng. Lê Quý Đôn đã mô tả tỉ mỉ và có nhận xét về tính cứng cây, chống đổ và chiều cao cây, nhất là đối với những giống lúa chiêm “Lúa Sài Đường, chiêm Di cây nhỏ mà yếu, dễ đổ; lúa Tám trâu, lúa Bồ lộ, lúa Thạch, lúa Màng hai, lúa Bột cây cứng thẳng; đặc biệt lúa chiêm vàng và lúa Đăng sơn, cây cứng cao, bị mưa gió không đổ” [4].

Nghiên cứu đa dạng di truyền và phân loại một cách hệ thống lúa trồng ở Việt Nam đã và đang đánh giá đa dạng tài nguyên lúa nước ta. Theo Trần Văn Minh (2004) [9] các giống lúa thuộc loài phụ Japonica có hạt ngắn, lá ngắn màu đậm và cứng, không có râu đầu hạt thóc, bông ít phân nhánh, độ đóng hạt dày. Tác giả Lưu Ngọc Trình (2006) [22], trong tổng số 6.083 giống lúa đang bảo quản tại Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia, Trung tâm Tài nguyên thực vật đã tiến hành đánh giá đầy đủ 60 tính trạng hình thái nông học của 1.819 giống, đánh giá 40 - 50 tính trạng của 1.385 giống và từ 20 - 30 tính trạng của 2.066 giống.

Lưu Ngọc Trình (1995) [21] sử dụng chỉ thị phân tử để nghiên cứu đa dạng di truyền của 643 giống lúa, trong đó có 464 giống từ miền Bắc Việt Nam. Kết quả đánh giá 454 giống lúa có nguồn gốc miền Bắc Việt Nam thì có 412 giống (89%) thuộc nhóm lúa Indica, 44 giống (9,5%) thuộc nhóm lúa Japonica và 8 giống (1,5%) không phân loại được. Nguyễn Đức Thành và cs, (1999) [16] đã sử dụng 10 mồi RAPD, 50 cặp mồi SSR và 15 cặp mồi AFLP để nghiên cứu 72 giống lúa nương. Kết quả cho thấy các giống lúa nương có đa dạng di truyền cao và là nguồn vật liệu tốt cho công tác chọn giống. Phạm Trung Nghĩa và ctv (1999) [59] khi so sánh phương pháp phân tích khoảng cách di truyền bằng chỉ thị RAPD và phương pháp phân tích khoảng cách di truyền bằng các tính trạng hình thái của các giống lúa đã cho thấy kết quả của hai phương pháp gần giống nhau, nhưng chỉ thị RAPD rõ ràng và chính xác hơn. Bùi Chí Bửu và cs (1999) [2] sử dụng 20 mồi RAPD để đánh giá đa dạng di truyền 72 giống lúa địa phương. Trong 20 mồi thử nghiệm thuộc nhóm OPA kit, có 10 mồi cho kết quả tốt với 59 băng. Kết quả có hai nhóm chính và nhiều nhóm phụ được phân lập. Trần Danh Sửu và ctv (2001) [13] sử dụng kỹ thuật RAPD để nghiên cứu các giống lúa ở vùng Tây Bắc và Tây Nam nước ta cho thấy hầu hết các giống lúa ở vùng Tây Bắc thuộc loài phụ Japonica, còn các giống lúa nước ở Tây Nam nước ta thuộc loại phụ Indica.

Vũ Thị Thu Hiền (2012) đã đánh giá đặc điểm nông sinh học và đa dạng di truyền của 41 mẫu giống lúa mới thu thập và chọn tạo để sử dụng trong chọn giống lúa thuần năng suất và chất lượng. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy các mẫu giống trong tập đoàn có thời gian sinh trưởng ngắn, nhiều dạng thấp cây phù hợp cho vùng thâm canh cao. Số bông/khóm, chiều dài bông và chiều dài, chiều rộng lá đòng, khối lượng 1000 có mức độ đa dạng. Hình dạng hạt thuộc nhóm thon và thon dài chiếm đa số là nguồn gen quý phục vụ công tác chọn giống lúa chất lượng. Dựa trên 14 các tính trạng kiểu hình, 41 mẫu giống lúa với sự sai khác 0,08 phân thành 10 nhóm cách biệt di truyền [8].

Ngô Thị Hồng Tươi và cs (2014) sử dụng 35 chỉ thị phân tử SSR đánh giá đa dạng di truyền 46 dòng/giống lúa cẩm gồm cả lúa nếp và tẻ được thu thập từ các địa phương trong đó có 9 chỉ thị đơn hình và 26 chỉ thị đa hình với tổng số 68 alen đa hình chiếm tỷ lệ trung bình 62 alen trên một locus. Hệ số đa dạng di truyền (PIC) dao động từ 0,08 đến 0,74 với giá trị trung bình là 0,46 [19].

Lào là một trong những nước phong phú nguồn gen lúa, Bộ nông lâm nghiệp Lào kết hợp với Viện lúa quốc tế IRRI đã thu thập được 13.192 mẫu giống lúa trồng và 237 mẫu thuộc sáu loài lúa hoang dại. Những mẫu giống thu thập tại miền bắc, miền trung, miền nam thứ tự là 5915 (44.8%), 4625 (35.1%), 2652 (20.1%). Trong số mẫu giống thu được 55, 9% là những giống lúa nương và hầu hết là giống lúa nếp (85.5%) [24] . Nhưng điều tra về tập đoàn giống lúa của Lào cho thấy đây là nguồn gen quý, phong phú về các tính trạng chất lượng, chống chịu sâu bệnh, cũng như các điều kiện bất thuận như chịu hạn, chịu nóng. Một số nghiên cứu, đánh giá đa dạng di truyền nguồn gen lúa của Lào: Yosuke Kuroda và cs (2007) [71] nghiên cứu đánh giá đa dạng di truyền ở mức độ phân tử của một số giống lúa trồng Oryza sativa và các quần thể dòng lúa hoang O. RufipogonOryza nivara kết quả cho thấy có sự khác xa về di truyền giữa các dòng giống lúa này. Ishikaw R và cs (2002) đã thu thập đánh giá tập đoàn gồm 132 giống lúa nương được thu thập tại 27 điểm. Trong đó gồm có 106 giống lúa nếp, và 16 giống lúa tẻ [39]


1.2.4. Các phương pháp nghiên cứu đa dạng di truyền

1.2.4.1. Chỉ thị hình thái


Nghiên cứu đa dạng di truyền dựa trên chỉ thị hình thái là phương pháp đánh giá thông qua các đặc điểm hình thái (hình dạng, kích thước, đặc điểm các bộ phận). Với ưu điểm là dễ dàng tiếp cận, không đòi hỏi các thiết bị đắt tiền cũng như quy trình phức tạp. Hiện nay phương pháp này vẫn được sử dụng phổ biến trên cây trồng để giúp các nhà nghiên cứu phân biệt các giống khác nhau bằng mắt thường. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ thị hình thái trong phân tích đa dạng di truyền có những hạn chế: (1) Số lượng các chỉ tiêu hình thái có hạn, chỉ thị hình thái chịu tác động của môi trường và phụ thuộc vào giai đoạn nhất định của quá trình phát triển; (2) Việc đánh giá mang tính chất thông kê nên cần thực hiện với số lượng lớn để đảm bảo tính chính xác; (3) Có nhiều tính trạng do đa gen quy định mà không phải toàn bộ gen đều biểu hiện ra kiểu hình mà có thể đánh giá được. Vì thế cho đến nay, các nhà chọn giống thường kết hợp sử dụng các chỉ tiêu hình thái với việc xác định bằng chỉ thị sinh hoá và chỉ thị phân tử ADN để đạt được kết quả chính xác nhất [11], [72].

1.2.4.2. Chỉ thị sinh hóa


Chỉ thị sinh hoá là loại chỉ thị có bản chất là đa hình protein, bao gồm chỉ thị isozyme và các loại protein dự trữ.

Các protein khác nhau có khối lượng phân tử và điểm đẳng điện khác nhau, vì vậy chúng có thể di chuyển với tốc độ khác nhau trong quá trình điện di tạo thành những đặc điểm đặc trưng trên gel điện di và có thể hiện thị bằng phương pháp nhuộm. Cơ chế này được điều khiển bởi vật chất di truyền là ADN, thông qua dòng thông tin di truyền từ ADN->ARN->protein [15].

Chỉ thị protein và chỉ thị enzyme thuộc loại đồng trội có độ tin cậy cao đồng thời có thể phát hiện ra các biến dạng khác nhau của protein. Tuy nhiên, do số lượng không nhiều và sự biểu hiện chúng phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cá thể, nên các chỉ thị protein và isozyme được ứng dụng tương đối hạn chế [1].

1.2.4.3. Chỉ thị phân tử ADN


Các chỉ thị phân tử ADN là những chỉ thị dựa trên bản chất đa hình ADN. Nó được sử dụng để xác định mối quan hệ giữa các cá thể trong cùng một loài hoặc giữa các loài, phát hiện loài mới và mối quan hệ tiến hoá giữa loài, dùng để lựa chọn tổ hợp lai.

Chỉ thị phân tử ADN có thể là một gen hoặc những đoạn ADN đặc hiệu. Chỉ thị di truyền phân tử có tính ổn định cao và có thể xác định trong tất cả các loại mô với độ chính xác cao mà không bị ảnh hưởng bởi điều kiện của môi trường. Chỉ thị phân tử được chia làm hai nhóm chính:

• Chỉ thị dựa trên cơ sở nguyên lý lai ADN: chỉ thị RFLP.

• Chỉ thị dựa trên cơ sở nhân bản ADN bằng kỹ thuật PCR: RAPD, AFLP, SSR, ...)



  • RFLP (Restriction Fragment Length Polymorphism- Đa hình chiều dài đoạn phân cắt giới hạn)

RFLP là một kỹ thuật nhận dạng ADN bằng cách lai axit nucleic. Nguyên lý của phương pháp: ADN của bộ gen sau khi cắt bằng enzyme giới hạn sẽ thành những đoạn có kích thước khác nhau. Khi điện di những đoạn này sẽ phân bố ở những vị trí khác nhau trên gel, qua biến tính các đoạn này trở thành sợi đơn và được chuyển lên màng celulose hoặc nylon. Trong quá trình lai ADN tiếp theo, nếu chúng bổ sung với mẫu dò (là một đoạn ADN đã được đánh dấu phóng xạ hoặc hoá học) thì sẽ cho phản ứng lai. Kết quả của phản ứng lai là chúng ta có thể xác định được sự đa hình giữa các mẫu ADN khác nhau [15]

Kỹ thuật RFLP đã được các nhà di truyền học lần đầu tiên giới thiệu trong nghiên cứu lập bản đồ các gen liên quan đến bệnh ở người [26]. Chỉ thị RFLP là chỉ thị đồng trội được sử dụng phổ biến trong tạo giống cây trồng với nhiều mục đích khác nhau: lập bản đồ di truyền, chọn lọc sớm tính trạng đơn gen, phân tích đa hình di truyền. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này là tốn nhiều thời gian, công sức, kỹ thuật phức tạp, độc hại do sử dụng chất phóng xạ và đòi hỏi ADN chất lượng cao [25], [55].


1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương