Nghiên cứu, đánh giá hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An và định hướng bảo tồn hợp lý



tải về 1.25 Mb.
trang1/8
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.25 Mb.
#11787
  1   2   3   4   5   6   7   8
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Nghiên cứu, đánh giá hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An và định hướng bảo tồn hợp lý” là công trình nghiên cứu của bản thân với sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Văn Thụy. Nội dung, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ luận văn nào trước đây. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.





Sinh viên


Nguyễn Thị Thanh Nga

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô, sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp, sự động viên to lớn của gia đình và những người thân.

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Văn Thụy cùng những người thầy tận tâm đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ động viên tôi học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện luận văn, đã dìu dắt tôi từng bước trưởng thành trong chuyên môn cũng như trong cuộc sống.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Chi cục Bảo vệ Môi trường Nghệ An, phòng Kiểm soát ô nhiễm cùng tập thể anh chị em đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi hoàn thành luận văn này.





Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Nga

MỤC LỤC


Theo nguồn số liệu cung cấp từ Chi cục Kiểm Lâm, trong những năm gần đây, các loại LSNG quí và đặc biệt các loài cây thuốc quí đã cạn kiệt. Những loại còn lại đến năm 2014 chủ yếu là các loại quả như: bobo, hạt dẻ, sấu, cau, măng khô, mật ong,... Còn một vài loại là mới đang khai thác ồ ạt trong những tháng gần đây như cây Chè cỏ, Dây gai có tinh dầu the và lá co-ke và một số rễ và vỏ của các loài cây trong rừng như: Mua, Na, Chay, Quao. 35

Với tốc độ khai thác như hiện nay thì sự cạn kiệt của các loại LSNG là rất nhanh chóng và giá trị ĐDSH cũng suy giảm theo. 35





DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT


BTTN

Bảo tồn thiên nhiên

BVR

Bảo vệ rừng

CBD

Công ước đa dạng sinh học

DTSQ

Dự trữ sinh quyển

ĐDSH

Đa dạng sinh học

HST

Hệ sinh thái

KBTTN

Khu bảo tồn thiên nhiên

KBT

Khu bảo tồn

LSNG

Lâm sản ngoài gỗ

QHLN

Quy hoạch lâm nghiệp

QLBVR

Quản lý bảo vệ rừng

VQG

Vườn quốc gia

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Theo nguồn số liệu cung cấp từ Chi cục Kiểm Lâm, trong những năm gần đây, các loại LSNG quí và đặc biệt các loài cây thuốc quí đã cạn kiệt. Những loại còn lại đến năm 2014 chủ yếu là các loại quả như: bobo, hạt dẻ, sấu, cau, măng khô, mật ong,... Còn một vài loại là mới đang khai thác ồ ạt trong những tháng gần đây như cây Chè cỏ, Dây gai có tinh dầu the và lá co-ke và một số rễ và vỏ của các loài cây trong rừng như: Mua, Na, Chay, Quao. 35

Với tốc độ khai thác như hiện nay thì sự cạn kiệt của các loại LSNG là rất nhanh chóng và giá trị ĐDSH cũng suy giảm theo. 35




DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 3.1

Khai thác LSNG tại Pù Mát.

31

Hình 3.2

Đốt rừng làm nương rẫy tại Pù Huống.

34

Hình 3.3

Hoạt động khai thác vàng trái phép tại Pù Huống.

35

Hình 3.4

Hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An.

42

Hình 3.5

Rừng rậm thường xanh nhiệt đới gió mùa cây lá rộng trên đai thấp (VQG Pù Mát, 2014).

44

Hình 3.6

Rừng rậm thường xanh nhiệt đới thứ sinh cây lá rộng thường xanh (VQG Pù Huống, 2014).

47


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


Theo nguồn số liệu cung cấp từ Chi cục Kiểm Lâm, trong những năm gần đây, các loại LSNG quí và đặc biệt các loài cây thuốc quí đã cạn kiệt. Những loại còn lại đến năm 2014 chủ yếu là các loại quả như: bobo, hạt dẻ, sấu, cau, măng khô, mật ong,... Còn một vài loại là mới đang khai thác ồ ạt trong những tháng gần đây như cây Chè cỏ, Dây gai có tinh dầu the và lá co-ke và một số rễ và vỏ của các loài cây trong rừng như: Mua, Na, Chay, Quao. 35

Với tốc độ khai thác như hiện nay thì sự cạn kiệt của các loại LSNG là rất nhanh chóng và giá trị ĐDSH cũng suy giảm theo. 35



DANH MỤC PHỤ LỤC


Phụ Lục 1.

Danh lục các loài thực vật quý hiếm tại HST rừng đầu nguồn Nghệ An

75

Phụ Lục 2.

Danh lục các loài thú quý hiếm Hệ sinh thái rừng đầu nguồn Nghệ An

82

Phụ Lục 3.

Danh lục các chim quý hiếm tại HST rừng đầu nguồn Nghệ An

85

Phụ Lục 4.

Danh lục các loài lưỡng cư, bò sát quý hiếm

86



MỞ ĐẦU
Nghệ An là tỉnh thuộc khu vực Bắc trung bộ và được đánh giá là một trong những nơi có các hệ sinh thái tự nhiên rất phong phú và có độ đa dạng sinh học rất cao. Cũng như các hệ sinh thái tự nhiên khác, hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho sự phát triển. Không những thế, hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An khá đa dạng và phong phú về hệ động thực vật, đồng thời cũng là nơi cư trú của nhiều loài quý hiếm.

Trong những năm gần đây, sự phát triển của kinh tế, xã hội và đời sống đã dần đưa tỉnh Nghệ An có những chuyển biến rõ nét. Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang có tác động mạnh mẽ làm tăng mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Là một trong những tỉnh được thiên nhiên ưu đãi với các hệ sinh thái tự nhiên rất phong phú và độ đa dạng sinh học cao. Tuy nhiên, các hệ sinh thái này lại đang đứng trước những áp lực vô cùng to lớn của việc gia tăng dân số thêm vào đó là ô nhiễm môi trường và tác động của biến đổi khí hậu…đã và đang là mối đe dọa cho các hệ sinh thái đứng trước nguy cơ suy thoái nghiêm trọng.

Đứng trước những nguy cơ đó, cùng với việc thực hiện quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020 đính hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 01 năm 2014 thì UBND tỉnh Nghệ An cũng đã ban hành kế hoạch hành động về bảo vệ đa dạng sinh học, an toàn sinh học. Đây là những văn bản có tính pháp lý cao cho các kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Để có cơ sở dữ liệu cho việc xây dựng, ban hành các chương trình, giải pháp, kế hoạch thực hiện cụ thể trong công tác bảo vệ đa dạng sinh học và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên đang bị suy thoái trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung cũng như các hệ sinh thái rừng đầu nguồn trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng, học viên lựa chọn đề tài "Nghiên cứu, đánh giá hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An và định hướng bảo tồn hợp lý" là một trong những bước đi mở đầu cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong công tác bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ sinh thái tự nhiên trên địa bàn tỉnh nhà.

Với mục tiêu đặt ra là làm rõ hiện trạng tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An hiện nay. Xác định đúng vai trò của các HST rừng đầu nguồn trong lợi ích về sinh thái cảnh quan, môi trường và lợi ích kinh tế. Đề tài nghiên cứu tập trung vào đánh giá HST rừng đầu nguồn với những nội dung chính về đánh giá cấu trúc, đánh giá chức năng và đánh giá dịch vụ của HST rừng đầu nguồn trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Từ đó phân tích và xác định các nguyên nhân gây suy thoái và hậu quả do tác động từ việc suy thoái của các hệ sinh thái để tìm ra định hướng bảo tồn hợp lý các HST rừng đầu nguồn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu

a) Vị trí địa lý

Khu hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An nằm gọn trong khu vực của khu Dự trữ sinh quyển (DTSQ) miền Tây Nghệ An có tọa độ địa lý: Kinh độ: 103,874345 – 105,500152; vĩ độ: 18,579179 – 19,727594. Với tổng diện tích toàn khu DTSQ là 1.303.285 ha thuộc địa bàn 9 huyện miền núi (Con Cuông, Anh Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Thanh Chương, Tân Kỳ) đồng thời có 440,8 km biên giới hữu nghị với nước CHDC Nhân dân Lào.



b) Địa hình

Hệ sinh thái rừng đầu nguồn thuộc Khu DTSQ miền Tây Nghệ An có độ cao so với mực nước biển là 2000m. Kết quả nghiên cứu các đặc điểm địa mạo thuộc các huyện thuộc khu Hệ sinh thái rừng đầu nguồn cho thấy độ cao địa hình nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Bậc địa hình cao nhất phân bố dọc theo biên giới Việt – Lào thành một dải dài theo phương Tây Bắc- Đông Nam tạo thành các đỉnh như đỉnh Pù Hoạt, Pù Miêng, Pù Samtie, Pù Tong Chinh, Pù Xông, Pù Xai Lai Leng với độ cao từ 2000-2700 m. Thấp nhất là các bề mặt đáy thung lũng với độ cao từ 0-10 m phân bố dọc theo sông Cả và các sông suối trong khu vực. Trên cơ sở tổng hợp các tài liệu thực tế, bản đồ địa mạo ảnh, bản đồ trắc lượng hình thái và các tài liệu có trước địa hình khu vực nghiên cứu được chia thành hai nhóm bề mặt địa hình chính:

- Nhóm bề mặt nguồn gốc tích tụ: Khu vực nghiên cứu có hệ thống sông suối khá dày đặc song các sông suối đều ngắn, dốc, lòng hẹp, nước chảy xiết do đó ít thuận lợi cho việc hình thành địa hình tích tụ. Vì lẽ đó địa hình tích tụ chỉ chiếm điện tích rất nhỏ (khoảng 2%), bao gồm bãi bồi, bậc thềm I, bậc thềm II, bậc thềm III, bề mặt tích tụ sườn – lũ tích, bề mặt tích tụ sông – lũ tích.

- Nhóm bề mặt nguồn gốc bóc mòn xâm thực: Các bề mặt thuộc nhóm này chiếm diện tích chủ yếu của vùng nghiên cứu bao gồm các bề mặt san bằng và các bề mặt sườn.

c) Khí hậu, thủy văn khu vực:



Nằm trong Khu DTSQ miền tây nên HST rừng đầu nguồn cũng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông bắc và Tây Nam. Do địa hình của dãy Trường Sơn ảnh hưởng mạnh đến hoàn lưu khí quyển đã tạo nên sự khác biệt lớn trong phân hoá khí hậu khu vực.

Gió Tây khô nóng: đây là vùng chịu ảnh hưởng có gió Tây khô nóng. Hoạt động của gió Tây thường gây nên hạn hán trong thời kỳ đầu và giữa mùa hè (tháng 5-7). Trong những ngày này nhiệt tối cao có thể vượt quá 40oC và độ ẩm tối thấp xuống dưới 30%.

Mưa bão: Vùng này ít chịu ảnh hưởng của mưa bão, hai tháng nhiều bão nhất là tháng 9 và tháng 10. Bão tuy đã yếu nhưng thường kèm theo mưa lớn và lụt lội. Nhìn chung đây là một trong những vùng có chế độ khí hậu ít thuận lợi của tỉnh Nghệ An.

Khu BTTN Pù Huống thuộc khí hậu miền Trường sơn Bắc, miền này có khác với Đông Bắc và Tây Bắc nhưng riêng Pù Huống lại có những đặc thù riêng. Khí hậu không những phân hóa theo độ cao từ 200m đến 1600m mà còn phân hóa do ảnh hưởng yếu dần của mùa Đông Bắc tới sườn Bắc Pù Huống và sườn Nam lại chịu ảnh hưởng của vùng khô hạn điển hình Mường Xén-Kỳ Sơn. Sự mạnh lên của gió mùa Tây Nam và suy yếu của gió mùa Đông Bắc khi tới Pù Huống tạo nên những nét riêng của Pù Huống. Chế độ nhiệt, mưa ẩm, số ngày mưa và ẩm độ cũng sai khác qua các trạm bao quanh Pù Huống như: Tương Dương, Con Cuông, Quỳ Châu…

Chế độ thủy văn khu vực Pù Mát được các trạm thủy văn đo đạc và lưu trữ cho thấy trong khu vực có hệ thống sông Cả chảy theo hướng TB – ĐN. Các chi lưu phía hữu ngạn như Khe Thơi, Khe Choang, Khe Khặng lại chảy theo hướng Tây Nam lên Đông Bắc và đổ nước vào sông Cả. Dưới góc độ giao thông thuỷ thì cả ba con sông trên đều có thể dùng bè mảng đi qua một số đoạn nhất định, riêng Khe Choang, Khe Khặng có thể dùng thuyền máy ngược dòng ở phía hạ lưu. Nhìn chung mạng lưới sông suối khá dày đặc. Với lượng mưa trung bình năm từ 1300-1400 mm, nguồn nước mặt trên diện tích của VQG lên tới hơn 3 tỷ m3. Song lượng nước đó phân bố không đều giữa các mùa và các khu vực nên tình trạng lũ lụt và hạn hán thường xuyên xảy ra.

Thủy văn vùng Pù Hoạt thuộc là vùng đầu nguồn của hai hệ sông: sông Chu ở phía Bắc bắt nguồn từ phía Tây Pù Hoạt (Lào) với tên là Nậm Xam chảy qua huyện Hửa Phăn, vào Việt Nam với tên là sông Chu, hệ sông Hiếu với các suối Nậm Việc, Nậm Giải, Nậm Quang. Các hệ suối chính kể trên đều chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam, cách nhau từ 10 – 25 km. Dòng chảy mạnh, thường xuyên có nước cả mùa khô, mật độ suối nhánh từ 2 – 4 km/suối. Do địa hình chia cắt sâu, đôi chỗ do đứt gẫy mạnh đã hình thành nên nhiều thác nước trong Khu bảo tồn mà thác lớn nhất có giá trị cảnh quan du lịch là thác Sao Va. Những kết quả khảo sát năm 1997 cho thấy rừng Pù Hoạt có bị tác động ở một số điểm ven suối gần làng bản, nhưng tính nguyên sinh còn giữ được ở phần lớn diện tích với tỷ lệ cao.

d) Đất đai

Vùng nghiên cứu chủ yếu ở vùng núi đặc điểm của đất bao gồm các nhóm đất sau:



Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét: Phân bố trên một phạm vi rộng khắp các huyện, tập trung nhiều ở Tương Dương, Con Cuông, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp. Đất đỏ vàng trên phiến sét có hầu hết ở các loại địa hình nhưng tập trung ở vùng núi thấp, độ dốc lớn, tầng đất khá dày; ở các vùng thấp đất đỏ vàng trên phiến sét gặp nhiều trên các đồi đất, tầng đất mỏng hoặc trung bình. Đất đỏ vàng trên phiến sét ở vùng có thảm thực vật cây bụi là loại đất có độ phì khá, độ mùn từ 2 – 4%, đạm từ 0,1 ÷ 0,25%, lân từ 0,006 ÷ 0,07%, kali từ 1 ÷ 2%, độ chua cao, pHKCL < 4, thành phần cơ giới từ thịt nặng đến sét nhẹ, độ dày tầng đất phần nhiều trên 50 cm; ở trên các vùng có thảm thực vật là cỏ và đất hoang hoá (do bị xói mòn mạnh) tầng đất thường mỏng từ 30 ÷ 50 cm.

Đất vàng nhạt phát triển trên sa thạch và cuội kết: Phân bố rải rác theo dải hẹp xen giữa các dải đất phiến thạch kéo dài theo hướng Tây bắc – Đông nam của tỉnh qua nhiều huyện miền núi và trung du như Thanh Chương, Anh Sơn, Tân Kỳ, Tương Dương, Kỳ Sơn,… Do thành phần cơ giới tương đối nhẹ hơn so với đất phiến thạch sét nên đất vàng nhạt trên sa thạch thường bị xói mòn mạnh, tầng đất tương đối mỏng và nhiều nơi trơ sỏi đá. Chỉ có một số nơi địa hình núi cao, thảm thực vật che phủ khá mới có độ dày tầng đất từ 50 ÷ 70 cm. Đất vàng nhạt trên sa thạch thường nghèo dinh dưỡng, ở các vùng núi cao lượng mùn từ 1,5 ÷ 2,5%; ở vùng thấp lượng mùn thường không quá 1,5%. Các chỉ tiêu như đạm, lân, kali điều nghèo, độ chua cao pHKCL < 4, độ bazơ thấp, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến cát pha, hạt rời rạc, khả năng giữ nước và kết dính kém, thành phần keo sét thấp, khả năng giữ màu kém.

Đất vàng đỏ phát triển trên các đá axit: Phân bố rải rác ở các huyện Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Quỳ Châu,… Phần lớn đất vàng đỏ trên đá axit có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dinh dưỡng, bị xói mòn rửa trôi mạnh, độ chua lớn (pHKCL < 4), ít có nghĩa trong sử dụng sản xuất nông nghiệp.

Đất đỏ nâu trên đá vôi: Phân bố rải rác ở các huyện: Tân Kỳ, Nam Đàn, Quỳ Hợp,… Ngược lại với các loại đất khác, đất đỏ nâu trên đá vôi ở các vùng địa hình thấp thường có tầng dày hơn; ở vùng núi cao đất đá vôi bị phong hoá và rửa trôi mạnh nên tầng đất mỏng hơn. Tuy nhiên, phần lớn đất đá vôi có độ dày tầng đất khá thường trên 50 cm, độ phì ở đất đá vôi khá, mùn từ 2 ÷ 4%; đạm trên 0,15%, đất chua pH < 4, độ no bazơ nhỏ dưới 50%.

Đất Feralit đỏ vàng trên núi, đất mùn trên núi cao: Đất Feralit vùng đồi: Tập trung ở Thanh Chương và Anh Sơn, phần lớn là đồi trọc, hoặc có cây bụi do rừng bị tàn phá. Do đất bị rửa trôi, xói mòn nhiều nên ít mùn (<2%), độ chua cao (pH = 4 ÷ 4,5), có hiện tượng đá ong hoá mạnh.

- Đất Feralit vùng núi thấp có thảm thực vật che phủ tương đối cao. Do sườn núi dốc mạnh, nước ngầm không đọng lại trong đất, dòng nước ngầm chảy mạnh, nên các dạng kết vón và tầng đá ong không phát triển được. Hàm lượng mùn 2 ÷ 4%; đạm tổng số 0,1 ÷ 0,25%; lân tổng số 0,06 ÷ 0,07%; kali tổng số 1 ÷ 2%; độ chua thuỷ phân 6,61đl ÷ 15đl/100g đất, tổng số cation trao đổi 91đl ÷ 14đl/100g đất, thành phần cơ giới từ thịt nặng đến sét nhẹ, độ dày tầng đất phổ biến trên 50 cm, ở các nơi đồi trọc, đất hoang hoá, tầng đất mỏng hơn (30 cm –50 cm).



Đất Feralit trên núi cao do khí hậu mang tính á nhiệt đới, độ ẩm tăng do mưa nhiều, rừng bị tàn phá, thực vật còn nhiều, trong đó số lượng cây rụng lá tăng lên nên hàm lượng mùn cao (5 – 8%).

- Đất Feralit mùn trên núi cao: có ở độ cao từ 1800 m trở lên, khí hậu mang tính á ôn đới rõ rệt, có thời gian nhiệt độ hỗn giao giữa chất hữu cơ được phân dải rất chậm nên lượng mùn cao (8 – 12%). Đất xốp, giữ nước mạnh, kết cấu tốt.

Đất phù sa: Phân bố rải rác ở các sông như: sông Cả, sông Giăng, sông Con. Đất hàng năm bị ngập do lụt, lượng phù sa lớn, độ phì cao. Đây là vùng đất có ý nghĩa trong sản xuất nông nghiệp, chuyên trồng các loại cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.

e) Kinh tế xã hội



Một dải các Khu bảo tồn Thiên nhiên Pù Hoạt, Pù Huống và Vườn Quốc gia Pù Mát thuộc khu DTSQ miền Tây Nghệ An sẽ gắn kết những giá trị tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan, truyền thống văn hóa góp phần phát triển kinh tế đảm bảo xây dựng thành công chiến lược phát triển bền vững của đất nước..

Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên trong toàn vùng rất đa dạng và phong phú. Du khách có thể khám phá những giá trị cảnh quan rất phong phú đặc sắc của toàn vùng từ Pù Hoạt xuống Pù Huống và tới Pù Mát, từ những dãy núi Pù Hoạt – Pù Pha Lâng – Pù Nhích – Pù Phà Nhà kéo dài xuống Pù Khạng, Pù Huống với đỉnh cao trên 1500 m nối tiếp nhau (đỉnh cao nhất 2452 m) trên lưu vực sông Cả về phía Bắc ; dãy núi Pù Xai Lai Leng, Pù Đen Đin, Pù Mát, Cao Vều trên lưu vực sông Cả về phía Nam, với nhiều đỉnh cao trên 1.000m. Hệ thống sông suối thượng nguồn của lưu vực sông Cả không chỉ tạo nên cảnh quan độc đáo mà còn đậm nét các vùng văn hóa nhân văn bản sắc tộc người Thái (ven sông Hiếu, sông Nậm Mô, sông Khe Thơi), tộc người Ơ Đu (ven sông Nậm Nơn), tộc người Đan Lai (sông Khe Choang), và đan xen nhiều nền văn hóa ven sông suối. Đây chính là những giá trị cảnh quan thiên nhiên và giá trị bản sắc các nền văn hóa gắn liền với tiềm năng du lịch mà vẫn chưa được khai thác.

Một số chính sách của địa phương đã khuyến khích phát triển du lịch sinh thái lồng ghép các nội dung du lịch văn hóa, có sự tham gia đích thực của các cộng đồng tộc người bản địa, là một trong những thế mạnh thúc đẩy phát triển bền vững toàn vùng. Hoạt động du lịch với các mục tiêu nâng cao nhận thức bảo tồn thiên nhiên và tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống đem lại những lợi ích an sinh thực sự cho địa phương có Khu dự trữ sinh quyển. Các hoạt động này đang góp phần nâng cao hiệu quả bảo tồn và tôn tạo những cảnh quan thiên nhiên, đa dạng sinh học, các nguồn gen nhiều loài quí hiếm. Chính công việc bảo tồn sẽ trợ giúp cho phát triển kinh tế.

Thực hiện chỉ đạo của Chính Phủ về Chương trình hỗ trợ phát triển các dân tộc ít người đặc biệt khó khăn và có nguy cơ tuyệt chủng, triển khai dự án “Hỗ trợ phát triển dân tộc Ơ Đu ở miền núi Nghệ An” nhằm thực hiện phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái ở vùng dân tộc Ơ Đu đạt được ổn định lâu dài, bảo tồn và phát huy những yếu tố văn hóa đặc trưng của người Ơ Đu bản địa. Hiện nay, vùng đệm thuộc các khu DTSQ đã tăng cường các hoạt động phát triển kinh tế. Các hoạt động kinh tế của cộng đồng dân cư vùng đệm là sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và tham gia khai thác lâm sản phi gỗ. Thu nhập chính của đại bộ phận người dân trong vùng từ nông nghiệp và chăn nuôi. Tuy nhiên, trong vùng vẫn có những hộ gia đình có nguồn thu tiền mặt chủ yếu từ thu hái lâm sản. Nhìn chung, mức sống của người dân trong vùng rất thấp do họ chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp trong khi thiếu đất canh tác, thiếu vốn đầu tư, chưa áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất và họ cũng không có nghề phụ.

Cơ sở hạ tầng ở các xã vùng đệm gặp nhiều khó khăn. Hầu hết tất cả các xã chưa tiếp cận với lưới điện quốc gia, phần lớn dân trong vùng dùng máy thuỷ điện nhỏ.

Hệ thống giao thông trong vùng rất khó khăn, phần lớn các xã có thể tiếp cận bằng đường ô tô song là đường đất, hệ thống cầu chưa được xây dựng nên rất khó tiếp cận trong mùa mưa. Hiện tại một vài xã chỉ có thể tiếp cận bằng đường sông như xã Hữu Khuông, Yên Tĩnh huyện Tương Dương. Mạng lưới giáo dục đã tới các thôn bản song chưa đảm bảo chất lượng phục vụ. Cũng như giáo dục, hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ cũng gặp khó khăn về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và chất lượng cán bộ.

1.2. Khái quát các nghiên cứu chức năng hệ sinh thái rừng trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Trên thế giới

Hệ sinh thái là tổ hợp của một quần xã sinh vật với môi trường vật lý, nơi mà quần xã đó tồn tại, trong đó các sinh vật tương tác với nhau và tương tác với môi trường để phát triển ổn định theo thời gian thông qua hoạt động của các chu trình sinh địa hóa và sự biến đổi năng lượng.

Hệ sinh thái rừng là một hệ sinh thái mà thành phần nghiên cứu chủ yếu là sinh vật rừng và môi trường vật lý của chúng. Đặc trưng cơ bản của hệ sinh thái rừng là trong tổ thành thực vật, loài cây cao phải chiếm ưu thế, chúng có một mật độ nhất định mọc chung với nhau trên một diện tích nhất định, giữa các thực vật hệ sinh thái rừng với nhau và giữa thực vật hệ sinh thái rừng với hoàn cảnh có mối quan hệ qua lại với nhau, hệ sinh thái rừng luôn luôn vận động theo những quy luật của hệ sinh thái và hình thành nên những quần xã có tính ổn định cao, luôn diễn ra các quá trình chức năng để đảm bảo duy trì tính ổn định của HST như:

Quá trình tổng hợp và phân hủy các chất hữu cơ trong hệ sinh thái.

Điều khiển sinh học của môi trường hóa học trong hệ sinh thái.

Quá trình sinh địa hóa học.

Rừng đầu nguồn là hệ sinh thái rừng nằm thượng lưu của các lưu vực các con sông. Cũng như các hệ sinh thái khác, hệ sinh thái rừng đầu nguồn là một trong những hệ sinh thái thành phần năng động nhất của sinh quyển. Rừng đầu nguồn có ảnh hưởng tổng hợp đến môi trường xung quanh, là trung tâm trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho sự phát triển bền vững của loài người. Trong phạm vi ảnh hưởng qua lại giữa rừng với sinh quyển, chúng ta có thể nhận thấy một chức năng cực kỳ quan trọng của hệ sinh thái rừng là chức năng sinh quyển. Đó là sự hình thành sinh quyển và cải biến sinh quyển. Chức năng này biểu hiện ở chỗ, hệ sinh thái rừng có khả năng cải biến tình trạng của sinh quyển. Trên bình diện chung, chức năng sinh quyển của hệ sinh thái rừng là chức năng lớn nhất. Nó biểu hiện ở khả năng hấp thu và cải biến năng lượng ánh sáng mặt trời, sản xuất chất hữu cơ và giải phóng ra oxy tự do. Những chức năng còn lại (hình thành và cải biến khí hậu; hình thành và bảo vệ đất; hình thành và bảo vệ nguồn nước; hình thành sinh cảnh,…) là chức năng sản xuất và bảo tồn sự sống.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của mọi sự sống, bao gồm trong đó cả đời sống con người. Hệ sinh thái đảm bảo cho sự vận động không ngừng của các nguyên tố hóa học giữa môi trường và quần xã sinh vật, duy trì sự ổn định và màu mỡ của đất đai, điều tiết nước ngầm, chống xói lở bờ bãi, điều hòa chế độ thủy văn, khí hậu, thời tiết, thanh lọc các chất ô nhiễm. Ngoài ra, các hệ sinh thái còn có các chức năng dịch vụ. Có thể phân thành bốn loại dịch vụ của hệ sinh thái như sau:



Dịch vụ cung cấp: Hệ sinh thái mang đến những lợi ích trực tiếp cho con người, thường có giá trị kinh tế rõ ràng, đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực của đất, nước; duy trì nguồn gen tạo giống vật nuôi, cây trồng; cung cấp các vật liệu xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu; cung cấp khoảng 80% lượng thủy sản khai thác từ vùng biển ven bờ và đáp ứng gần 40% lượng protein cho người dân. Ở Việt Nam, khoảng 25 triệu người sống trong hoặc gần rừng và khoảng 20% thu nhập của họ từ lầm sản ngoài gỗ. Nghề thủy sản đem lại nguồn thu nhập chính cho khoảng 8 triệu người và một phần thu nhập cho khoảng 12 triệu người.

Dịch vụ văn hóa: Hệ sinh thái không chỉ cung cấp những lợi ích vật chất trực tiếp mà còn đóng góp vào những nhu cầu lớn hơn của xã hội. Những nhu cầu này khiến con người tự nguyện chi trả cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học. Các hệ sinh thái có tính ĐDSH cao cung cấp giá trị vô cùng to lớn cho các ngành giải trí ở Việt Nam với các loại hình du lịch sinh thái đang dần dần phát triển, hứa hẹn đem lại nhiều giá trị kinh tế và góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của ĐDSH và công tác bảo tồn thiên nhiên. Khoảng 70% sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch là dựa vào các vùng ven biển, nơi có rất nhiều các hệ sinh thái tự nhiên với tính đa dạng sinh học cao.

Dịch vụ điều tiết: Một loạt những chức năng thiết yếu của hệ sinh thái thường không đươc định giá trong thị trường truyền thống. Các chức năng dịch vụ này bao gồm: Sự điều hòa khí hậu qua sự lưu trữ Cacbon và kiểm soát lượng mưa, lọc không khí và nước, phân hủy các chất thải trong môi trường, giảm nhẹ những tác hại của thiên tai như lở đất hay bão biển.

Dịch vụ hỗ trợ: Tuy không làm lợi trực tiếp cho con người nhưng là yếu tố thiết yếu trong các chức năng của hệ sinh thái, do đó gián tiếp ảnh hưởng đến tất cả các loại dịch vụ.

Từ các chức năng cơ bản của hệ sinh thái rừng, nhiều nghiên cứu hệ sinh thái rừng và ảnh hưởng của rừng đến môi trường đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định vai trò to lớn của rừng trong việc phòng hộ đầu nguồn. Các chức năng phòng hộ của rừng bao gồm cả việc giữ đất và do đó kiểm soát xói mòn và quá trình lắng đọng bùn cát, điều tiết dòng chảy, hạn chế lũ lụt, cung cấp nguồn nước, kiểm soát chất lượng nước... Việc mất đi lớp thảm phủ rừng do việc khai thác gỗ bừa bãi hoặc sử dụng đất không hợp lý ở vùng đầu nguồn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với vùng hạ lưu (Hamilton và King, 1993) [17].

Ở các nước phát triển trên thế giới, việc nghiên cứu về sinh thái rừng đã sớm được nghiên cứu và giới thiệu trong các tài liệu và diễn đàn quốc tế từ đầu thế kỷ 20. Mấy chục năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về rừng đã bước đầu cho thấy sự thoái hóa lập địa do khai thác rừng Thông Pinus radiata với chu kỳ ngắn ở Úc. Theo các tác giả, có tới 90% chất dinh dưỡng trong sinh khối bị lấy đi khỏi rừng khi khai thác. Turvey (1983)) [29] cũng cho rằng sự thay thế rừng Bạch đàn tự nhiên bằng rừng Thông Pinus radiata với chu kỳ chặt 15- 20 năm cũng làm giảm độ phì của đất do khai thác gỗ. Mặt khác, tầng thảm mục dày và khó phân giải của Thông cũng làm chậm sự quay vòng của các nguyên tố khoáng và đạm ở các lập địa này.

Trong vùng nhiệt đới, rừng cây mọc nhanh ảnh hưởng đến đất không chỉ ở việc tiêu thụ dinh dưỡng. Tốc độ tuần hoàn vật chất cũng diễn ra một cách nhanh chóng hơn. Những nghiên cứu gần đây tập trung tìm hiểu về các chức năng sinh thái môi trường của rừng. Theo Lee Soo-hwa (Lee-Soo-hwa, 2007, http://www.korea.net/news/news) [16] cho rằng đất rừng tốt có thể thấm được khoảng 250 mm nước mưa trong một giờ. khi rừng được cải thiện tầng tán thì sẽ tạo điều kiện cho nước mưa thấm vào đất nhiều hơn, đất lưu giữ được nước tốt hơn và sự chiếu sáng sẽ làm cho các vi sinh vật đất như giun hoạt động tốt hơn. Vì vậy có tác dụng duy trì nguồn nước và cải thiện nguồn nước tốt hơn.

Farley và cộng sự (2005) [29] đã chỉ ra rằng khi đất trảng cỏ và đất cây bụi chuyển sang rừng bằng phương thức trồng hoặc khoanh nuôi thì lượng dòng chảy năm giảm đi 44% và 31%. Nisbet (2001) [29], đã chứng minh rừng có thể có tác dụng làm giảm dòng chảy mặt và chống xói mòn tốt; tuy nhiên các hoạt động trồng rừng và tác động vào rừng như: làm đường giao thông, làm đất khi trồng rừng, chăm sóc rừng, khai thác ...có thể dẫn tới làm tăng dòng chảy mặt và xói mòn cho lưu vực.

Theo Zhang và cộng sự (2007) [29] cho rằng, nếu các chỉ số về trạng thái thảm thực vật rừng (cấu trúc, loại đất, địa hình...) có ảnh hưởng đến dòng chảy của lưu vực thì phân bố không gian của rừng cũng ảnh hưởng quan trọng, nhất là khi rừng được phân bố ở những khu vực tiếp nối trực tiếp với hệ thống tích nước của thuỷ vực như sông, suối, hồ... Ngoài ra, những khoảng trống ở phần trên sườn dốc có thể gây ra ảnh hưởng đối với dòng chảy mặt ở phần dưới sườn dốc. Vì vậy, cần ưu tiên lựa chọn vùng trồng rừng cho hợp lý trên quan điểm quản lý nguồn nước.

M. Guardiola và cộng sự (2010) [29], việc thay thế các rừng cây bản địa bằng rừng Cao su ở Nam Keng (Trung Quốc) và ở Pang Khum (miền Bắc Thái Lan) đã làm tăng lượng bốc thoát hơi nước, do đó làm giảm dòng chảy cũng như lượng nước được tích trữ trong lưu vực. Mặc dù, việc trồng rừng và những biện pháp bảo tồn đất có những tác dụng nhất định trong việc giảm đỉnh lũ nhưng ít có trường hợp nào cho thấy các biện pháp đó có tác dụng làm tăng dòng chảy kiệt.

Ảnh hưởng sự phấn bố không gian của rừng tới nguồn nước đã được nghiên cứu một cách khá hệ thống trong công trình của Carsten và cộng sự (2007) [29]. Công trình này đã thừa nhận vai trò của rừng đối với việc cải thiện nguồn nước và chu trình vật chất; đồng thời nghiên cứu này cũng khẳng định rằng ảnh hưởng của rừng tới nước trên quy mô rộng vẫn cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa.

Nghiên cứu sử dụng đất rừng phòng hộ đầu nguồn là lĩnh vực cũng được quan tâm. Các mô hình sử dụng đất đã được xây dựng có thể kể tới như: mô hình du canh của Conklin, 1975; tiếp đó là phương thức Taungya được U.Pankle đề xuất năm 1806. Phương thức Taungya của Pankle là trồng xen cây nông nghiệp ngắn ngày vào rừng Tếch chưa khép tán. Đến năm 1977 King đã đề xuất phương thức nông lâm kết hợp thay thế cho phương thức Taungya.

Các giải pháp phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Các tác giả chủ yếu quan tâm tới các vấn đề như tái sinh rừng nhiệt đới, tổ thành cây tái sinh có khác biệt hay giống với tầng cây cao như các tác giả: Mibbread, 1930; Richards, 1933, 1939,1965; Aubrerrille, 1983;... [5]. Các phương thức kỹ thuật lâm sinh xử lý nhằm xúc tiến tái sinh rừng nhiệt đới cũng được nghiên cứu bởi nhiều tác giả như Kennedy, 1935; Lancaster, 1953...



1.2.2. Ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Tài nguyên rừng của nước ta khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây rừng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị khai thác quá mức, kèm theo đó là sự suy giảm đáng kể các chức năng sinh thái mà rừng đã và đang cung cấp trong việc bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai.Trước tình hình đó vấn đề về môi trường rừng đã được khởi động nghiên cứu, tuy nhiên, do nhiều lý do các nghiên cứu về sinh thái môi trường rừng chưa được chú ý đúng mức, vẫn còn rất nhiều bất cập và cần thiết phải có nhiều các công trình nghiên cứu tiếp theo. Một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này có thể được ghi nhận là:

+ Nghiên cứu đánh giá tác động của rừng tới môi trường, đặc biệt là rừng tự nhiên ở nước ta đã được chú ý từ đầu những năm 1970 với cơ sở ban đầu do Liên Xô cũ giúp đỡ, nội dung nghiên cứu tập trung vào khả năng chống xói mòn và điều tiết nguồn nước của các trạng thái rừng; các nội dung nghiên cứu khác như vai trò điều tiết tiểu khí hậu, đất đai... nhưng chưa nhiều và hệ thống.

+ Từ năm 1973 đến năm 1981 Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp đã xây dựng các khu nghiên cứu thuỷ văn rừng định vị ở Núi Tiên (Hữu Lũng) và Tứ Quận (Hà Tuyên). Các công trình nghiên cứu trong thời gian này tập trung chủ yếu vào nghiên cứu một số các nhân tố khí hậu rừng, khả năng ngăn cản nước mưa của tán rừng, ảnh hưởng của độ tàn che rừng tới khả năng giữ đất và điều tiết dòng chảy mặt của rừng như công trình của Bùi Ngạnh và Nguyễn Danh Mô (1984)[18], của Hoàng Niêm (1994)[20]... Đây là những công trình nghiên cứu khởi điểm tạo lập được một số cơ sở khoa học cho việc xây dựng rừng giữ nước, bảo vệ đất.

+ Trong những năm 1980 các công trình nghiên cứu đã tập trung vào xói mòn đất và khả năng giữ nước của một số thảm cây trồng nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là ở các vùng Tây Nguyên. Trong thời gian này, nhiều khu nghiên cứu quan trắc định vị đã được xây dựng kiên cố bằng gạch và xi măng, gỗ, kim loại,… Hàng loạt các công trình mang nhiều sắc thái và đi vào định lượng một cách vững chắc như công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ, Lê Thạc Cán (1983), của Nguyễn Quang Mỹ, Quách Cao Yêm, Hoàng Xuân Cơ (1984)[3]... Những công trình nghiên cứu này đã làm rõ ảnh hưởng của nhân tố địa hình tới xói mòn, vai trò phòng hộ về chống xói mòn của một số thảm thực vật, định hướng cho việc xây dựng các giải pháp phòng chống xói mòn trên đất dốc.

Đầu những năm 1990, khi nước ta thực hiện chương trình 327 với đối tượng chủ yếu là rừng phòng hộ, nghiên cứu thuỷ văn và xói mòn đất rừng cũng được đẩy mạnh. Nguyễn Ngọc Bình đã nghiên cứu về các biện pháp công trình và cây xanh che phủ ở Bắc Thái, Sơn La... Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1996)[14] đã nghiên cứu phân cấp xung yếu cho lưu vực nguồn nước. Kết quả những nghiên cứu này cho thấy độ dốc tăng từ 10-15o thì xói mòn sẽ tăng lên 21,44%. Khi chiều dài sườn dốc tăng lên gấp đôi thì xói mòn cũng tăng lên gấp 2 lần. Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996)[8], Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1996) [14] đã xây dựng 20 khu nghiên cứu định vị ở Tây Nguyên dưới các dạng thảm thực vật có cấu trúc khác nhau. Đây là những công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về xói mòn đất rừng ở nước ta, đặc biệt là đã làm rõ vai trò phòng hộ chống xói mòn và điều tiết nước của rừng. Các nghiên cứu của Võ Đại Hải cho thấy khi giảm độ tàn che từ 0,7 - 0,8 xuống mức 0,3 - 0,4 thì dòng chảy mặt tăng 30,4% đối với rừng tự nhiên và 33,8% đối với rừng Le. Khi độ dốc tăng lên thì thì lượng dòng chảy cũng tăng lên. Chẳng hạn khi độ dốc tăng lên 2 lần thì lượng dòng chảy mặt tăng lên 58,1%.

Thanh Te, Trần Quốc Thưởng, Phạm Anh Tuấn (2005)[29] nghiên cứu tác động của lớp phủ thực vật đến khả năng gây xói mòn đất và vận chuyển bùn cát trên lưu vực sông chợ Lèn đã nhận thấy lớp phủ thực vật càng dày thì khả năng làm chậm dòng chảy trên bề mặt sườn dốc càng tăng (từ 7 - 11 lần).

Một số tác giả khác đã tập trung nghiên cứu vai trò điều tiết nước, xói mòn của rừng, ảnh hưởng của thảm thực vật đến dòng chảy của các con sông, suối như công trình của Nguyễn Viết Phổ (1992), Vũ Văn Tuấn (1982)[33], Thái Phiên và Trần Đức Toàn (1988)[31]... Những nghiên cứu này đã cho ta thấy vai trò điều tiết nước hữu hiệu của thảm thực vật rừng, đặc biệt là việc cung cấp nước cho các con sông, suối vào mùa khô, dòng chảy kiệt ở những vùng có rừng cao hơn những vùng không có rừng.

Khi so với lượng mưa, dòng chảy mặt biến động rất lớn và thường dao động trong khoảng từ 3 - 5% đối với rừng Thông (Ngô Đình Quế, 2008)[22] trong đó cao nhất ở trảng cỏ đến thảm cây bụi, rừng trồng và thấp nhất ở rừng tự nhiên. Lượng dòng chảy mặt phụ thuộc vào nhân tố lượng mưa, địa hình, tính chất đất, cấu trúc thảm thực vật và cả phương pháp quan trắc. Hệ số dòng chảy mặt có liên hệ chặt chẽ với các nhân tố độ dốc mặt đất, hệ số xói mòn đất, độ giao tán hoặc độ tàn che tầng cây cao, độ che phủ của thảm tươi cây bụi và độ che phủ của rừng (Phạm Thị Hương Lan, 2005)[12]

Theo Nguyễn Quang Mỹ (1990) thì vật rơi rụng ở trạng thái thô có thể hút được lượng nước bằng 1,38 lần trọng lượng khô của nó, nếu đã bị phân huỷ 30 - 40% thì có thể hút được lượng nước gấp 3,21 lần trọng lượng khô. Về giá trị tuyệt đối, lớp thảm mục có thể hút được 35,840 lít nước trên 1 ha rừng tự nhiên (tương đương với một trận mưa 3,6 mm). Tuy nhiên thì tỷ lệ % lượng nước hữu hiệu của vật rơi rụng thấp hơn tỷ lệ % lượng giữ nước tối đa của nó (chỉ đạt từ 2,5 - 83,2 mm/ha/năm, tương đương với mức 0,1 - 4,6% tổng lượng mưa)[14].

Trong nghiên cứu về vai trò bảo vệ nguồn nước của 4 dạng thảm thực vật (thảm cây bụi cao, thảm cây bụi thấp, rừng trồng Keo và rừng trồng Bạch đàn), Nguyễn Thế Hưng (2008) đã cho thấy khả năng giữ nước của các thảm thực vật giảm dần từ thảm cây bụi cao đến rừng trồng Keo, rừng trồng Bạch đàn và thấp nhất là thảm cây bụi thấp, với tổng lượng nước hàng năm giữ được trong các thảm thực vật tương ứng là 988,97 tấn/ha, 639,07 tấn/ha, 724,58 tấn/ha và 660,62 tấn/ha.

Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Nghiên cứu của Võ Minh Châu (1993)[5] cho thấy sự suy giảm diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn Mọ từ 23,971 ha xuống còn 6.000 ha đã làm cho nước hồ Kẻ Gỗ giảm đi đáng kể, giảm từ 340 triệu m3 nước xuống còn 60 triệu m3. Do đó không đảm bảo nước cho sản xuất nông nghiệp trên diện tích 6.000 ha.

Một số công trình nghiên cứu đã được tiến hành về sử dụng đất dốc, hạn chế xói mòn và tăng độ phì của đất cho một số vùng với những đối tượng cụ thể. Việc thiết lập băng cây xanh theo đường đồng mức nhằm chia cắt dòng chảy bề mặt có hiệu quả cao, lượng nước trôi có thể giảm từ 31% - 42%, lượng đất trôi có thể giảm 49% - 52% và năng suất cây trồng tăng 41% - 43% (Đậu Cao Lộc và các cộng tác viên, 1998). Mặc dù hàng rào cây xanh họ đậu chiếm khoảng 10% diện tích, song năng suất cây trồng vẫn tăng 15 - 25% so với không làm băng xanh (Nguyễn Tử Xiêm và Thái Phiên)[31].

Nghiên cứu của Trần Quang Bảo (1999)[1] tại Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh cho thấy cường độ xói mòn đất dưới tán rừng Bạch đàn trắng phụ thuộc vào mật độ rừng trồng và độ xốp, độ dốc, độ dày tầng đất. Số liệu nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ (1984)[3] ở Tây Nguyên cho thấy độ tàn che của thảm cây trồng có ảnh hưởng rất lớn tới độ vẩn đục của dòng chảy (hay còn gọi là dòng rắn), thảm cây trồng có độ che phủ yếu thì nồng độ đậm đặc của dòng chảy chiếm tỉ lệ cao hơn.

Nguyễn Xuân Quát (1996)[21] đã nghiên cứu “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”, kết quả đã đưa ra được các mô hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững, khoanh nuôi và phục hồi rừng Việt Nam, bước đầu đề xuất tập đoàn cây trồng thích ứng cho các mô hình này. Nguyễn Hoàng Nghĩa (2003)[19] cũng đã có nghiên cứu xác định phạm vi phân bố và vùng tiềm năng trồng rừng của một số loài cây dựa vào nhu cầu khí hậu.

Trong những năm gần đây, phương pháp nghiên cứu xói mòn theo các mô hình định lượng được phát triển mạnh nhờ công nghệ tin học và GIS. Ưu điểm của phương pháp này là nhanh, độ chính xác cao. Ở Việt Nam đã có một số tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu này ở các mức độ khác nhau như: Phạm Ngọc Dũng - trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Nguyễn Quang Mỹ - Đại học Tổng hợp, Võ Đại Hải - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam; Lại Huy Phương - Viện Điều tra Quy hoạch Rừng.



1.2.3. Tình hình nghiên cứu hệ sinh thái rừng đầu nguồn trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Hệ thống rừng tại Việt Nam đã phát huy tốt vai trò bảo vệ nguồn đa dạng sinh học,… nguồn gen sinh vật, di tích lịch sử, văn hóa, cảnh quan môi trường rừng; góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế, xã hội ở cấp quốc gia và địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mặc dù nhiều nỗ lực đã thực hiện để giảm tốc độ xói mòn ĐDSH, nhưng ĐDSH hệ sinh thái rừng Việt Nam vẫn đang bị suy thoái nhanh chóng. Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh mà nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm ĐDSH hệ sinh thái rừng từ những áp lực sau:

Áp lực về dân số tăng nhanh; đòi hỏi về nhu cầu đất ở đất sản xuất và khai thác lâm sản phục vụ cho nhu cầu cuộc sống, nhất là đối với khu vực người dân nghèo thiếu đất sản xuất nông nghiệp, sống chủ yếu dựa vào rừng để khai thác, săn bắt động vật hoang dã. Đây là áp lực rất lớn đối với các khu rừng phòng hộ, đặc dụng hiện nay, mặc dầu cộng đồng đã có những cam kết tham gia bảo vệ rừng nhưng sự gắn kết, phối hợp chưa được tốt. Việc quản lý nhân hộ khẩu của các cấp chính quyền địa phương còn hạn chế, chưa quan tâm dẫn đến một số đối tượng ở nơi khác đến lợi dụng, xúi dục, lôi kéo một số đối tượng trong cộng đồng vi phạm luật bảo vệ phát triển rừng.

Giá trị lâm sản quý hiếm và động vật rừng ngày càng cao trong khi đó tài nguyên rừng ở vùng đệm và khu vực lân cận các khu rừng phòng hộ, đặc dụng hầu như đã cạn kiệt, nên áp lực vào rừng ngày càng lớn, dẫn đến ĐDSH hệ sinh thái rừng giảm.

Nhiều diện tích rừng phòng hộ, đặc dụng bị chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để xây dựng các công trình thuỷ điện, công trình cơ sở hạ tầng, đường giao thông, khai thác khoáng sản đã tạo áp lực lớn đối với quản lý bảo vệ rừng tạo điều kiện cho các hoạt động phá rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép, ảnh hưởng ĐDSH rừng.

Lực lượng bảo vệ rừng còn mỏng, địa bàn hoạt động rộng, trang thiết bị, phương tiện còn thiếu chưa đáp ứng được tình hình quản lý BVR hiện nay. Việc xử lý một số vụ vi phạm pháp luật về quản lý bảo vệ rừng thiếu nghiêm minh, kéo dài, chưa trừng trị thích đáng kẻ chủ mưu tổ chức và xúi giục người khác vi phạm lâm luật, nên chưa có tác dụng răn đe kẻ vi phạm, do đó tác dụng giáo dục, phòng ngừa không cao, dẫn tới biểu hiện coi thường pháp luật, chống người thi hành công vụ, ảnh hưởng chất lượng tài nguyên rừng.

Sự phối kết hợp giữa các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành chức năng chưa thường xuyên liên tục và đồng bộ mà chỉ hoạt động theo chiến dịch. Đặc biệt là chính quyền địa phương cấp xã, một số xã chưa làm tốt công tác tuyên truyên giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người dân, chưa phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ rừng để kiểm tra trấn áp bọn lâm tặc dẫn đến chất lượng rừng tự nhiên bị đe dọa.

Về chính sách đầu tý cho các khu rừng phòng hộ, đặc dụng còn hạn chế, thiếu các dự án phát triển vùng đệm. Tỷ trọng vốn đầu tư của xã hội cho công tác bảo vệ rừng không đáng kể, chủ yếu mới chỉ bố trí cho khoán bảo vệ rừng từ dự án 661. Tình hình biến đổi khí hậu kèm theo thời tiết diễn biễn ngày càng phức tạp, khô hạn kéo dài, bão lũ xảy ra thường xuyên gây thiệt hại tới tài nguyên sinh vật.

ĐDSH suy giảm gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống, kinh tế, văn hóa, tâm linh... của con người. Sự suy giảm tài nguyên ĐDSH sẽ làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu của con người, của tự nhiên và sự biến mất của các loài sinh vật.

Hệ sinh thái rừng đầu nguồn trên địa bàn tỉnh nằm trong địa phận khu DTSQ miền Tây Nghệ An là hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới thuộc trong 12 loại hình hệ sinh thái chính mà UNESCO-MAB nêu ra. Những khu rừng mưa nhiệt đới nguyên sinh còn sót lại tại khu DTSQ này là một di sản hết sức quí giá sau rất nhiều biến cố, nhất là sau hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ và đặc biệt là trong điều kiện kinh tế hết sức khó khăn mà hầu hết sinh kế của người dân địa phương đều phụ thuộc vào nguồn tài nguyên rừng. Đồng thời, điều này cũng nói lên nỗ lực bảo vệ rừng của chính quyền và nhân dân địa phương trong điều kiện rừng bị khác thác kiệt quệ cho mục đích phát triển kinh tế ở nhiều vùng khác.



HST rừng đầu nguồn nằm trong khu DTSQ có diện tích lớn nhất trong các khu DTSQ đã có và trong hệ thống các Khu bảo tồn của Việt nam. Với hệ thống 3 Khu bảo tồn 1 Vườn quốc gia và 2 khu BTTN tách biệt được nối liền bằng các vùng hành lang là các vùng đệm, nằm trong địa giới hành chính của 9 huyện miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An, theo trục Bắc – Nam. Khu DTSQ bao gồm toàn bộ lưu vực đầu nguồn sông Cả với 3 chi lưu quan trọng là sông Hiếu, sông Nậm Nơn và sông Nậm Mô.

Được đánh giá là khu HST có tính đa dạng sinh học rất cao đại diện cho hầu hết các kiểu rừng của rừng mưa nhiệt đới, các sinh cảnh sống rất đa dạng bao gồm: núi, đất ngập nước, suối và sinh cảnh khác. Đây là khu vực duy nhất của miền Bắc còn lại một diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt, đặc biệt là khu vực dọc biên giới Việt Lào. Trong khu vực có 1.297 loài thực vật đã được điều tra và ghi nhận. Một báo cáo gần đầy nhất thì khu vực này có khoảng 2.500 loài, trong đó có khoảng 2.000 loài thực vật bậc cao (74%); có 130 loài động vật lớn nhỏ đã được ghi nhận, trong đó có một số loài đặc biệt quý hiếm như: sao la, hổ, thỏ vằn trường sơn...; 295 loài chim; 54 loài lưỡng cư và bò sát; 83 loài cá và 39 loài dơi. Đây cũng là nơi có tính đa dạng về văn hóa dân tộc lớn nhất trong số các khu dự trữ sinh quyển Việt Nam với 9 dân tộc. Đặc biệt có 2 dân tộc chỉ có duy nhất ở Nghệ An và đang trong tình trạng bị suy thoái, mai một nghiêm trọng về bản sắc văn hóa đó là dân tộc Đan Lai (còn khoảng 3.000 nhân khẩu ở huyện Con Cuông) và dân tộc Ơ Đu (còn khoảng 570 nhân khẩu ở huyện Tương Dương). Đây là khu vực nghiên cứu lý tưởng về sự biến đổi khí hậu toàn cầu và tác động của con người với các đỉnh núi cao như Pù Xai Lai Leng, Pù Đen Đin Pù Mát...

Dãy núi Trường Sơn từ lâu đã được các nhà nghiên cứu thực vật quan tâm sâu sắc bởi lẽ là cầu nối cho các luồng di cư thực vật từ Nam ra Bắc và sự di cư của hệ thực vật á nhiệt đới trên các núi cao phía Bắc ăn sâu xuống các vĩ độ thấp của đai khí hậu nhiệt đới điển hình của các tỉnh Trung Bộ và Tây Nguyên (Thái Văn Trừng, 1974, 2000; Pocs Tomas, 1968) [32]. Tuy nhiên việc kiểm kê đa dạng loài thực vật các vùng thuộc dãy Trường Sơn mới chỉ được tiến hành và cũng chỉ tập trung ở một số địa điểm gắn liền với sự ra đời của các khu bảo tồn thiên nhiên/vườn quốc gia như Pù Hoạt (Nghệ An), Pù Huống (Nghệ An), Pù Mát (Nghệ An), Vũ Quang (Hà Tĩnh), Hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), Đa Krông (Quảng Trị)... Trừ trường hợp VQG Pù Mát, tất cả các điểm nghiên cứu khác thường chỉ nêu ra một bản danh lục thực vật, chủ yếu là cây rừng và ở trên đất rừng, và mô tả thảm thực vật như là các sinh cảnh. Cùng với những phát hiện về các loài thú mới phần phía Bắc dãy Trường Sơn trở thành điểm nóng về đa dạng sinh học, các hoạt động nghiên cứu ở khu vực này được đẩy mạnh với rất nhiều đoàn nghiên cứu trong và ngoài nước tham gia tại nhiều khu vực bảo tồn trọng điểm như VQG Pù Mát (EU, 1998-2000), (SEE-Frontier (1995)), Pù Hoạt (SEE-Frontier, 1999-2000), VQG Vũ Quang (WWF-Indochina Programme (2000-2001), NEDA(DGIS) Activity NoVN003301 (2002)...).

Tỉnh Nghệ An có 3 khu bảo vệ là Vườn quốc gia Pù Mát, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống và Pù Hoạt. Các khu hệ sinh thái này có tính đa dạng sinh học cao và đã được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu gần đây. Tuy nhiên những nghiên cứu chủ yếu là sự thống kê về thành phần loài động vật và thực vật. Có lẽ nghiên cứu về VQG Pù Mát là trường hợp đầu tiên cho vùng này, mà nghiên cứu đa dạng thực vật và thảm thực vật được tiến hành quy củ và được quan tâm ít nhiều thỏa đáng. Ngoài ra, rải rác trong các công trình khác, hệ thực vật tại Nghệ An nói chung và Pù Mát nói riêng cũng được nghiên cứu ở một số khía cạnh như: Thành phần loài thực vật trên nương rẫy của người H’Mông tại Xã Nậm Căn, Kỳ Sơn của Hoàng Văn Sơn (1998)[24]đã xác định được 158 loài, 126 chi và 59 họ; Góp phần điều tra thành phần loài Dương xỉ khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát, Nghệ An của Nguyễn Thị Quý (1998))[23] đã xác định được 90 loài thuộc 42 chi, 23 họ; Nghiên cứu tính đa dạng hệ thực vật tại xã Môn Sơn, Con Cuông của Nguyễn Anh Dũng (2002) [4] xác định được 497 loài thực vật bậc cao có mạch; Góp phần điều tra thành phần loài cây họ Đậu tại VQG Pù Mát của Bạch Thị Thu Hiền (2005) ; Nghiên cứu tính đa dạng hệ thực vật tại xã Môn Sơn, Con Cuông của Nguyễn Anh Dũng (2002) [4] xác định được 47 loài thuộc 23 chi với phân họ vang là 18 loài thuộc 5 chi, phân họ đậu với 27 loài thuộc 16 chi, phân họ trinh nữ với 2 loài thuộc 2 chi;

Về động vật có các công trình: Điều tra nghiên cứu đa dạng sinh học các loài thú ăn thịt nhỏ khu vực Tây Bắc Nghệ An của Chu Đình Liệu (2006) [13] Nghiên cứu tính đa dạng hệ thực vật tại xã Môn Sơn, Con Cuông của Nguyễn Anh Dũng (2002) [4] đã xác định được 18 loài thú ăn thịt nhỏ; Đa dạng sinh học khu hệ thú ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, tỉnh Nghệ An của Trần Mạnh Hùng (2007) [10] đã lập được danh lục các loài thú ở Khu BTTN Pù Huống gồm 100 loài thuộc 28 họ, 10 bộ. Trong đó, có 92 loài đã được ghi nhận khẳng định, 8 loài ghi nhận chưa đủ chắc chắn. Đó là các loài Chồn bay, Khỉ mốc, Chà vá chân nâu, Cầy vằn bắc, Cầy gấm, Sóc má đào, Chuột nhắt nương, Chuột Suri; Nghiên cứu tính đa dạng sinh học chim Khu bảo tồn Pù Huống, Nghệ An của Hoàng Ngọc Thảo (2004) [30] đã ghi nhận được tổng số loài chim ở Khu BTTN Pù Huống là 129 loài thuộc 37 họ, 12 bộ. So với tổng số loài của Bắc Trung Bộ thì số loài ghi nhận được chiếm 35,05% (Võ Quý, Nguyễn Cử, 1995) và chiếm 15,18% so với tổng số loài của Việt Nam (Nguyễn Cử, 2000); Góp phần tìm hiểu thành phần loài Lưỡng Cư – Bò Sát tại vùng đệm VQG Pù Mát, Nghệ An của Nguyễn Đức Lương (2004) [15] xác định được 834 mẫu vật về Lưỡng cư - Bò sát tại vùng đệm VQG Pù Mát; Nghiên cứu đa dạng sinh học Lưỡng cư, Bò sát VQG Pù Mát của Lê Đông Hiếu (2008) [9] đã ghi nhận được thành phần loài lưỡng cư, bò sát VQG Pù Mát có 130 loài thuộc 78 giống, 23 họ, 4 bộ. Trong đó lưỡng cư có 51 loài thuộc 26 giống, 7 họ, 2 bộ; 79 loài bò sát thuộc 52 giống, 16 họ, 2 bộ; Đa dạng sinh học Lưỡng dư, Bò sát ở huyện Quỳ Hợp, Nghệ An của Đậu Quang Vinh (2008)) [34] xác định được 74 loài lưỡng cư Bò Sát thuộc 50 giống, 21 họ, 3 bộ trong đó có 46 loài được xác định bằng mẫu vật, 6 loài qua điều tra và qua tư liệu là 22 loài; Góp phần nghiên cứu khu hệ cá ở các khe suối khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát và vùng phụ cận của Nguyễn Xuân Khoa (2001)) [11] đã xác định được 76 loài ở các khu vực khe khặng, khe thơi và khe choang.

Công trình lớn nhất nghiên cứu về hệ sinh thái rừng cũng như đa dạng sinh học tại Nghệ An là Điều tra đa dạng sinh học tại VQG Pù Mát của dự án SFNC (EU, 1998-2004) [6] với hệ thực vật ghi nhận được có 1.297 loài thuộc 607 chi và 160 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch và 1.121 loài động vật thuộc các nhóm thú, chim, bò sát, lưỡng cư, cá.

Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước về môi trường rừng và tác động của rừng đến môi trường được tiến hành liên tục và toàn diện cả về nội dung, không gian, cũng như đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu mang tính tổng hợp về hệ sinh thái rừng đầu nguồn còn tản mạn, chưa mang tính hệ thống. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu hệ sinh thái rừng đầu nguồn, đặc biệt ở miền trung đặt ra là một vấn đề hết sức cấp bách và cần thiết. Đề tài nghiên cứu học viên chọn lựa chính là tìm ra cơ sở khoa học giải quyết tính cấp thiết của vấn đề này.



Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương