NGỘ TÂm thành phật thiềN 悟 心 成 佛 禪 Thích Thông Thiền



tải về 172.08 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích172.08 Kb.
#30104
NGỘ TÂM THÀNH PHẬT THIỀN

悟 心 成 佛 禪

Thích Thông Thiền

Ngộ Tâm Thành Phật Thiền là loại Thiền chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo điển. Thiền này chủ trương chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật cho nên cũng có thể gọi là Kiến tánh thành Phật Thiền, hoặc Tức tâm là Phật Thiền.

Quá trình lịch sử phát triển của Thiền, sơ khởi cũng là y kinh giáo mà tu, đến ngài Đạt-ma sang Đông độ, mới thành Thiền tông độc lập. Rồi đời sau mới chia ra làm tông làm giáo, thành Tông Môn Thiền của Đạt-ma.

Từ Ngộ Tâm Thành Phật Thiền về sau, đều là Tông Môn Thiền, thấy rõ trong các bộ sách như: Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện, Truyền Pháp Chánh Tông Ký, Tông Thống Biên Niên, Chỉ Nguyệt Lục... Thiền Bồ-đề-đạt-ma này riêng có một hệ thống truyền thừa bắt đầu từ bảy đức Phật thời quá khứ, truyền đến Phật Thích-ca Mâu-ni cầm cành hoa đưa lên ở hội Linh Sơn, ngài Ca-diếp mỉm cười được Phật truyền tâm ấn làm Sơ Tổ. Ngài Ca-diếp truyền xuống cho ngài A-nan làm Nhị Tổ, cho đến Tổ thứ hai mươi tám là Đạt-ma làm Sơ Tổ ở Đông độ, đến Huệ Năng làm Lục Tổ.

Phật Phật Tổ Tổ truyền thừa, mỗi vị đều có một bài kệ truyền pháp. Nhơn vì trọng khẩu truyền của Đạt-ma như thế mà chẳng y theo giáo điển cho nên gọi là Đạt-ma Tông Môn Thiền.



I. SIÊU GIÁO ĐỐN NGỘ

Tông Môn độc lập của Đốn Ngộ Thiền, tuy lấy Đạt-ma làm nguyên nhân chính, nhưng cũng do thời đó có rất nhiều tăng thượng duyên trợ thành. Đây là nói Trung Quốc đương thời đã có đầy đủ phong khí siêu giáo đốn ngộ. Căn cứ theo Cao Tăng Truyện đã ghi: Từ thời ngài La-thập và Phật-đà-bạt-đà-la đã có vấn đáp. Nhưng Thiền tông thì có truyền thuyết quan hệ đến vấn đáp giữa Phật-đà-bạt-đà-la và ngài Đạo Sanh.

Như Bạt-đà hỏi Đạo Sanh:

- Giảng niết-bàn như thế nào?

Đạo Sanh đáp:

- Lấy chẳng sanh chẳng diệt giảng.

Bạt-đà nói:

- Đây là kiến giải của thường nhân ở phương này!

Đạo Sanh nói:

- Còn kiến giải của thiền sư, thế nào là niết-bàn?

Bạt-đà tay cầm cây như ý đưa lên, lại ném xuống đất. Đạo Sanh chẳng ngộ, Bạt-đà bèn phủi y mà đi. Đồ đệ của Đạo Sanh tìm đến hỏi Sư:

- Thầy của chúng tôi giảng niết-bàn chẳng đúng sao?

Bạt-đà đáp:

- Thầy của các ông nói chỉ là ở trên cái quả của Phật. Nếu trong cái nhơn của niết-bàn, thì một vi trần không cho nên các vi trần không; các vi trần không cho nên một vi trần không, trong một vi trần không, không có các vi trần; trong các vi trần không, không có một vi trần.

Về sau, pháp sư Huệ Viễn cũng nói: Cho đến chỗ cùng tột lấy bất biến làm tánh, thành Phật lấy thể ngộ làm tông, đây là nói thể ngộ đến chỗ cùng tột pháp tánh bất biến tức là thành Phật. Niết-bàn Vô Sanh Luận của ngài Tăng Triệu ghi: Chẳng thể dùng hình tướng danh tự mà đắc, chẳng thể dùng hữu tâm mà biết, cũng nói cứu cánh chỉ thú qui về siêu việt và dứt bặt ngôn giáo. Pháp sư Đạo Sanh đã từng có cái thuyết đốn ngộ thành Phật, ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng đương thời.

Ngài Bảo Chí lúc đầu tu tập thiền quán, về sau có nhiều thần dị. Vua Lương Võ Đế rất tôn sùng ngài, ngài tự do ra vào trong cung. Một hôm, Võ Đế hỏi ngài:

- Trẫm tuy tin Phật pháp, nhưng phiền não làm thế nào để đoạn?

Bảo Chí đáp:

- Mười hai (dùng thuốc 12 nhân duyên để trị hoặc nghiệp).

Lại hỏi:


- Làm thế nào để tĩnh tâm tu tập?

Đáp:


- An lạc cấm (dừng vọng tưởng thì được an lạc).

Thiền tông đời sau, cho rằng những lời đáp ấy cùng với việc đưa cành hoa ở hội Linh Sơn cho đến việc đánh hét của một phái Thiền được truyền từ Tổ Đạt-ma xuống thông nhau. Ngài Bảo Chí đã trước tác Đại Thừa Tán, Thập Nhị Thời Tụng, Thập Tứ Khoa Tụng, gồm ba mươi sáu bài tụng. Như các câu Trọn ngày cầm hoa chọn lửa, chẳng biết thân là đạo tràng, và Đại đạo thường ở trước mắt... đều hiển bày ý Ngộ Tâm Thành Phật Thiền.

Lịch sử gọi ngài Chí Công là Quán Âm ứng hóa, từng hiện tượng Quán Âm mười hai mặt, khiến cho ngài Tăng Do chẳng thể vẽ được, trong truyền thuyết Quán Âm là người ứng hoá. Vào đời Đường còn có ngài Tứ Châu Tăng-già, Thiền tông cũng có ghi chép đến sự vấn đáp của ngài.

Đồng thời với ngài Bảo Chí, còn có một vị tên là Phó Hấp, thường được gọi là Phó Đại Sĩ, căn cứ theo Truyền Đăng Lục đã ghi, ngài ở đất Nghĩa Ô, hiện nay thuộc Chiết Giang, ngài tự nói đã đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thường theo bảy Đức Phật, Thích-ca ở phía trước, Duy-ma ở phía sau. Lương Võ Đế từng thỉnh ngài về kinh đô giảng Kinh Kinh Cang, ngài lên tòa cầm cái phủ xích vỗ xuống bàn, rồi bước xuống tòa, khi đó thính chúng không ai hiểu được sự kỳ diệu của ngài. Chí Công nói với Võ Đế: Đại Sĩ này giảng kinh đã xong! Từ hành động thuyết pháp này của ngài mà xem, ngài tuy chẳng thuộc truyền thống của Đạt-ma, nhưng cùng một tác phong và thái độ của Tông Môn Thiền sau này. Như ngài có bài tụng:



Dạ dạ bão Phật miên

Triêu triêu hoàn cộng khởi

Dục thức Phật xứ khứ

Chỉ giá ngữ thanh thị.

Dịch:

Mỗi đêm ôm Phật ngủ

Mỗi sáng cùng Phật thức

Muốn biết chỗ Phật đi

Chỉ là lời nói này.

Loại văn tụng như thế, hãy còn rất nhiều, như nói:



Không thủ bả sừ đầu

Bộ hành kỵ thủy ngưu

Nhơn tòng kiều thượng quá

Kiều lưu thủy bất lưu!

Dịch:


Tay không cầm cái bừa

Đi bộ mà cỡi trâu

Người đi qua trên cầu

Cầu chảy nước chẳng chảy!

Những người theo sự hiểu biết thông thường giảng các lời này thì đều giảng chẳng thông, nhưng ở trong bài tụng của ngài có hàm chứa thâm ý vô hạn! Ngài tuyên bày cảnh giời tự chứng, chẳng thể ngôn ngữ suy nghĩ hư vọng phân biệt có thể hiểu nổi.

Lại ngài có bài Tâm Vương Minh nói:

Quán tâm không vương

Huyền diệu nan trắc!

(…)

Thủy trung diêm vị

Sắc lý giao thanh,

Quyết định thị hữu

Bất kiến kỳ hình!

Lục môn xuất nhập

Tùy vật ứng tình,

Tự tại vô ngại

Sở tác giai thành.

Liễu bổn thức tâm

Thức tâm tức Phật

(…)

Trừ thử tâm vương

Cánh vô biệt Phật!

Dịch:


Quán tâm vua không

Huyền diệu khó lường!

(…)

Vị mặn trong nước

Trong sắc có màu,

Quyết định là có

Chẳng thấy hình kia.

Sáu cửa ra vào

Tùy vật ứng tình,

Tự tại không ngại

Việc làm đều thành.

Rõ gốc, biết tâm

Biết tâm là Phật,

(…)

Trừ tâm vương này

Lại không Phật khác!

Văn của bài minh này lại hiển nhiên nhiên là Ngộ Tâm Thành Phật Thiền. Tương truyền ngài là ứng hóa thân của bồ-tát Di-lặc. Còn có Di-lặc ứng hóa ở Trung Quốc, tức là hòa thượng Bố Đại, ở Phụng Hóa sau đời Lý Đường. Ngài cũng có rất nhiều thơ và kệ. Có bài kệ nói:



Chỉ cá tâm tâm tâm thị Phật

Thập phương thế giới tối linh vật

Tung Hoành diệu dụng khả lân sanh

Nhứt thiết bất như tâm chân thật.

Dịch:


Chỉ cái tâm này, tâm là Phật

Là vật linh nhất trong mười phương

Dọc ngang diệu dụng thật đáng thương

Tất cả chẳng bằng tâm chân thật.

Bài tụng này cũng cùng một ý với bài Tâm Vương Minh của Phó Đại sĩ.

Ở trước khi giảng về Thật Tướng Thiền, đã giảng qua thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc, thiền sư Huệ Tư cũng sống đồng thời với Bảo Chí (Chí Công). Khi ngài ẩn tu ở trong núi, Chí Công nói với ngài: “Sao chẳng xuống núi giáo hóa chúng sanh?” Huệ Tư đáp: “Ba đời chư Phật bị tôi nuốt một cái hết, còn có chúng sanh nào để giáo hóa ư?” Những lời nói này cũng thuộc loại thiền ngữ của tông môn.

Lại có thỉ tổ tông Hoa Nghiêm là ngài Pháp Thuận (tức Đỗ Thuận), trong Thiền Lục ghi: Pháp Thuận trước tác Pháp Giới Quán, lời văn giản dị, ý nghĩa đầy đủ, thiên hạ đều chuộng tác phẩm của ngài.

Lại nói ngài đã từng trước tác bài Pháp Thân Tụng, nói rằng:

Thanh Châu ngưu ngật thảo

Ích Châu mã phúc trướng

Thiên hạ mích y nhơn

Cứu trư tả chuyên thượng.

Dịch:


Trâu Thanh Châu ăn cỏ

Ngựa Ích Châu no bụng

Thiên hạ tìm thầy thuốc

Châm cứu trên đùi heo.

Theo truyền thuyết ngài Đỗ Thuận là hóa thân của Văn-thù. Nói về hóa thân của Văn-thù, còn có Hàn Sơn và Thập Đắc, cùng ẩn cư trong núi Thiên Thai. Thơ của các ngài rất nổi tiếng, lời cạn mà ý sâu, cho nên ở trên thi đàn, ngài là bậc thầy của Bạch Lạc Thiên. Ngoài Hàn Sơn ra, về sau còn có trưởng giả Lý Thông Huyền trứ tác Hoa Nghiêm Hiệp Luận, từ các pháp tánh không mà thuyết minh Hoa Nghiêm, theo truyền thuyết nói: “Đỗ Thuận và Hàn Sơn đều là hóa thân của ngài Văn-thù”.

Những việc này ở trên, đều là tăng thượng duyên mở đầu cho Tông Môn Thiền của Tổ Đạt-ma hưng khởi. Hoặc y theo giáo nghĩa của kinh luận đề xuất huyền chỉ ách yếu đơn giản, hoặc đưa ra phong cách riêng chẳng y theo nghĩa của kinh luật luận cho đến phi ngôn ngữ văn tự có thể đến được, cho nên gọi chung đây là Siêu Giáo Đốn Ngộ Thiền.

II. THIỀN PHÁP ĐẠT-MA

Về Tổ Đạt-ma trong Cao Tăng Truyện Truyền Đăng Lục ghi chép chẳng đồng. Trong Cao Tăng Truyện ghi: “Khi Đạt-ma đến Trung Quốc vào thời Lưu Tống, hơi sau ngài Cầu-na-bạt-đà-la dịch bốn quyển kinh Lăng-già. Ngài đến Bắc Ngụy, ở Tung Sơn chuyên dùng thiền pháp để dạy người, nhơn đây thầm khởi lên sự hủy báng của những nhà hoằng truyền kinh luật”.

Chỉ có hai sa môn trẻ tuổi là Đạo Dục và Huệ Khả, ý chí sắc bén cao xa tinh tấn cầu học, hầu hạ 4, 5 năm, Đạt-ma cảm thương sự tinh thành của các ngài, chỉ dạy hai môn lý nhập và hạnh nhập. Môn lý nhập, tức là nói chơn tánh không có tự tha, không có phàm thánh sai khác, ngồi xoay mặt vào vách để quán tâm, vững chắc không dời, chẳng theo giáo lý nào khác, cùng đạo thầm phù hợp, lặng lẽ vô vi, ấy gọi là lý nhập. Môn hạnh nhập có bốn thứ:

1. Báo oán hạnh nghĩa là khi tu đạo gặp lúc khốn khổ, nên nghĩ đây là nghiệp báo, là nghiệp nhơn đời trước ta đã tạo, hiện tại phải nên an tâm nhận chịu, chẳng sanh tâm oán ghét.

2. Tùy duyên hạnh nghĩa là gặp cảnh thuận cũng không tham trước, duyên hết trở về không, đâu có gì đáng vui? Nhơn đây mà được mất tùy duyên, tâm không có tăng giảm.

3. Vô sở cầu hạnh nghĩa là đối với tất cả thế gian đều không có mong cầu, bởi vì ba cõi đều là khổ.

4. Xứng pháp hạnh nghĩa là xứng với pháp tánh mà tu hành.

Bốn thứ hạnh nhập này bao gồm hết muôn hạnh, cũng không chướng ngại với lý nhập. Đây căn cứ theo Cao Tăng Truyện mà nói, và Tổ Đạt-ma truyền trao cho ngài Huệ Khả bốn quyển kinh Lăng-già dùng để ấn tâm vậy.

Nhưng Truyền Đăng Lục thì nói ngài đến Trung Quốc vào niên hiệu Phổ Thông đời nhà Lương, lúc đầu ngài đến Quảng Châu, quan thứ sử dâng biểu tâu với Võ Đế, Võ Đế nghinh đón ngài đến Kim Lăng. Võ Đế hỏi:

- Trẫm từ khi làm vua cho đến nay, tạo chùa chép kinh, độ tăng chẳng thể tính kể, có công đức gì chăng?

Đạt-ma đáp:

- Đều không có công đức.

Đế hỏi:

- Vì sao không có công đức?



Đáp:

- Đây chỉ là nhơn hữu lậu của quả nhỏ ở cõi trời người, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.

Lại hỏi:

- Thế nào là công đức chân thật?

Đáp:

- Trí thanh tịnh tròn sáng nhiệm mầu, thể tự vắng lặng, công đức như thế chẳng thể dùng phước thế gian để cầu.



Đế liền hỏi:

- Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?

Đáp:

- Rỗng rang không thánh.



Hỏi:

- Đối diện với trẫm là ai?

Đáp:

- Không biết!



Võ Đế hỏi đã cao, mà Đạt-ma đáp chẳng thể khế hợp, vì cơ duyên chẳng hợp, nên Đạt-ma lén qua sông đi lên phương bắc.

Chí Công nói với Võ Đế:

- Đạt-ma là hóa thân của bồ-tát Quan Âm.

Đế định sai người đi tìm về, Chí Công nói:

- Dù có sai người trong cả nước đi tìm, ngài cũng chẳng trở về!

Đạt-ma lên phía bắc đến chùa Thiếu Lâm ở Tung sơn, ngài xoay mặt vào vách, trọn ngày ngồi lặng yên. Khi đó, có Thần Quang là một chàng trung niên học rộng nghe nhiều, nghe danh Đạt-ma nên đến chùa Thiếu Lâm để gần gũi. Thần Quang đến Thiếu Lâm, thấy Đạt-ma sớm chiều ngồi ngay thẳng, mặt xoay vào vách, lặng yên không nói năng. Thần Quang suy nghĩ thế này: “Người xưa cầu pháp đập xương lấy tủy, trích máu cho người đói, trải tóc xuống bùn, gieo mình cho cọp ăn, ta nay là người gì?”. Như thế trong một đêm tuyết rơi lả tả, ngài đứng thẳng ở bên cạnh Đạt-ma, tuyết lên đến quá đầu gối. Khi ấy, Đạt-ma xót thương, mới hỏi:

- Ông đứng lâu ở trong tuyết, muốn cầu việc gì?

Thần Quang buồn đau khóc lóc thưa:

- Cúi mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam-lồ, rộng độ các chúng sanh!

Đạt-ma bảo:

- Vô thượng diệu đạo của chư Phật, nhiều kiếp tinh tấn, việc khó làm mà hay làm, việc khó nhẫn mà hay nhẫn, dùng tiểu đức, tiểu trí, tâm khinh khi, tâm kiêu mạn mà muốn mong được chân thừa ư?

Thần Quang nghe xong, liền lén cầm dao chặt đứt cánh tay dâng lên Đạt-ma. Đạt-ma biết ngài là pháp khí, nên đổi tên lại là Huệ Khả.

Huệ Khả thưa:

- Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng?

Đáp:

- Pháp ấn của chư Phật chẳng phải từ người khác mà được.



Huệ Khả thưa:

- Tâm con chưa an, xin thầy an cho.

Đạt-ma bảo:

- Đem tâm đến ta an cho!

Huệ Khả tìm tâm chẳng thể được, bèn thưa:

- Con tìm tâm chẳng thể được!

Đạt-ma bảo:

- Ta đã an tâm cho ngươi rồi!

Sở dĩ Thần Quang được đổi tên là Huệ Khả, là do trí huệ đốn ngộ của ngài mà được Tổ ấn khả vậy.

Về sau Đạt-ma muốn trở về Ấn Độ, ngài tập họp các môn nhơn lại và bảo:

- Thời giờ đã đến, các ông mỗi người sao chẳng tự nói chỗ sở đắc của mình?

Khi đó, có vị tên là Đạo Phó bước ra thưa:

- Như chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, mà là đạo dụng.

Đạt-ma nói:

- Ông chỉ được phần da của ta.

Một sư cô tên là Tổng Trì thưa:

- Nay chỗ hiểu của con, như ngài A-nan thấy cõi Phật A-súc, chỉ thấy một lần, chẳng còn thấy nữa.

Đạt-ma nói:

- Cô được phần thịt của ta.

Đạo Dục thưa:

- Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có, theo chỗ thấy của con, không một pháp có thể nắm bắt.

Đạt-ma nói:

- Ông được phần xương của ta.

Cuối cùng Huệ Khả lễ bái Đạt-ma, rồi đứng khoanh tay.

Đạt-ma nói:

- Ông được phần tủy của ta.

Nhơn đây tổ đem y, bát và bốn quyển kinh Lăng-già truyền trao lại cho ngài Huệ Khả, nói kệ:

Ngô bổn lai tư độ

Truyền pháp độ mê tình

Nhứt hoa khai ngũ diệp

Kết quả tự nhiên thành.

Dịch:
Ta vốn đến đất này



Truyền pháp độ kẻ mê

Một hoa trổ năm cánh

Kết quả tự nhiên thành.

Ngài còn nói: Bên trong thì truyền pháp ẩn, để khế chứng tâm, bên ngoài thì trao ca-sa để định tông chỉ… Hai trăm năm sau, y dừng lại chẳng truyền.

Từ đây về sau, ở Trung Quốc có Tông Môn Thiền chẳng lập văn tự.

Sau khi Đạt-ma thị tịch, làm lễ an táng ở núi Hùng Nhĩ. Ba năm sau, Tống Vân nhà Ngụy phụng sự đi đến Tây Vực, trên đường trở về gặp Đạt-ma ở núi Thông Lãnh, thấy trên tay Đạt-ma cầm một chiếc giày. Tống Vân hỏi ngài đi đâu, ngài bảo đi về Tây Thiên (Ấn Độ). Tống Vân trở về đến nước Ngụy, đem việc này trình thưa với Hoàng Đế, Đế liền sai người đi mở tháp của Đạt-ma ra xem, mở cửa tháp ra chỉ thấy để lại một chiếc giày, mọi người đều lấy làm kinh ngạc. Câu chuyện Một chiếc giày đi về Ấn Độ này là một công án muôn đời.

Từ ở trên đã thấy, Cao Tăng Truyện Truyền Đăng Lục ghi chép việc của Đạt-ma chẳng đồng, đây hoặc là nhơn vì tuổi thọ của Đạt-ma rất cao, ở Trung Quốc rất lâu, Cao Tăng Truyện chỉ ghi chép giai đoạn đầu khi Đạt-ma mới đến Trung Quốc, hoặc là một số người biết rõ việc của ngài; Truyền Đăng Lục ghi chép một đoạn sau, hoặc là do chính miệng của ngài Huệ Khả kể lại.

Đạt-ma là Tổ khai sáng Thiền tông đầu tiên, Huệ Khả là Tổ thứ hai. Căn cứ theo Cao Tăng Truyện nói, ngài Huệ Khả hầu hạ phụng sự Tổ Đạt-ma có hơn sáu năm. Sau khi nhận y bát, vào niên hiệu Thiên Bình năm thứ hai (536) của nhà Bắc Tề, ngài đến Nghiệp Đô hoằng dương thiền pháp; nhơn đây là một nhóm pháp sư kẹt vào văn tự, tật đố ngài, chướng ngại ngài, bài xích ngài, thậm chí phái người thích khách giết hại ngài. Căn cứ vào thuyết cánh tay của ngài bị chặt đứt, hoặc nói là bị bọn thiên chấp văn tự chặt. Truyền Đăng Lục nói, ngài về sau đến ở trước cửa chùa Khuông Cứu thuộc huyện Quản Thành nói đạo Vô Thượng, rất nhiều người vây quanh ngài để nghe. Khi ấy, có pháp sư Biện Hòa giảng kinh Niết-bàn ở trong chùa, do vì đồ chúng của Biện Hòa theo Huệ Khả để tham thiền, khởi lên hủy báng. Một vị quan tri huyện tên là Địch Trọng Khản, nghe lời gièm pha của Biện Hòa, cho rằng ngài làm việc phi pháp, bắt ngài gia hình, Huệ Khả gặp nạn. Khi ấy ngài đã được một trăm lẻ bảy tuổi.

Trong Cao Tăng Truyện nói, có một vị cư sĩ tên Hướng, thích ở ẩn nơi rừng vắng, đạm bạc tự tu hành, có lần gửi đến Huệ Khả một bức thư ý nói: Người trừ phiền não để cầu niết-bàn, dụ như bỏ hình mà tìm bóng; lìa chúng sanh mà cầu quả Phật, dụ như im tiếng mà tìm âm vang.

Huệ Khả đáp lại bằng bài kệ:



Thuyết thử chân pháp giai như thật

Dữ chân u lý cánh bất thù

Bổn mê ma ni vị ngõa lịch

Hoát nhiên tự giác thị chơn châu.

Dịch:


Nói chân pháp này đều như thật

Cùng lý sâu mầu có khác gì

Vốn mê ma ni là ngói gạch.

Bỗng nhiên giác ngộ biết chơn châu.

Lại có ông họ Hóa, Liêu Công, thiền sư Hòa, thiền sư Na, Huệ Mãn… đều từng trực tiếp hoặc gián tiếp nhận sự truyền trao của Huệ Khả, nhưng không phải đệ tử chân chánh nối pháp, cho nên nói: “cuối cùng không có người nối dõi”.

Nhưng nếu căn cứ theo thuyết của Truyền Đăng Lục thì lại chẳng đồng. Truyền Đăng Lục ghi: Sau khi Huệ Khả đắc pháp, đến ở Bắc Tề vào năm Thiên Bình thứ hai (536), có một ông cư sĩ (hoặc chính là cư sĩ Hướng, trong Cao Tăng Truyện đã nói) tuổi hơn bốn mươi, một hôm đến gặp Huệ Khả, thưa rằng:

- Đệ tử thân bị mắc bệnh phong cùi, thỉnh Hòa thượng sám tội dùm!

Huệ Khả vận dụng tác phong của Đạt-ma đáp lại với ông ta:

- Đem tội đến đây, ta sám cho!

Vị cư sĩ ấy lặng yên đến nửa ngày mới thưa:

- Con tìm tội chẳng thể được!

Huệ Khả nói:

- Ta đã sám tội cho ngươi rồi đó! Hãy nương theo Phật Pháp Tăng mà trụ.

Cư sĩ thưa:

- Nay thấy hòa thượng, con đã biết là Tăng rồi, nhưng con chưa biết thế nào là Phật và Pháp?

Huệ Khả bảo:

- Tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp, Pháp và Phật không hai, Tăng bảo cũng như thế!

Khi ấy, vị cư sĩ vô danh này nghe Huệ Khả nói xong, có chỗ lãnh hội, nói:

- Ngày nay mới biết tội tánh chẳng phải ở trong chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở chặng giữa. Tâm kia cũng vậy, Phật và Pháp không hai.

Thực tại này cũng là chỉ thú ngộ tâm thành Phật của Đạt-ma. Do đó, Huệ Khả nghe xong, cũng rất cao hứng cho ông ta xuất gia, mà còn khen ngợi thế này: “Ông là vật báu của ta vậy, nên gọi là Tăng Xán! Hai năm sau, Huệ Khả truyền pháp lại cho Tăng Xán, bài kệ truyền pháp như sau:

Bổn lai duyên hữu địa

Nhơn địa chủng hoa sanh

Bổn lai vô hữu chủng

Hoa diệc bất tằng sanh.

Dịch:
Xưa nay nhơn có đất



Nhơn đất giống hoa sanh

Xưa nay không có giống

Hoa cũng chẳng từng sanh.

Nếu theo lý giải bình thường để giảng, thì đây cũng chẳng ra ngoài đạo lý duyên khởi tánh không, nhưng đây chẳng phải là một thứ lý giải, mà là một thứ khế ngộ! Huệ Khả sau khi truyền pháp, dặn dò Tăng Xán ở ẩn trong núi sâu, và nói rằng chẳng bao lâu ta sẽ có pháp mạn, tự thân phải bị hại để trả cái nợ trước.

Do Huệ Khả bị hại, có thể biết Huệ Khả hiển nhiên là người chẳng y kinh giáo mà nỗ lực hoằng truyền thiền pháp biệt truyền. Chính nhơn vì ngài hoằng truyền thiền chẳng y kinh giáo, do đó, các nhà giảng kinh từ luật ở nhiều nơi sanh tật đố và gây chướng nạn cho ngài. Về sau Tông và Giáo đối lập với nhau, cũng có thể nói là chịu ảnh hưởng của ngài.

III. TỪ TĂNG XÁN ĐẾN HOẰNG NHẪN

1. Tam Tổ với Tín Tâm Minh:

Căn cứ theo thuyết của Truyền Đăng Lục ghi: Sau khi Huệ Khả đắc pháp, đến ở Bắc Tề vào năm Thiên Bình thứ hai (536), có một ông cư sĩ (hoặc chính là cư sĩ Hướng, trong Cao Tăng Truyện đã nói) tuổi hơn bốn mươi, một hôm đến gặp Huệ Khả, thưa rằng:

- Đệ tử thân bị mắc bệnh phong, thỉnh Hòa thượng sám tội dùm!

Huệ Khả vận dụng tác phong của Đạt-ma đáp lại với ông ta:

- Đem tội đến đây, ta sám cho!

Vị cư sĩ ấy lặng yên đến nửa ngày mới thưa:

- Con tìm tội chẳng thể được!

Huệ Khả nói:

- Ta đã sám tội cho ngươi rồi đó! Hãy nương theo Phật Pháp Tăng mà trụ.

Cư sĩ thưa:

- Nay thấy hòa thượng, con đã biết là Tăng rồi, nhưng con chưa biết thế nào là Phật và Pháp?

Huệ Khả bảo:

- Tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp, Pháp và Phật không hai, Tăng bảo cũng như thế!

Khi ấy, vị cư sĩ vô danh này nghe Huệ Khả nói xong, có chỗ lãnh hội, nói:

- Ngày nay mới biết tội tánh chẳng phải ở trong chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở chặng giữa. Tâm kia cũng vậy, Phật và Pháp không hai.

Thực tại này cũng là chỉ thú ngộ tâm thành Phật của Đạt-ma. Do đó, Huệ Khả nghe xong, cũng rất cao hứng cho ông ta xuất gia, mà còn khen ngợi thế này: “Ông là vật báu của ta vậy, nên gọi là Tăng Xán! Hai năm sau, Huệ Khả truyền pháp lại cho Tăng Xán, bài kệ truyền pháp như sau:



Bổn lai duyên hữu địa

Nhơn địa chủng hoa sanh

Bổn lai vô hữu chủng

Hoa diệc bất tằng sanh.

Dịch:


Xưa nay nhơn có đất

Nhơn đất giống hoa sanh

Xưa nay không có giống

Hoa cũng chẳng từng sanh.

Tăng Xán để lại văn hiến trọng yếu của tông môn, đó là bài Tín Tâm Minh, Thiên “Tín Tâm Minh”, mỗi câu bốn chữ, bắt đầu là lời văn nhắc nhở:



Chí đạo vô nan

Duy hiềm giản trạch

Đản mạc tắng ái

Đỗng nhiên minh bạch!

Hào ly hữu sai

Thiên địa huyền cách

Dục đắc hiện tiền

Mạc tồn thuận nghịch!

(…)

Lục trần bất ố

Hoàn đồng chánh giác.

Dịch:


Chí đạo chẳng khó

Cốt đừng lựa chọn

Chỉ không yêu ghét

Rỗng suốt minh bạch

Sai lạc đường tơ

Trời đất xa cách

Muốn được hiện tiền

Chớ có thuận nghịch!

(…)

Sáu trần chẳng ghét

Đồng về chánh giác.

Cuối cùng có câu:

Tín tâm bất nhị

Bất nhị tín tâm

Ngôn ngữ đạo đoạn

Phi cổ lai kim.

Dịch:


Tín tâm không hai

Không hai tín tâm

Đường ngôn ngữ dứt

Chẳng xưa và nay.

Toàn văn gồm 146 câu, 584 chữ, làm theo thể thơ tứ ngôn. Nội dung ca tụng cảnh giới Tín tâm bất nhị, Bất nhị tín tâm, nhấn mạnh chỗ xa lìa tất cả vọng niệm đối lập sai biệt, phải trái được mất, chính là chỗ bình đẳng tự tại. Tác giả đề xướng tư tưởng Hoa Nghiêm Nhất tức nhất thiết, tương hỗ dung thông. Thiên này cùng với Tâm Vương Minh của Phó Đại sĩ, Tâm Minh của Pháp Dung, Tổ tông Ngưu Đầu, đại ý gần giống nhau. Đây cũng là trình bày đầy đủ rõ ràng thiền ý của ngộ tâm.

Thiên sách này có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành tư tưởng Thiền tông vào thời kỳ đầu. Sách chú thích về thiên này có:

-Tín Tâm Minh Niêm Cổ của Thanh Liễu.

-Tín Tâm Minh Nghĩa Giải của Minh Bản.

2. Tư tưởng thiền học của Tứ tổ:

Từ Tăng Xán đến Hoằng Nhẫn, khoảng giữa còn có Tứ Tổ Đạo Tín. Tăng Xán sau khi đắc pháp nơi Nhị Tổ, bèn ở ẩn trong núi Hoàn Công. Đến đời Tùy niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 12 (592), có một chú sa-di tên là Đạo Tín (mười bốn tuổi) đến cầu ngài ban bố cho pháp môn giải thoát, ngài hỏi chú sa-di:

- Ai trói buộc ngươi?

Sa-di thưa:

- Không có ai trói buộc!

Ngay lúc ấy ngài như lay tỉnh ông sa-di kia, nên nói:

- Vì sao lại cầu giải thoát?

Đạo Tín nghe lời ấy rồi, liền ngay nơi lời nói đại ngộ. Theo hầu Tam Tổ, hầu hạ cực nhọc chín năm, mới được truyền y bát. Bài kệ truyền pháp như sau:

Hoa chủng tuy nhơn địa

Tùng địa chủng hoa sanh

Nhược vô nhơn hạ chủng

Hoa địa tận vô sanh.

Dịch:


Giống hoa tuy nhơn đất

Từ đất giống hoa sanh

Nếu không người gieo giống

Hoa, đất trọn không sanh.

Tăng Xán đem y bát truyền trao lại cho Đạo Tín, rồi ngài đi đến núi La Phù ở ẩn. Về sau ngài vẫn trở lại núi Hoàn Công mà thị tịch, tức nay gọi là núi Tam Tổ vậy. Đạo Tín từng trải qua sáu mươi năm hông không dính chiếu, có thể thấy sự tinh tấn của ngài. Ngài ở núi Phá Đầu.

Đời nhà Đường niên hiệu Trinh Quán (627-649), vua Thái Tông bởi ngưỡng mộ đức phong của Tổ Đạo Tín, do đó ba phen thỉnh ngài về kinh. Ngài bèn lấy cớ bệnh cáo từ, trọn chẳng chịu đi. Lần thứ tư, Thái Tông bèn sai sứ giả mang chiếu đến nói: “Nếu ngài chẳng chịu đi, thì sẽ lấy thủ cấp đem về!”. Sứ giả đến núi đem chiếu này đọc lại cho ngài nghe, nghe xong ngài không chút sợ hãi đưa đầu cho sứ giả chặt. Ngài làm như thế, trái lại khiến sứ giả kinh hoảng lui về. Thái Tông nghe phong cách cao thượng này của ngài, chẳng những cho ngài ở trong núi, mà còn thêm hâm mộ.

Niên hiệu Vĩnh Huy (650-655) đời Cao Tông, Đạo Tín thị tịch ở trong núi Phá Đầu. Tuy nhập tháp đã lâu, nhưng nhiều năm sau tháp tự mở cửa ra, dung mạo của ngài nghiêm trang như lúc còn sống. Tứ Tổ, Ngũ Tổ đều để lại nhục thân. Nhục thân của Ngũ Tổ, niên hiệu ở Dân Quốc năm thứ 12 (1923), đại sư Thái Hư đã từng một phen đi chiêm bái, đến năm thứ 15 (1926) vào mùa đông mới bị thiêu hủy. Nghe nói nhục thân của Tứ Tổ vẫn còn.

Tư tưởng thiền học của Tứ tổ có thể đúc kết trong đoạn sau đây: “Luận về trăm ngàn pháp môn đều trở về tự tánh, hà sa diệu đức gồm tại nguồn tâm. Tất cả giới môn, định môn, huệ môn, thần thông biến hóa thảy tự đầy đủ, chẳng lìa bản tâm.

3. Thiền pháp của phái Ngưu Đầu:

Vào thời của Tứ Tổ Đạo Tín lại xuất hiện một hệ phái Ngưu Đầu Pháp Dung, trong bài Quốc Châu Hạc Lâm Tự Cố Kính Sơn Đại Sư Bi Minh của Lý Hoa cho rằng Pháp Dung được “Trí huệ tự nhiên do đại sư Đạo Tín ấn chứng”; trong bài Ngưu Đầu Sơn Đệ Nhất Tổ Dung Đại Sư Tân Tháp Ký của Lưu Vũ Tích xác nhận tông Ngưu Đầu của Pháp Dung đối lập với tông Đông Sơn của Hoằng Nhẫn. Trong quyển Thiền Môn Sư Tư Thừa Tập Đồ cho rằng ngài Pháp Dung lập ra một tông phái ở núi Ngưu Đầu, tông này chẳng liên quan gì đến hai tông Nam Bắc trên. Theo sự ghi chép của các văn hào và đại sư Thiền Tông đời Đường, có thể thấy thiền học của tông Ngưu Đầu chiếm một địa vị quan trọng thời bấy giờ. Điểm đặc sắc của tông Ngưu Đầu: Một là dung hợp tư tưởng của Đạo gia vào trong thiền học; hai là giàu sắc thái địa phương ảnh hưởng đến các đệ tử của Huệ Năng sau này như Mã Tổ. Pháp sư Ấn Thuận xác nhận ngài Pháp Dung là hậu duệ của Đạt-ma, là có rất nhiều nguyên nhân.

Tuyệt Quán Luận của sư chính là lập không hư làm gốc đạo, lấy chỗ quên đi vọng tình dẹp đi bản ngã làm chỗ tu hành, vô tâm dụng công làm phương tiện. Thiền Ngưu Đầu nói rõ các pháp như giấc mộng, tâm dừng không khởi, xưa nay vô sự là ngộ, quên tình là tu. Loại ý cảnh này là xuất phát từ Trang Tử và giàu sắc thái Phật giáo Nam phương. Sau khi Pháp Dung lãnh ngộ thiền pháp, liền ở ẩn trong thất đá phía bắc chùa U Thê tại núi Ngưu Đầu, tương truyền có trăm chim ngậm hoa đến dâng cúng. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường Thái Tông, Tứ Tổ Đạo Tín đi đến núi Ngưu Đầu để giáo hóa. Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 2 có ghi lại sự việc này như sau:

Tứ Tổ một hôm đến núi Ngưu Đầu khám nghiệm thiền sư Pháp Dung, khi Tứ Tổ đến núi Ngưu Đầu, thấy có rất nhiều cọp, sói. Chim chóc ở đây vây quanh thiền sư Pháp Dung, sư cố ý đưa tay làm ra vẻ sợ hãi. Thiền sư Pháp Dung thấy thế liền nói:

- Ngài vẫn còn cái đó nữa sao!

Đợi một lát, thiền sư Pháp Dung dẫn Tứ Tổ đi vào trong thất, Tứ Tổ bèn viết một chữ “Phật” lên trên tảng đá của thiền sư Pháp Dung thường ngồi. Thiền sư Pháp Dung đi ra định ngồi lên tảng đá, thấy chữ “Phật” ở trên chỗ ngồi, khi đó đột nhiên rụt lùi sợ hãi (đây là sợ hãi thật), Tứ Tổ liền nói:

- Đại đức cũng còn cái đó nữa sao?

Do một câu nói này, thiền sư Pháp Dung liền buông hết những sự tu học hằng ngày của mình, nhận được pháp yếu của Tứ Tổ, riêng mở một chi nhánh ở núi Ngưu Đầu, một mạch truyền trao đến sáu đời, có hơn tám mươi người.



4. Hoằng Nhẫn với Thiền pháp Đông Sơn:

Trong núi có một ông già trồng tùng, muốn theo Đạo Tín xuất gia, ngài nói: “Ông hiện giờ đã già, xuất gia cũng không có lợi ích, nếu quyết định muốn xuất gia, ta có thể đợi ông tái sinh trở lại”.

Sau nhiều năm, có một hôm ngài đi đến huyện Huỳnh Mai, trên đường gặp một đứa bé, ngài hỏi đứa bé:

- Họ (tánh) gì?

Đứa bé đáp:

- Họ (tánh) thì có mà chẳng phải họ (tánh) thường!

Ngài lại hỏi:

- Họ (tánh) gì?

Đứa bé đáp:

- Là họ (tánh) Phật!

Lại hỏi:

- Ngươi không có họ (tánh) à?

Đứa bé đáp:

- Vì tánh không!

Khi ấy, ngài liền biết đứa bé này là ông già trước kia tái sanh trở lại, ngài cho theo xuất gia.

Nguyên lai ông già kia nhơn sự kích phát của ngài, lúc sắp chết đi đến bên một bờ sông, gặp một người con gái đang giặt quần áo xin “nghỉ nhờ”. Cô gái này lại chẳng biết dụng ý của ngài, đáp rằng: “Phải hỏi cha mẹ tôi!”

Ông già nói: “Cô đáp lại một lời thì có thể được”. Cô gái hồ đồ nhận lời, khi ấy ông già liền đầu thai vào cô gái này. Cô gái bụng đã mang thai, bị cha mẹ phát giác, cho rằng làm ô nhục gia phong, liền đuổi cô ra khỏi nhà. Về sau cô gái này đến ở bên đường để xin ăn, và sinh ra được đứa bé. Đây là đứa bé mà Đạo Tín hiện giờ đã gặp. Nhơn vì nó không có cha, do đó nó nói là không có họ gì. Đạo Tín đã biết lai lịch của đứa bé này, khi ấy ngài hỏi mẹ nó và xin cho nó xuất gia. Mẹ nó nhơn vì cảm thấy việc đi xin ăn bất tiện, do đó sẵn sàng cho nó xuất gia.

Đạo Tín xin được đứa bé, đợi cho đến lúc trưởng thành, đem y bát truyền lại cho nó và nói bài kệ truyền pháp như sau:



Hoa chủng hữu sanh tánh

Nhơn địa hoa sanh sanh

Đại duyên dữ tánh hiệp

Đương sanh sanh bất sanh.

Dịch:


Giống hoa có tánh sống

Nhơn đất hoa nẩy mầm

Duyên lớn cùng tính hiệp

Chính sanh, sanh chẳng sanh.

Đứa bé đó chính là Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn được thầy truyền thừa làm Ngũ Tổ. Về sau, ngài ở Đông Sơn huyện Huỳnh Mai tức là núi Ngũ Tổ, thành lập thiền phong Đông Sơn, người thường đến nghe pháp có đến mấy trăm. Nhơn vì khi đó phần nhiều ngưỡng mộ ngài là chánh thống truyền thừa của Đạt-ma nên họ đến cầu pháp.

Ngũ Tổ có sáng tác quyển “TỐI THƯỢNG THỪA LUẬN” chỉ dạy người ngộ chơn tâm, sống với chơn tâm. Đây chính là nội dung của thiền pháp Đông sơn. Ngài dạy: Thí như thế gian tám hướng mây mù đều dậy, khắp nơi đều tối tăm. Mặt trời đâu có tan hoại, tại sao không có ánh sáng? Anh sáng nguyên không hoại, vì bị mây mù che. Tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh cũng như thế. Chỉ vì bị mây đen vin theo vọng niệm phiền não và các kiến chấp che đậy. Nếu hay giữ tâm vắng lặng, vọng niệm không sanh thì pháp Niết-bàn tự nhiên hiển hiện. Cho nên biết, tâm mình xưa nay thanh tịnh.

IV.THẦY TRÒ HUỆ NĂNG


  1. Lịch sử:

Sau Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, ngài Thần Tú hoằng truyền Thiền ở phương Bắc rất được Cao Tông, Trung Tông và Võ Hậu sùng kính phụng thờ. Ngài Huệ Năng thì hoằng truyền Thiền ở Tào Khê thuộc Quảng Đông, cho nên đối với ngài Thần Tú Bắc tông mà gọi là Nam tông. Về sau chỗ gọi là Tông môn, thật ra đến thời ngài Huệ Năng tông môn mới được nổi bật. Nhơn vì trước Lục Tổ chỉ có một số ít người truyền thừa nhau, từ Sơ Tổ Đạt-ma cho đến Tứ Tổ, mới chỉ là một chi Ngưu Đầu, đến Ngũ Tổ bèn chia làm hai tông Nam Đốn, Bắc Tiệm. Từ Nam Tông của Lục Tổ về sau mới truyền bá rộng rãi.

Lục Tổ Huệ Năng đoạn trước, khi giảng về Ngũ Tổ đã có đề cập đến ngài. Khi Ngũ Tổ muốn trao y bát, bảo ngài Huệ Năng đến nửa đêm vào trượng thất, vì ngài nói kinh Kim Cang đến câu Nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia, Lục Tổ đại ngộ và nói: Đâu ngờ tự tánh xưa nay thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động! Đâu ngờ tự tánh hay sanh ra muôn pháp! Ngũ Tổ biết ngài đã triệt ngộ mới trao y bát. Và ngay đêm ấy Ngũ Tổ đưa ngài đến bến Cửu Giang, trên thuyền ngài Huệ Năng lại có lời đối đáp Khi mê thì thầy độ, khi ngộ thì con tự độ. Ngũ Tổ trở về, trải qua ba ngày mới bảo với đại chúng: Y bát đã đi về phương nam. Chúng biết được liền qua sông hướng về phía Lãnh Nam đuổi bắt.

Khi ấy, trong chúng có vị tăng tên là Huệ Minh, là xuất thân từ một tướng quân, thân thể mạnh khỏe hơn mọi người, chạy đi trước tìm được Lục Tổ. Lục Tổ để y bát ở trên tảng đá, ẩn thân vào bụi cây. Huệ Minh dùng hết sức lực bình sinh của mình, giở y lên chẳng động, bèn lớn tiếng kêu: Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến, chẳng vì y mà đến. Huệ Năng bước ra, Huệ Minh làm lễ thưa: Xin hành giả vì tôi nói pháp. Huệ Năng bảo: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì cũng bản lai diện mục của thượng tọa Minh? Huệ Minh ngay nơi lời nói bèn đại ngộ. Lại hỏi: Ngoài mật ngữ, mật ngôn ở trên, còn có mật ngôn nào khác chăng? Huệ Năng nói: Tôi đã nói thì chẳng phải mật, mật là ở nơi ông. Huệ Minh khi ấy liền lễ Lục Tổ làm thầy, về sau đổi tên là Đạo Minh, để tránh pháp danh của thầy. Huệ Minh trở về trên đường, bảo với đại chúng rằng: Tôi đã chạy trước tìm kiếm nhưng không thấy bóng dáng ông ta, vả lại đường rất khó đi. Mọi người cùng nhau trở về.

Lục Tổ đến Quảng Đông, môn nhơn của Ngũ Tổ vẫn còn rất nhiều người đi tìm kiếm, cho nên phải nhiều năm ẩn trốn, thường ở chung với bọn người thợ săn. Bọn thợ săn bảo ngài giữ giềng lưới, ngài luôn luôn thả sinh vật ra, vả lại lấy rau luộc bên thịt trong nồi, của bọn thợ săn để ăn. Về sau đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, đang lúc pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết-bàn, khi đó nhơn gió thổi phan động, có một vị tăng nói là phan động, một vị khác gọi là gió động, tranh luận nhau không ngã lẽ. Lục Tổ nghe, đối trước họ mà nói: Chẳng phải gió động, chẳng phải phan động, mà là tâm của các nhơn giả động. Hai vị tăng ấy nghe xong đều kinh ngạc! Pháp sư Ấn Tông cũng rõ biết, thỉnh ngài lên tòa, hỏi: Hành giả quyết định chẳng phải là người thường, từ lâu đã nghe y bát ở Huỳnh Mai đã đi về phương Nam, có phải là hành giả chăng? Huệ Năng cũng không dấu diếm mà đáp lại. Khi ấy, Ấn Tông thỉnh các vị cao tăng đại đức ở các nơi đến, để thế phát và truyền giới cho Lục Tổ. Lại hỏi:

- Tổ Huỳnh Mai phó chúc và truyền dạy như thế nào?

Huệ Năng đáp:

- Không có truyền trao, chỉ luận về kiến tánh mà không luận về thiền định và giải thoát.

Đây là nói chỉ lấy thấy tánh thành Phật làm trọng yếu hơn hết.

Lục Tổ từ đây về sau khai mở giảng đường nói pháp ở Tào Khê, mở đầu là dạy mọi người niệm “Nam-mô Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa”, chỉ thẳng tức tâm là Phật, là tông chỉ Ngộ Tâm Thành Phật. Đời nhà Đường vua Trung Tông ngưỡng mộ đạo phong của ngài, sai quan nội cung phụng tên là Tiết Giản đi đón rước Tổ về kinh, Lục Tổ không chịu đi. Ông ta thưa thỉnh pháp yếu:

- Thiền đức ở kinh thành đều nói: Muốn được hội đạo, quyết phải tọa thiền, ý của sư như thế nào?

Tổ bảo:

- Đạo do tâm ngộ, há ở ngồi ư? Nhơn giả muốn sáng tỏ tâm yếu, chỉ cần tất cả thiện ác đều chớ suy nghĩ, tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh, lặng lẽ thường tịnh, diệu dụng như số cát sông Hằng!



Một hôm, Tổ bảo với đại chúng:

- Thiền tông của Đạt-ma, từ đây trùm khắp sa giới.

Khi ấy, ở trong chúng, ngài nói bài kệ phó pháp:

Tâm địa hàm chư chủng

Phổ vũ tất giai manh

Đốn ngộ hoa tình dĩ

Bồ-đề quả tự thành.

Dịch:


Đất tâm chứa các giống

Mưa khắp ắt nảy mầm

Hoa tình vừa đốn ngộ

Quả Bồ-đề tự thành.

Đây là nói tông chỉ đốn ngộ tự tâm tức là thành Bồ-đề. Y dừng lại không truyền, lưu lại ở Tào Khê để cúng dường. Khi ấy, người đắc pháp có cả thảy ba mươi ba người. Những vị này, ở trong Pháp Bảo Đàn Kinh đều có vấn đáp. Trong đó người đặc biệt xuất sắc nhất, có hai vị là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng, mà thiền sư Thanh Nguyên làm thủ tọa. Nhơn vì ngài Hành Tư là người khai thỉ thiền phong thời kỳ kế sau, nên để lại chờ đến phần sau sẽ nói.

Ngoài ra còn có thiền sư Pháp Hải, tương truyền Lục Tổ Đàn Kinh là do ngài ghi chép truyền bá đời sau. Pháp Hải lúc đầu đến yết kiến Lục Tổ hỏi:

- Thế nào là tức tâm tức Phật?

Tổ bảo:

- Niệm trước chẳng sanh tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật, thành tất cả tướng tức tâm, ly tất cả tướng tức Phật.

Pháp Hải ngay nơi lời nói liền đại ngộ, trong Đàn kinh có ghi chép tám câu kệ tụng.

Còn có một vị rất kỳ đặc là Vĩnh Gia Huyền Giác, trước ngài tinh chuyên tu tập tam chỉ tam quán của tông Thiên Thai, về sau cùng với thiền sư Huyền Sách đi từ Ôn Châu đến Tào Khê yết kiến Lục Tổ. Huyền Giác chống tích trượng đứng.

Tổ bảo:

- Phàm làm sa môn, phải đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, đại đức từ phương nào đến, lại sanh đại ngã mạn như thế?



Huyền Giác nói:

- Sanh tử là việc lớn, vô thường mau lắm!

Tổ bảo:

- Sao chẳng thể nhận cái vô sanh, liễu cái chẳng mau?



Đáp:

- Thể tức vô sanh, liễu vốn chẳng mau.

Khi ấy Lục Tổ liền ấn khả nói:

- Đúng thế! Đúng thế!

Bởi vì thiền sư Vĩnh Gia trước đã ngộ nhập tâm địa, chẳng qua là muốn tâm tâm ấn khả nhau, cho nên đến cầu Lục Tổ ấn chứng mà thôi. Sau khi Lục Tổ ấn khả, ngài Vĩnh Gia mới đầy đủ oai nghi lễ bái. Trong chốc lát, ngài cáo từ muốn đi.

Tổ bảo:


- Trở về quá nhanh? Đáp:

- Vốn không có đi lại, há có nhanh ư?

Tổ bảo:

- Cái gì biết vốn không có đi lại.



Đáp:

- Nhơn giả tự sanh phân biệt.

Tổ bảo:

- Ngươi được ý vô sanh rất sâu.



Đáp:

- Vô sanh há có ý ư?

Tổ bảo:

- Không ý, cái gì biết phân biệt?



Đáp:

- Phân biệt cũng chẳng phải ý.

Tổ khen:

- Lành thay! Lành thay! Hãy ở lại đây nghỉ một đêm.

Cho nên người đời sau gọi ngài Vĩnh Gia là Nhất Túc Giác. Ngài Vĩnh Gia sau khi yết kiến Lục Tổ, có trước tác một thiên Chứng Đạo Ca. Mở đầu là:

Anh thấy chăng? Tuyệt học vô vi, ấy đạo nhơn,

Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chơn,

Tánh thật vô minh tức Phật tánh,

Thân không ảo hóa tức pháp thân!

Pháp thân giác rồi không một vật,

Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật

cho đến:


Voi lớn đâu thèm đi dấu thỏ,

Ngộ lớn xá gì chi tiết nhỏ,

Đừng dòm trong ống kiếm trời xanh,

Chưa tỏ, vì anh ta mở rõ.

Bởi vì sự ngộ thiền của Nam Tông đã cao, chẳng khỏi làm cho người kinh ngạc nghi báng, cho nên tóm kết nêu bày ra sự quyết đoán.

Ngài Thần Hội khi đến yết kiến Lục Tổ, còn là một chú sa-di. Ban đầu khi yết kiến Tổ, Tổ cùng với người hỏi đáp, nhơn vì ngài rất lanh lợi, cho nên từng bị Lục Tổ đánh. Trước khi thị tịch, một hôm Tổ hỏi đại chúng:

- Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không họ, không lưng không mặt, các ông biết chăng?

Ngài Thần Hội ở trong chúng bước ra thưa:

- Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Tổ bảo:

- Ta đã nói với ông là không tên không họ mà ông lại gọi là bản nguyên, Phật tánh. Về sau, ông ra hoằng pháp cũng chỉ thành tông đồ của hàng tri giải!



Sau khi Tổ nhập diệt, ngài Thần Hội ở phương bắc rộng hoằng tông đốn giáo của Lục Tổ, ngài có trứ tác tập Hiển Tông Luận, truyền pháp cho cả thảy là mấy mươi người. Ngài truyền cho ngài Vô Danh ở núi Ngũ Đài, truyền xuống Quốc Sư Trừng Quán làm Tổ đời thứ ba, tức là Tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm. Đến Tổ đời thứ năm là thiền sư Đạo Viên, lại truyền xuống ngài Khuê Phong Tông Mật, tức là Tổ thứ năm của Tổ Hoa Nghiêm. Những vị này có thể được đưa vào truyền thống Ngộ Tâm Thành Phật Thiền.

2. Tư tưởng thiền học của Lục tổ Huệ Năng:

Những lời dạy của Lục tổ được môn nhân Pháp Hải ghi chép lại thành kinh Pháp Bảo Đàn. Kinh này nói về pháp Ma-ha Bát-nhã và phát triển thành Đốn giáo Nhất siêu trực nhập. Đem lý luận Vô niệm, Vô tướngVô trụ trong Kinh Kim Cang kết hợp lại, rồi đề xướng Vô niệm là tông, Vô tướng là thể, và Vô trụ là bản, làm phương pháp thực tu của Thiền tông. Lại có cách giải thích mới về thiền định: Ngoài lìa các tướng là thiền, trong không loạn là định, tức là chỉ cần đạt đến vô niệm thì chính đó là thiền định.



Tóm lại Thiền tông sau Lục tổ Huệ Năng phát triển rất nhiều tư tưởng đặc sắc, như: Tự tính cụ túc, Kiến tính thành Phật, Tự tâm đốn ngộ, Trực chỉ nhân tâm, và đều phản ánh ở trong Đàn Kinh. Có thể nói Đàn Kinh đặt nền tảng cho sự phát triển của Thiền tông Nam Tông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  • Trung Quốc Thiền tông đại toàn.

  • Thái Hư Đại sư toàn thư

  • Tổ sư thiền do Đổng Quần soạn






Каталог: kinh -> Audio -> Phat%20Hoc%20Ham%20Thu -> Tu%20Xa -> Khoa%201 -> HK%201 -> Thien%20Hoc%20Dai%20Cuong -> Tai%20Lieu
HK%201 -> Ôn thi tại lớp môn tâm lý HỌC (Dành cho học viên khoa Đttx khóa 1)
Khoa%201 -> OOo CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Khoa%201 -> I. Cấu trúc: A. Giới thiệu
Khoa%201 -> LỊch sử KẾt tập kinh luật lần thứ 1 tt thích Phước Sơn
Khoa%201 -> Hổ cầu bách thú nhi thực chi, đắc hồ
Khoa%201 -> QUÁ trình hình thành ðẠi tạng kinh hán văN
Tai%20Lieu -> HỌc viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm. 750- nguyễn Kiệm – Q. Phú nhuậN – Tp. Hcm
HK%201 -> Ôn thi tại lớp môn văn học pali (Dành cho học viên khoa Đttx khóa 1)
HK%201 -> VĂn học phạn ngữ (VĂn học sanskrit) Giảng viên: Thích Nguyên Hạnh (Đức Trường) Tài liệu tham khảo

tải về 172.08 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương