Đông Phương Huyền Bí


CHƯƠNG 11 : MỘT CUỘC GẶP GỠ LẠ LÙNG



tải về 1.6 Mb.
trang6/7
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích1.6 Mb.
#33750
1   2   3   4   5   6   7
CHƯƠNG 11 : MỘT CUỘC GẶP GỠ LẠ LÙNG
Tôi đã trở lại miền Tây một lần nữa, nhưng không có một chương trình nhất định. Tôi đã quá mệt mỏi vì những chuyến xe lửa nhiều bụi bặm và những cỗ xe bò thiếu tiện nghi nên thuê một chiếc xe hơi cũ và một người Ấn vừa làm tài xế vừa là bạn đường. Anh ta cũng là người sẵn lòng giúp tôi thực hiện những chuyện vặt vãnh khi cần. 

Phong cảnh trên đường đi thay đổi liên tục. Khi xe đi qua một khu rừng, người tài xế phải ngừng xe khi trời tối, và nếu không tìm thấy làng mạc nào ở gần đó thì anh ta đốt lên một ngọn lửa lớn để làm cho thú dữ tránh xa. Dường như trong rừng có rất nhiều beo và mèo rừng, nhưng ánh lửa làm cho chúng không dám lại gần. Ngoài ra còn có loài sơn cẩu, phát ra những tiếng sủa rùng rợn trong cụm rừng gần bên. Ban ngày, loài kên kên ăn thịt bay lượn trên không, dưới một vòm trời nắng gắt. 

Một buổi chiều đẹp trời, trong khi ngồi trên xe lướt êm trên đường, tôi nhìn thấy bên vệ đường có hai người lạ lùng. Một người mặc áo tu sĩ ngồi tĩnh toạ dưới bóng cây, còn người kia là một thanh niên, dường như là đệ tử của người tu sĩ. Người tu sĩ già dặn hơn, vẫn ngồi điềm nhiên bất động, và có lẽ đang ngồi thiền định, vì anh ta không buồn chú ý đến chiếc xe vừa đi qua, mặc dầu người thanh niên đã nhìn thấy tôi. Có một điều gì đó hấp dẫn tôi đến gần người tu sĩ và tôi quyết định ngừng xe. Tôi bảo người tài xế hãy trở lại để hỏi thăm vài điều về hai người lạ mặt, và trong một lát tôi đã thấy người tài xế nói chuyện một cách sôi nổi với người thanh niên. 

Khi người tài xế trở lại xe, anh ta cho biết hai người lạ mặt đó quả là hai thầy trò. Người thầy tên là Chandi Das, là một tu sĩ Yogi có nhiều quyền năng lạ lùng. Họ đi lang thang từ làng này sang làng khác, và đã vượt qua rất nhiều dặm đường, có khi đi bộ, có khi đi xe lửa. Họ khởi hành từ tỉnh Bengale là nơi quê hương của họ, từ hai năm về trước. 

Tôi liền mời họ lên xe, và người tu sĩ nhận lời với một thái độ thản nhiên còn người thanh niên thì lộ rõ một tia mừng rỡ trong mắt. Chiếc xe ngừng lại một làng kế cận và chúng tôi định ngủ đêm tại đây. 

Đường sá vắng tanh không một bóng người, trừ một chú mục đồng coi giữ đàn bò gầy ốm bên cổng làng. Ngày đã gần tàn nhưng trời còn nóng bức, chúng tôi đến gần một cái giếng để uống nước, nước không được trong lắm nhưng uống rất mát. 

Làng này không có vẻ gì hấp dẫn, chỉ có độ mươi gian nhà tranh dọc theo hai bên một con lộ duy nhất. Nóc nhà lợp bằng rơm, tường đắp bằng đất với hàng rào tre trông có vẻ nghèo nàn. Vài người dân làng ngồi trong bóng tối trước nhà của họ, một bà già bước đến gần giếng, nhìn chúng tôi với cặp mắt khô khan, múc đầy nước vào cái bình đồng và lẳng lặng bước đi. 

Người tài xế sau khi đã pha trà xong liền đi tìm nhà người trưởng làng. Hai thầy trò người Yogi vẫn im lặng ngồi nghỉ trên bãi cỏ. Người Yogi chỉ biết một vài tiếng Anh, không đủ để trò chuyện, tôi định nhờ người tài xế làm thông ngôn để phỏng vấn ông ta khi đã lo xong chỗ ở. 

Dần dần, một nhóm nhỏ gồm có đàn ông, đàn bà và trẻ con đến vây quanh chúng tôi. Dân chúng ở vùng nội địa ít khi thấy được người Âu, và nói chuyện với họ không phải là một điều vô ích vì họ rất hồn nhiên và có những ý kiến bất ngờ hết sức chân thật đối với cuộc đời. 

Đối với trẻ con, tôi là một vật lạ, nhưng tôi chinh phục chúng dễ dàng bằng vài đồng xu. Chúng cũng tỏ ra hâm mộ cái đồng hồ reo của tôi, và lấy làm ngạc nhiên khi tôi vặn cho nó reo vang để làm vui tai chúng. Một người đàn bà đến gần và cúi rạp đầu lạy người yogi ở ngay giữa đường. Bà ta lấy tay chạm nhẹ vào chân người yogi rồi đặt lên trán mình để tỏ dấu cung kính. 

Người tài xế trở lại cùng với người trưởng làng và cho hay trà đã sẵn sàng. Anh ta đã tốt nghiệp Trung học nhưng phải làm đủ mọi nghề: phu khuân vác, tài xế, thông ngôn. Anh ta tọc mạch muốn biết về mọi sự việc của Tây phương, và hy vọng rằng có ngày tôi sẽ đưa anh ta sang Âu châu. Tôi đối xử với anh ta như một người bạn, vì anh ta thông minh và có nhiều thiện chí. 

Trong khi chờ đợi, chắc có ai mời mọc hai thầy trò người yogi, vì họ đã biến mất. Những người dân làng quê thường hiếu khách hơn người thành thị. 

Chúng tôi lên đường đến nhà người trưởng thôn khi mặt trời đã ngả hẳn về tây và sa xuống đỉnh các ngọn đồi ở tận chân trời màu đỏ thắm. Chúng tôi dừng chân trước một căn nhà tranh cao ráo sạch sẽ hơn những nhà khác. Tôi ngỏ lời cám ơn chủ nhà. Người này đáp một cách rất lịch thiệp: 

– Sự hạ cố của quí vị là một điều hân hạnh cho tôi. 

Sau khi dùng trà, mọi người còn ngồi lại chuyện trò một lát. Bóng hoàng hôn đã buông xuống khắp cánh đồng, những người mục đồng đã đủng đỉnh dắt trâu về chuồng. Tôi nhờ tài xế đi tìm người yogi và xin ông ta dành cho tôi một cuộc hội kiến. 

Một lát sau, người tài xế trở về và đưa tôi đến một căn nhà nhỏ và thấp, có vẻ nghèo nàn. Tại đây chỉ có người đệ tử trẻ tuổi đón tiếp tôi, còn người yogi vắng mặt vì được mời đi chữa trị cho một người bệnh nặng. Tôi phải ở đó đợi ngườiyogi trở về. Một lát sau, ông ta trở về và vừa gặp tôi ông ta liền đưa tay phác một cử chỉ thân thiện và nói một câu mà người tài xế dịch lại là: 

– Chào tiên sinh, cầu xin ơn trên phù hộ cho ông. 

Nói xong, ông ta liền ngồi bệt xuống đất, hai chân xếp bằng sau khi từ chối một tấm mền vải của tôi đưa ra để làm nệm lót. Vì ông ta ngồi đối diện ngay trước mặt nên tôi có thể quan sát ông ta tỉ mỉ, bộ râu không chải chuốt làm cho ông ta hơi già đi, tuy thế có vẻ như cũng không quá năm mươi tuổi. Ông ta để tóc dài đến cổ, vành môi nghiêm khắc hình như không bao giờ cười. Điều đáng chú ý nhất là cặp mắt sáng quắc. Cái nhìn đó không phải là của một người bình thường. Tôi có cảm giác rằng nó sẽ ám ảnh tôi suốt nhiều ngày. 

Người yogi mở lời trước: 

– Ông từ phương xa đến đây? 

Tôi gật đầu. Ông ta hỏi tiếp: 

– Ông nghĩ sao về đại đức Mahasaya

Tôi giật mình vì ngạc nhiên! Làm sao ông ta biết được rằng tôi vừa đến viếng tỉnhBengale và gặp Đại đức Mahasaya ở Calcutta? Tôi lặng thinh một lúc rồi đáp: 

– Đại đức đã chinh phục được tấm lòng tôi. Nhưng tại sao ông lại hỏi như vậy? 

Người tu sĩ làm như không nghe câu hỏi của tôi, và tôi phải nói tiếp để phá tan sự im lặng: 

– Tôi định sẽ gặp lại Đại đức khi tôi trở về Calcutta. Đại đức có biết ông không, và ông có muốn gửi lời chào Đại đức chăng? 

– Không, ông sẽ không còn dịp để gặp lại Đại đức Mahasaya. Vào lúc này, Đại đức đang sắp sửa về với cõi vĩnh hằng! 

Tôi lại sửng người trong một lúc, phân vân không biết có nên tin vào những lời vừa nghe thấy hay không. Sau một lúc im lặng, tôi chuyển đề tài: 

– Tôi rất quan tâm đến pháp môn Yoga và đời sống của các tu sĩ. Ông có thể cho tôi biết nhân duyên gì đã khiến ông trở thành một người yogi, và trên đường tu tập ông đã thâu hoạch được những kết quả gì hay chăng? 

Nhưng Chandi Das dường như không muốn nói nhiều. Ông ta trả lời một cách lãnh đạm: 

– Dĩ vãng là một đống tro tàn. Tôi không muốn đào bới dĩ vãng để tìm lại những sự việc nay đã không còn nữa. Tôi không sống trong dĩ vãng, cũng không sống trong tương lai. Những điều đó chỉ là là hư ảo, như những cái bóng chập chờn vô định. Đó là sự minh triết mà pháp môn Yoga đã mang lại cho tôi. 

Điều này làm tôi ngạc nhiên. Tôi bèn phản đối: 

– Nhưng chúng ta là những kẻ sống trong thời gian, làm sao có thể không biết đến thời gian được? 

Ông ta thản nhiên hỏi ngược lại tôi: 

– Sống trong thời gian ư? Ông có chắc rằng có một cái gì đó để gọi là thời gian hay không? 

Thật là một câu hỏi hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Dường như tôi không thể hình dung được đề tài của cuộc tranh luận mà người yogi này đang dẫn tôi vào, nhưng đó sẽ là một cuộc tranh luận không có lối thoát. Người tu sĩ này quả thật có những năng khiếu lạ lùng đúng như đệ tử của ông ta đã tuyên bố chăng? Nhưng không kìm được sự tò mò, tôi đánh bạo hỏi: 

– Nếu thời gian không có thật, thì dĩ vãng và tương lai hẳn phải hiện ra cùng lúc ngay trong hiện tại. Nhưng kinh nghiệm cho ta thấy là ngược lại. 

– Cái kinh nghiệm mà ông nói đó, kinh nghiệm của thế gian, vốn dĩ đã là không thật. Làm sao nó có thể chứng minh cho một điều có thật? 

– Nhưng đó là lẽ tự nhiên đối với tất cả mọi người. Phải chăng ông muốn nói rằng còn có một loại kinh nghiệm khác hẳn và đưa đến nhận thức trái ngược về vấn đề này? 

– Đúng vậy. 

– Nếu vậy, phải chăng tôi nên kết luận rằng tương lai cũng là hiện tại đối với ông?

Chandi Das thong thả đáp: 

– Tôi không quan tâm đến điều đó. Tôi không cần biết trước những sự việc sẽ đến với tôi trong tương lai. 

– Nhưng bằng vào nhận thức phi thời gian của ông, phải chăng ông có thể biết trước những điều sẽ xảy đến trong tương lai của người khác? 

– Phải, nếu tôi muốn. 

Tôi quyết định phải hỏi cho thật rõ: 

– Xin ông nói rõ thêm. Phải chăng ông có thể tiên đoán việc tương lai? 

– Không phải là tiên đoán, mà là nhận biết. Cũng đơn giản như ông nhận biết một vật gì đó mà ông nắm trong bàn tay, vậy thôi. Nhưng cũng có những giới hạn nhất định, vì không phải mọi sự kiện đều được sắp đặt trước một cách cố định. Cái mà ông gọi là tương lai đó cũng có thể thay đổi. 

– Nhưng ông có thể biết được một phần nào về tương lai của tôi và nói cho tôi biết được chăng? 

– Ông muốn biết để làm gì? 

– Tôi đã từng bị ám ảnh giày vò bởi nhiều vấn đề nghiêm trọng về tâm linh. Vì muốn soi sáng phần nào những vấn đề đó mà tôi đến xứ này. Có lẽ những điều tiết lộ của ông sẽ có thể soi sáng con đường của tôi, hoặc cũng có thể cho tôi biết rằng bao nhiêu công lao khó nhọc của tôi đều là vô ích. 

Người yogi ngước lên nhìn tôi với cặp mắt đen láy. Tôi bị hấp dẫn bởi cái phong độ ung dung tự tại và sự minh triết của người đạo sĩ này, dường như đang tỏa chiếu hào quang làm sáng rỡ cái chòi tranh nghèo nàn ẩn náu trong rừng thẳm. Sau cùng, Chandi Das cất tiếng nói: 

– Tôi không được biết nhiều về khoa học Âu Tây, nhưng nếu ông sẵn lòng nghe tôi thì cuộc hành trình của ông sẽ không phải là vô ích. Ông hãy trở lại thành phố đầu tiên khi ông bước chân vào xứ Ấn Độ, và trong tháng sau ông sẽ được như ý nguyện. 

– Trở lại Bombay ư? 

– Phải. 


Tôi không hiểu gì cả! Bombay, một thành phố đã bị Âu hóa hết ba phần tư! Tôi còn có thể thâu thập được gì ở thành phố đó? Tôi nói: 

– Tôi xin thú thật là ở Bombay tôi đã tìm nhưng không gặp được ai để dắt dẫn tôi cả. 

– Tuy vậy, đó vẫn là con đường phải đi của ông. Ông hãy đi cho nhanh, đừng để phí thời giờ. Tốt nhất là ông hãy đi vào ngày mai. 

– Đó là tất cả những gì ông muốn nói với tôi sao? 

– Có thể nhiều hơn, nhưng chỉ bấy nhiêu đó là những điều có ích cho ông mà thôi. 

Người yogi lại đắm chìm trong sự im lặng. Cặp mắt ông ta giống như mặt nước hồ trong vắt yên tĩnh... Sau thời gian nhập định đó, ông ta lên tiếng: 

– Ông sẽ từ giã Ấn Độ để trở về phương Tây trước mùa thu tới đây. Ông sẽ đau nặng vào lúc ông sắp sửa rời khỏi xứ này. Tinh thần ông phải chiến đấu trong một thể xác tàn tạ, nhưng ngày giờ giải thoát của nó chưa đến. Ông sẽ được tìm thấy điều ông muốn chỉ sau khi đã trở lại đất Ấn Độ tất cả là ba lần. Một vị tôn sư mà ông có nhân duyên trong quá khứ hiện nay đang chờ đợi ông. 

Người yogi lại im lặng một lúc, đôi mí mắt ông ta đường như hơi cử động. Kế đó, ông ta nhìn thẳng vào cặp mắt tôi và nói: 

– Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với ông. 

Chandi Das từ chối không chịu nói gì về đời tư của ông ta, làm cho tôi không biết nghĩ thế nào về những lời tiên tri lạ lùng đó, và tôi cảm thấy còn có nhiều điều khác nữa mà ông ta không chịu nói. 

Trong khi câu chuyện đang tiếp diễn, tôi phải bật cười khi nghe người đệ tử hỏi tôi với một vẻ mặt trịnh trọng, hình như anh ta cũng tự hào về cái bản lĩnh cao cường của thầy anh ta: 

– Những người yogi của Anh quốc có thể nói tiên tri được như vậy chăng? 

Tôi phải khó nhọc một lúc mới làm cho anh ta hiểu được rằng ở Anh quốc không hề có các đạo sĩ yogi

Trọn buổi tối diễn ra với những cơn im lặng kéo dài, và khi người yogi cho tôi biết rằng ông ta không còn điều gì muốn nói nữa thì người nông phu mời tôi ở lại dùng bữa cơm đạm bạc với anh ta. Tôi đáp rằng tôi đã có đủ mọi thứ mang theo trong xe, và sẽ làm cơm tại nhà người trưởng làng rồi ngủ đêm tại đó. Người nông dân bảo rằng ông ta phải tuân theo tập tục cổ truyền là người chủ nhà phải tiếp khách từ phương xa đến, và khẩn khoản mời mọc hết lời, làm cho tôi không còn cách nào từ chối được. 

Khi tôi vừa ngỏ lời đồng ý, người nông dân liền mang ra ngay trước mặt tôi một dĩa cơm rang nóng sốt. 

Một vừng trăng khuyết hiện ra trong khung cửa sổ nhỏ hẹp. Tôi nghĩ rằng không một sự học vấn hay lịch lãm nào của những người thành thị có thể so sánh được với tấm lòng tốt đơn giản của những người thất học ở chốn thôn quê. 

Khi tôi từ giã hai thầy trò đạo sĩ Chandi Das, người nông dân gỡ lấy cái đèn lồng treo trên trần nhà và tiễn đưa tôi ra tận đường cái. Anh ta đưa bàn tay lên trán để chào và đứng lại một lúc lâu nhìn khách lên xe. Kế đó, tôi trở về nhà người trưởng làng dưới ánh đuốc lập loè do người tài xế cầm nơi tay. 

Tôi trằn trọc ngủ không yên giấc, và nghĩ đến những lời tiên tri của người đạo sĩ. Giấc ngủ của tôi bị khuấy động bởi tiếng kêu rùng rợn của những con sơn cẩu trong khu rừng kế bên, và những tiếng chó sủa trăng vọng lại không dứt từ đàng xa. 

Tuy không thực sự có ý định tin theo lời khuyên của người đạo sĩ, tôi vẫn điBombay vì nhiều lý do khác. Nhưng vừa yên nơi yên chỗ xong thì quả nhiên tôi đau nặng. 

Nằm trong bốn vách tường của một căn phòng khách sạn, mệt mỏi cả tâm hồn lẫn thể xác, tôi đã phải vất vả chiến đấu với sự nản lòng. Tôi đã bắt đầu cảm thấy chán ngán xứ Ấn Độ. Tôi đã vượt qua hàng ngàn dặm đường, dưới những điều kiện thật khó khăn, để rồi rốt cuộc phải nằm co một nơi trong khu sang trọng của một thành phố lớn. Tôi biết rất rõ rằng, không phải giữa những quán rượu, những vũ trường, những sòng bài và những cốc rượu mạnh pha soda sủi bọt mà tôi có thể khám phá ra cái huyền bí của Ấn Độ, điều mà tôi đang khắc khoải đi tìm. Sự la cà ở những khu bình dân bản xứ chắc chắn đã giúp tôi rất nhiều trong sự sưu tầm, nhưng điều đó lại ảnh hưởng bất lợi cho sức khoẻ của tôi. Còn nói về những cuộc phiêu lưu ở chốn non cao động cả, hay những vùng làng mạc xa xôi trong rừng thẳm, thì tôi đã phải trả một cái giá rất đắt là ăn uống thất thường, thiếu dinh dưỡng, thiếu vệ sinh, với những cuộc hành trình vất vả mệt nhọc lúc ban ngày và những đêm mất ngủ vì tiết trời nóng nực. Kết quả là nay tôi đang mang cái thể xác bệnh hoạn như một gánh nặng. 

Tôi sẽ chịu đựng được một đời sống như thế này trong bao lâu nữa? Đôi mắt tôi đã nặng trĩu vì buồn ngủ. Sự mất ngủ luôn bám lấy tôi một cách chặt chẽ như một con mực khổng lồ bám lấy mồi, kể từ khi bắt đầu cuộc hành trình. Sự bắt buộc phải sống chung đụng với những người thuộc một nòi giống khác, phải luôn luôn giữ thế quân bình giữa một bộ óc xét đoán khoa học và một sự thụ cảm tâm linh, làm cho thần kinh hệ của tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi đã phải thường xuyên cảnh giác phân biệt giữa những nhà đạo sĩ hiền triết chân tu với những kẻ điên rồ, lầm lạc giữa những điều ảo vọng với những cảm hứng thiêng liêng. Tôi cũng phải biết phân biệt những tu sĩ thần bí với những kẻ buôn thần bán thánh, và tôi phải học biết tất cả những điều đó trong một thời gian tối thiểu, vì dầu sao tôi cũng không thể bỏ phí nhiều năm của một đời người để chạy theo một sự tìm tòi như thế! 

Nếu thể xác tôi đã kiệt quệ thì tâm hồn tôi dường như cũng không hơn gì: tôi có cảm giác như bị hoàn toàn thất bại cả về vật chất lẫn tinh thần. Dĩ nhiên là tôi cũng đã gặp được những người chân tu có một giá trị tâm linh cao khiết, tôi cũng đã gặp những người thực hiện được những điều lạ lùng, nhưng tôi chưa gặp được bậc chân sư mà tôi tìm kiếm, một bậc danh sư có thể làm thỏa mãn cả lý trí lẫn tình cảm của tôi. 

Những vị đệ tử quá sốt sắng đã cố gắng lôi cuốn tôi theo về môn phái của họ. Tôi đã thừa hiểu rằng cũng ví như trong thời niên thiếu người ta lầm tưởng một chuyện tình ái vụn vặt là một mối tình lớn của cả một đời người, thì những người trẻ tuổi này đã lầm tưởng cái kinh nghiệm đầu tiên của họ là một sự khám phá tuyệt diệu, và điều đó thường ngăn trở không cho họ tiến tới nữa. 

Có ích lợi gì mà nhồi vào bộ óc của tôi thêm một giả thuyết hư vô, thần bí, nếu đồng thời tự trong tâm tôi không xuất hiện một cái gì sống động, độc đáo, đặc biệt là của riêng tôi, một sự giác ngộ thiêng liêng là của tôi chứ không phải là một thứ ánh sáng mượn tạm từ bên ngoài? 

Nhưng nghĩ lại, tôi là ai mà dám ước mơ những triển vọng cao cả như thế? Tôi có quyền lực gì mà dám ước mong đến những thành tựu tâm linh cao siêu đến thế? 

Nhìn về khía cạnh nào của vấn đề, tôi cũng chỉ thấy toàn những lý do của sự chán nản, tuyệt vọng. Khi tôi đã thấy hơi khỏe để có thể bước xuống phòng ăn, tôi thấy ở bàn kế bên có một người sĩ quan. Người này nói chuyện với tôi về bà vợ của anh ta đang đau ốm trầm trọng chạy chữa thuốc thang không hết, về đơn xin nghỉ phép của anh ta bị từ chối... Điều này càng làm cho tôi chán nản hơn nữa. 

Bữa cơm xong, vị sĩ quan vừa châm một điếu xì gà lớn vừa nói: 

– Đời người phải chăng chỉ là một tấn bi hài kịch? Phải không? 

Tôi cũng đáp buông xuôi lấy lệ: 

– Ừ, một tấn bi hài kịch! 

Nửa giờ sau, tôi gọi taxi đi đến đường Hornby và bước vào văn phòng một một công ty hàng hải. Tôi mua vé tàu với ý nghĩ rằng trong hoàn cảnh hiện thời không còn giải pháp nào khác hơn là lên đường trở về càng sớm càng hay. Sau đó, tôi trở về khách sạn mà không màng để ý đến những tòa lâu đài dinh thự đồ sộ nguy nga của thành phố Bombay

Chiều đến, người phục vụ đặt trên bàn tôi một món cari ngon lành và thơm phức, nhưng tôi không thấy đói. Tôi chỉ uống một ly nước đá lạnh và gọi taxi ra đi. 

Xe ngừng trước một rạp chiếu bóng, đèn neon chiếu sáng lòa cả một vùng chung quanh: đó là một món quà của phương Tây nhập cảng sang Ấn Độ. 

Thỉnh thoảng tôi vẫn đi xem chiếu bóng, và đó là một nguồn lãng quên, ví như nước sông Nại hà ở cảnh âm ti có thể làm cho người ta quên đi tất cả chuyện quá khứ trước lúc đầu thai. Người ta không còn thấy cô đơn khi mà trong bất cứ một thành phố nào của thế giới, người ta cũng có thể thuê một chiếc ghế bành êm dịu trong gian phòng ấm cúng để xem những chuyện phim kéo dài trong vài giờ. 

Tôi bước vào và liền thấy trên màn bạc cảnh người vợ ngoại tình và người chồng chơi bời phóng túng trong một khung cảnh sang trọng quí phái. Nhưng cốt chuyện trên màn bạc làm tôi chán nản, tôi đã mất hẳn cái hứng thú đi xem chiếu bóng! Tấn bi hài kịch trên màn bạc không còn làm cho tôi cười hay khóc được nữa, vì tôi hoàn toàn dửng dưng với nó. Trong khi đó, cảnh vật chung quanh tôi, cả gian phòng lẫn màn bạc, đều như xóa mờ trong một thế giới huyền ảo và tâm trí của tôi lại quay về với cái vấn đề vẫn ám ảnh tôi từ trước. Bỗng nhiên, thần kinh và cân não tôi bị căng thẳng mãnh lệt, tôi cảm thấy dường như có một luồng điện chạy qua trong bầu không khí chung quanh và một sự thay đổi lớn đang diễn ra trong người tôi. Một tiếng nói từ trong nội tâm phát ra và bắt buộc tôi phải chú ý: 

– Cuộc đời cũng chẳng khác nào như một chuyện phim, một ảo ảnh luôn luôn biến động, diễn ra từ vành nôi cho đến nấm mồ. Những sự vật trong quá khứ nay còn đâu nữa: ngươi có thể kêu gọi nó ra được chăng? Thay vì tiếp tục thẳng tiến đến cái chân thật, bền bỉ, trường tồn, ngươi lại dừng chân ở nơi đây và lãng phí thời giờ với những hình ảnh còn hư dối hơn cả cuộc đời, với một câu chuyện tưởng tượng, một ảo ảnh nằm trong ảo ảnh! 

Thật vậy, tôi đã chán nản những tấn bi kịch về tình ái của người đời. Tôi bèn đứng dậy đi ra để thở không khí mát mẻ ở bên ngoài, đi thẩn thơ vô định dọc theo các đường phố dưới ánh trăng êm dịu. 

Đến một góc đường, một người hành khất đến gần tôi và thốt ra một tiếng kêu lạ lùng làm cho tôi ngẩng mặt lên: tôi lùi lại trong sự khủng khiếp vì gương mặt của người ấy bị một chứng bệnh quỉ quái gì làm lở loét đến tận xương. Nhưng lòng trắc ẩn còn mạnh hơn sự ghê tởm, tôi bèn cho hết những đồng tiền lẻ còn lại vào bàn tay lật ngửa của anh ta. 

Tôi đi đến bờ biển để tìm một nơi hẻo lánh và tránh chỗ đông người, dưới vòm trời đầy sao. Tôi nghĩ đến cơn khủng hoảng vừa rồi trong rạp hát, và tự thả trôi theo những ý nghĩ triền miên không dứt. 


---o0o---

Chỉ còn vài ngày nữa là tôi sẽ xuống tàu vượt biển trở về châu Âu. Thôi, hãy tạm ngưng việc học đạo. Tôi nghĩ đến tất cả những gì mà tôi đã hiến dâng như thời giờ, tiền bạc, trí não, công lao... Tôi không hy sinh thêm nữa để chạy theo những giả thuyết vu vơ. Khi ngồi trên tàu, có lẽ tôi sẽ tiếp tục nghĩ như vậy. Nhưng trong khi chờ đợi, tiếng nói của nội tâm lại giằn vật tôi một cách ráo riết, không dung tha: 

– “Đồ điên? Thì ra kết quả của bao nhiêu nguyện vọng thiết tha, của bao nhiêu năm tầm đạo, nay chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao? Ngươi sẽ trở lại với cuộc đời tầm thường, bước theo con đường bằng phẳng của thế nhân, quên hết tất cả những gì ngươi đã học và nhận chìm viên ngọc tâm linh quí báu của ngươi xuống chỗ bùn nhơ của thất tình lục dục. Nhưng này, ngươi hãy coi chừng! Cuộc đời học đạo của người có thể thoát khỏi một cách dễ dàng những đòi hỏi của một nguyện vọng như thế hay sao? Ngươi đừng hy vọng thoát khỏi, vì đó là sợi dây trói buộc ngươi đã từ lâu.” 

Một mình đứng dưới vòm trời đầy sao, tôi không thể cưỡng lại được tiếng nói của nội tâm giằn vật tôi một cách thẳng tay, không chút tội nghiệp, làm tôi trở nên bất lực trước sự khủng hoảng. Tiếng nói vô âm thanh kia tiếp tục: 

– “Ngươi có chắc rằng trong những người mà ngươi đã gặp không có ai đáng mặt là vị danh sư mà ngươi tìm kiếm hay chăng?” 

Tôi hồi tưởng lại tất cả những người tu sĩ và đạo sĩ yogi mà tôi đã gặp. Tất cả những gương mặt rám nắng hoặc đen sạm đều lần lượt diễn lại trong trí tôi, từ những nét mặt nhanh nhẹn vui tươi của người miền Bắc, thản nhiên của người miền Nam, linh hoạt và dễ cảm xúc của người miền Đông và im lặng trầm tĩnh của người miền Tây. Những gương mặt đó tuy khác nhau vì sự thiện cảm hay thù nghịch, khôn ngoan hay đần độn, có hảo ý hay có ác ý, nhưng tất cả đều có một điểm chung là bí hiểm, khôn dò. Tuy nhiên có một gương mặt tách riêng ra khỏi những gương mặt khác, mà đôi mắt không rời khỏi đôi mắt của tôi. 

Tôi đã nhìn ra rồi: đó là Đức Maharichi, vị Tôn Sư ẩn dật trên ngọn Đồi Thiêng ở tận dưới miền Nam xa xôi của Ấn Độ. Không bao giờ tôi có thể quên Ngài, nhưng những sự thay đổi của cuộc đời cùng những điều lo nghĩ dồn dập đã xoá mờ dần cái kỷ niệm êm đềm của những ngày ngắn ngủi mà tôi đã sống ở đạo viện với ngài. Tôi nhìn nhận rằng không có một người nào ở trần gian đã từng hấp dẫn tôi một cách lạ kỳ như thế. Nhưng Ngài dường như quá cách biệt đối với một người Âu như tôi, và quá thản nhiên đối với những mục đích khiêm tốn của tôi. 

Tuy nhiên, tiếng nói từ nội tâm lại vang lên: 

– Thản nhiên ư? Ngươi có chắc không? Phải chăng ngươi đã bỏ ra đi quá sớm? 

Lý trí của tôi cũng đáp lại để tự bào chữa: 

– Phải, có lẽ tôi đã quá vội vàng ra đi, vì tôi nghĩ đến chương trình của tôi. Tôi có thể nào làm khác được chăng? 

– Ít nhất có một điều mà ngươi có thể làm: hãy trở lại đạo viện!

– Như vậy, phải chăng tôi chỉ làm một điều miễn cưỡng? 

– Điều đó không quan hệ, điều quan hệ là sự thành công. Ngươi hãy trở lại với đức Maharichi. 

– Nhưng Ngài ở tận miền Nam, nơi tận cùng của xứ Ấn, mà tôi thì đau ốm, quá mệt mỏi để có thể lên đường. 

– Điều đó cũng không quan hệ. Nếu ngươi muốn gặp Tôn Sư thì ngươi đừng quản công lao khó nhọc. 

– Tôi đã quá mệt mỏi và chán nản nên không còn thiết đến điều gì nữa, và cũng không chắc rằng tôi còn có ý muốn đi tìm Thầy. Tôi đã giữ chỗ trên tàu và sẽ khởi hành trong ba ngày nữa. Muốn đổi ý kiến thì cũng đã muộn rồi. 

– Không bao giờ là quá muộn. Ngươi hay xét đoán sự vật đúng theo giá trị của nó. Ngươi nói rằng đức Maharichi là người siêu việt nhất mà ngươi đã gặp, vậy mà ngươi bỏ ra đi khi ngươi vừa mới được biết Ngài. Hãy trở lại cho mau! 

Lý trí đã chịu khuất phục và vâng theo tiếng nói của nội tâm, nhưng cái thể xác đau yếu còn chống cự lại. Tiếng nói bí mật kia lại tiếp tục: 

– Ngươi hãy hủy bỏ chương trình đã định, và hãy trở lại với đức Tôn Sư. 

Tiếng nói đó phát ra như một mệnh lệnh và vang rền trong tâm thức của tôi. Sự biện luận của lý trí và sự chống đối của thể xác mỏi mệt đều trở nên vô hiệu quả. Tôi như một đứa trẻ yếu đuối bất lực, không còn sức tự chủ. Vào lúc mà tiếng nói kia kêu gọi một cách mãnh liệt nhất, réo rắt thâm trầm nhất, thì hình ảnh của đứcMaharichi hiện ra trước mắt tôi, một hình ảnh sống động và hấp dẫn, không thể nào kháng cự lại được nữa. 

Tôi đành chịu thua và bỏ cuộc, như một kẻ chiến bại đành buông khí giới và rời khỏi chiến trường. Tôi sẽ trở lại đạo viện, và nếu Tôn Sư bằng lòng, tôi sẽ giao phó vận mạng tôi cho Ngài định đoạt. Thế là xong, tôi đã bị chinh phục, mặc dầu tôi vẫn còn hoang mang chưa hiểu ra sao cả, nhưng tôi mơ hồ cảm thấy như tôi không còn thuộc về tôi nữa! 

Tôi trở về khách sạn, uống một chén trà nóng, tôi đã hoàn toàn thay đổi, và cảm thấy nhẹ nhàng như trút được một gánh nặng. 

Sáng hôm sau, lần đầu tiên từ khi trở lại Bombay tôi cảm thấy vui vẻ và khỏe khoắn lạ thường. Người phục vụ của tôi trong bộ đồng phục trắng tinh, nịt thắt lưng vàng, khi vừa thấy tôi bước vào phòng ăn liền vui vẻ cười và nói: 

– Có thư của ông đây. 

Tôi mở thư ra xem thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy thư gửi từ đạo viện Arunachala, trên ngọn Đồi Thiêng. Thư ấy là của một vị Thẩm phán trong Hội Đồng Lập Pháp tỉnh Madras. Người này vì một tấn thảm kịch gia đình đã quyết định đi tu và trở nên một đệ tử của đức Maharichi. Tôi đã từng làm quen với anh ta và thỉnh thoảng có trao đổi thư từ qua lại. 

Trong thư, anh ta nói rằng tôi sẽ được hoan nghinh nếu tôi trở lại đạo viện. Câu cuối cùng trong thư lại nói: 

– “Ông rất may mắn được gặp vị Tôn Sư mà ông vẫn tìm kiếm.” 

Bức thư đến với tôi như một điềm lành, tôi liền đến văn phòng Công Ty hàng hải để xin hủy bỏ vé tàu về Anh quốc. Một lần nữa tôi lại từ giã thành phố Bombay và vượt qua vùng cao nguyên Décan để trực chỉ miền Nam. Lần này tôi có cảm tưởng như đi đến ánh sáng và an lạc. 

Qua hôm sau, tôi lấy làm sung sướng mà nhìn thấy lại những phong cảnh êm đềm và những ngọn đồi đất đỏ của miền Nam. Tôi càng phấn khởi hơn khi chuyến xe lửa đã qua khỏi vùng đồng nội khô khan và tôi bắt đầu thở cái không khí mùi gió biển của thành phố Madras, chấm dứt chặng đầu của cuộc hành trình.

Tại Madras, tôi phải đổi qua chuyến xe lửa khác và trong khi chờ đợi tôi đến viếng thăm nhà văn hào Mani, người bạn đồng nghiệp đã giới thiệu tôi với đức Tăng thống Sri Shankara độ nọ. 

Nhà văn hào tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt và khi được biết rằng tôi đang trên đường trở lại đạo viện của đức Maharichi thì anh ta nói rằng: 

– Tôi không ngạc nhiên, vì tôi đã biết trước. 

Tôi ngạc nhiên hỏi: 

– Vì sao anh lại nói như vậy? 

– Bạn ơi, bạn có nhớ chăng, khi chúng ta từ giã đức Tăng Thống ở Chingleput, khi ra tới hành lang, Ngài có quay lại nói nhỏ với tôi vài điều. 

– À, bây giờ anh nhắc lại tôi mới nhớ. Vậy đức Tăng Thống nói những gì? 

– Ngài nói với tôi như thế này: “Người bạn anh sẽ đi châu du khắp xứ Ấn Độ để tìm thầy. Anh ta sẽ gặp nhiều vị đạo sĩ, nhưng sau cùng anh ta sẽ trở lại với đứcMaharichi, vì đó là vị Tôn Sư duy nhất sẽ thích hợp với anh ta.” 

Thật là lạ lùng! Phải chăng đức Tăng Thống Sri Shankara quả thật là một nhà tiên tri. Dầu sao, những lời này cũng xác nhận và củng cố thêm quyết định của tôi, rằng tôi đã tìm thấy đúng con đường để đi.
---o0o---
CHƯƠNG 12 : ĐẠO VIỆN TRONG RỪNG THẲM

Có những giờ khắc mà người ta có thể ghi bằng chữ mạ vàng trong quyển lịch của đời mình. Đó là những giờ phút tuyệt vời nhất trong đời tôi khi tôi trở lại đạo viện của đứcMaharichi

Ngài vẫn ngồi trong tịnh thất như thường lệ, trên tấm da cọp rất đẹp. Những cây nhang nối tiếp nhau cháy một cách chậm chạp trên chiếc bàn nhỏ, tỏa ra khắp phòng một mùi hương thơm dịu. 

Lúc đó, đức Tôn sư không ngồi nhập định, Ngài vẫn tỉnh táo như thường, đôi mắt nhìn tự nhiên và đôi môi Ngài nở một nụ cười tiếp đón khi tôi bước vào tịnh thất và nghiêng mình kính cẩn chào Ngài. Vài vị đệ tử ngồi cách xa Ngài một cách cung kính, một vị đứng gần kéo cái quạt tre treo trên trần để quạt cho mát khắp phòng. 

Lần này tôi định trình bày cho Tôn sư biết rõ ý muốn của tôi, và chỉ yên lòng khi tôi biết được quyết định của Ngài. Nhưng tôi có nhiều hy vọng được Ngài thâu nhận, vì cái tiếng nói trong nội tâm đã gọi tôi từ Bombay trở về đây và vang lên như một mệnh lệnh là một tiếng nói mãnh liệt mà tôi không thể cưỡng lại. 

Sau vài lời giải thích, tôi trình bày lời thỉnh cầu của tôi một cách vắn tắt, gọn gàng, Đức Maharichi vừa nhìn tôi vừa mỉm cười, nhưng vẫn giữ im lặng. Tôi lặp lại câu nói của tôi, và lần này Ngài trả lời trực tiếp bằng tiếng Anh rất lưu loát: 

– Cần gì phải nói đến quan hệ thầy trò? Những sự khác biệt đó chỉ có dưới quan điểm của người sơ cơ. Đối với người nào đã phản hồi nguyên tánh của mình, thì không có sự phân biệt giữa thầy với trò, mà chỉ có người với người mà thôi. 

Tôi tự nghĩ phải chăng đó là một sự từ chối khéo léo? Tôi cố gắng trình bày yêu cầu của mình theo một cách khác và tôi được trả lời như sau: 

– Anh phải tìm thầy ở tự tâm chứ không phải nơi một người khác. Tôi muốn nói ở nơi tự tánh hay chân như, Phật tánh của chính mình. 

Tôi bắt đầu hiểu ý Ngài. Đức Maharichi không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, tôi phải tìm hiểu những lời nói của Ngài, nó rất sâu sắc và tế nhị. Tôi không nói thêm nữa về việc đó và chỉ nói chuyện với Tôn sư về chuyến du hành của tôi. 

Kế đó, tôi trở về chỗ nghỉ dành riêng cho tôi trong đạo viện, và chuẩn bị ở lại trong một thời gian dài. 
---o0o---
Trong tuần lễ kế đó, tôi sống một cuộc sống khá bất thường. Ban ngày tôi đến ngồi trong tịnh thất của đức Maharichi để nghe những lời vàng ngọc của Ngài và hy vọng nhận được câu trả lời mà tôi đang chờ đợi. Nhưng ban đêm tôi vẫn bị chứng mất ngủ, mặt dầu tôi nằm dưới đất một cách giản dị trong một cái chòi mới cất ở cách đạo viện chừng một trăm thước. Vách chòi làm bằng đất, nóc lợp tranh, chung quanh toàn là những bụi cây có gai, những loại cây xương rồng, là chỗ bắt đầu của khu rừng hoang rậm rạp, không hề có chân người bước đến. Phía bắc, khu rừng rậm trải dài đến tận chân ngọn đồi thiêng. Phía nam có một cái ao lớn, mặt nước phẳng lặng, trên bờ ao có nhiều chòm cây, thật nhiều khỉ vượn nhảy nhót trên cành. 

Những chuỗi ngày như thế trôi qua một cách đều đặn. Mỗi ngày, tôi dậy sớm trước khi mặt trời mọc và xuống ao tắm. Tôi phải đập nước và làm nhiều tiếng động để cho loài rắn tránh xa. Kế đó, tôi uống một cách ngon lành ba chén trà thơm nóng, là món xa xỉ phẩm duy nhất của tôi ở đạo viện thâm nghiêm này. 

Về những bữa ăn thì chỉ có duy nhất một người vừa lo việc bếp núc và đi chợ nấu ăn. Tuy thế, tôi cũng chỉ ăn một bữa trưa, còn buổi chiều thì tôi uống sữa hay uống trà. 

Sau khi điểm tâm xong, tôi thong thả bước xuống tịnh thất, có khi tôi ngừng lại ngắm nhìn những bụi hoa hồng trong vườn, hoặc ngồi trầm tư trong chốc lát dưới những gốc dừa sai trái. Vì buổi sớm mai mặt trời chưa lên cao nên dạo chơi trong vườn để thưởng hoa như thế là một điều rất thích thú. 

Kế đó tôi bước vào tịnh thất, cúi đầu chào Tôn sư và lặng lẽ đến ngồi xếp bằng dưới sàn gạch. Tôi được tự do đọc sách hay viết thư trong một lúc hoặc nói chuyện với các vị đệ tử, thưa hỏi Tôn sư về một vấn đề nào đó, hoặc tham thiền trong một giờ về một đề tài của Tôn sư đưa ra. 

Buổi tối được dành cho giờ tham thiền chung. Nhưng dầu cho tôi mắc bận việc gì, tôi cũng cảm thấy cái ảnh hưởng tốt lành của bầu không khí chung quanh mình luôn tiềm tàng một niềm an tĩnh thiêng liêng, phảng phất trong đạo viện. Chỉ cần được ngồi bên cạnh đức Maharichi cũng đủ làm cho tâm hồn được tràn đầy một nguồn an lạc vô biên. Phân tách về điều này, tôi nhận thấy chắc chắn phải có một sự giao cảm nhất định được tạo ra khi tôi với Tôn Sư ngồi gần nhau. Điều này tuy rất tế nhị, nhưng không thể nào lầm lẫn được. 

Đúng mười một giờ, tôi trở về chòi dùng cơm và nghỉ trưa. Kế đó, tôi trở lại ngồi nơi tịnh thất. Thỉnh thoảng, để thay đổi không khí, tôi đi dạo trong vùng chung quanh hoặc xuống tỉnh để viếng ngôi dền Bà-la-môn vĩ dại và tôn nghiêm ở đó. 

Đôi khi, đức Maharichi đích thân đến nơi chòi tranh để viếng tôi mà không báo trước. Lẽ tự nhiên, tôi không bỏ qua những dịp đó để thưa hỏi Ngài về nhiều vấn đề thắc mắc. Ngài nghe tôi một cách kiên nhẫn và trả lời tôi một cách vô tư tuy rằng chỉ với những lời rất ngắn ngủi, ít khi thành một câu trọn vẹn. Có lần tôi hỏi mà Ngài không trả lời. Cặp mắt ngài như đắm chìm vào hư không ở tận chân trời, Ngài im lặng như thế trong vài phút, không chút cử động, hình như Ngài không có ở đó nữa. Ngài thiền định suy tư hay mãi nhìn một vật vô hình nào giữa không gian mà chỉ riêng Ngài nhìn thấy? Ngài có nghe thấy tôi chăng? Dầu sao đứng trước mặt Ngài, tôi luôn cảm nhận có một sức mạnh nào đó xâm chiếm và chế ngự cả tâm hồn tôi. Việc ấy đã cho tôi một bài học. Có ích gì mà đặt ra những câu hỏi nọ kia và thảo luận dông dài khi mà tôi đã có tự nơi mình một kho tàng hiểu biết, chỉ cần tự đào xới lên để tìm thấy? Tốt hơn là hãy chấm dứt mọi suy luận, tranh cãi và cố gắng khai thác những gì tiềm tàng trong bổn tánh chân như của mình. Vì thế, tôi vẫn giữ im lặng và chờ đợi. 

Nửa giờ sau, đức Maharichi vẫn điềm nhiên bất động. Hình như Ngài đã quên đi sự có mặt của tôi, nhưng tôi vẫn cảm thấy rõ ràng rằng sự giác ngộ trong tâm tôi có một mối liên hệ chặt chẽ qua sự giao cảm với tâm hồn của ngài, một sự ảnh hưởng, tác động vừa rất cụ thể vừa huyền bí mơ hồ luôn bao trùm mối quan hệ giữa tôi với Ngài. 

Có lần, trong một cuộc viếng thăm bất thần như thế, Ngài thấy tôi dang bị giày vò bởi một cơn khủng hoảng, buồn rầu. Ngài mới an ủi và khuyến khích tôi, và nói về cái mục đích huy hoàng hứa hẹn cho người nào thực hành pháp môn Yoga

– Nhưng bạch Tôn sư, pháp môn đó là một con đường đầy những chướng ngại, và tôi tự biết rõ về sự yếu đuối của tôi. 

– Điều đó thường là nguyên nhân chủ yếu nhất trì kéo ta trên đường đạo. Chính sự thiếu tự tin đó, cái tinh thần chủ bại đó, đã làm tê liệt ý chí tiến thủ của con người. 

– Nhưng nếu sự chủ bại đó có căn cứ? 

– Nó không có căn cứ gì cả! Điều lầm lạc lớn nhất của chúng ta là luôn tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém... Đó là do những thói quen, lòng ham muốn và dục tình sinh ra, chứ không phái chính là của ta. 

Những lời dạy của ngài có một sức kích thích rất mạnh. Có lẽ tôi sẽ gạt bỏ, nếu đó là những lời từ một người nào khác thốt ra, nhưng lương tri của tôi cho biết rằng lời Ngài thốt ra là đúng chân lý, rằng Tôn sư không phải là một triết gia chỉ biết phân tích chi ly từng mũi kim, sợi tóc, mà là một bậc hiền giả có đầy đủ kinh nghiệm thâm sâu và phong phú về nội tâm. 

Một lần khác, trong một cuộc nói chuyện về đời sống ở phương Tây, tôi nói: 

– Tôn sư không có gì khó khăn trong việc tìm thấy sự an tịnh ở một đạo viện yên tĩnh như thế này, vì ở đây Ngài không bị xao lãng hay xáo trộn tinh thần. 

– Đó là anh tưởng như vậy thôi, nhưng một khi đã đi tới mục đích, một khi anh đã đạt được sự giác ngộ, thì dầu anh sống giữa chốn phồn hoa náo nhiệt của thị thành hay giữa sự im lặng của rừng thẳm, điều đó không có chi khác biệt cả. 

Một lần khác, khi nghe tôi phàn nàn về việc người Ấn Độ không chú ý đến sự tiến bộ về vật chất, Ngài nói: 

– Thật vậy, chúng tôi thuộc về một chủng tộc mà các anh gọi là lạc hậu. Nhưng chúng tôi quen sống đơn giản. Nhiều sự tiến bộ khoa học vẫn còn xa lạ đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi lấy làm an phận và không có quá nhiều nhu cầu vật chất như các anh. Như vậy, tuy ít tiến bộ hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi kém hạnh phúc. 

Bằng cách nào đức Maharichi đã đạt tới cái trình độ tâm linh tuyệt vời và siêu đẳng như thế? Nhờ sự góp nhặt tài liệu về cuộc đời của Ngài, do các đệ tử thuật lại hoặc do chính Ngài thỉnh thoảng tự nói ra, mặc dầu thường thì Ngài không thích nói về đời tư của mình, tôi đã chép lại đại khái tiểu sử của Ngài như sau: 

Ngài tên là Ramana, sinh năm 1879, tại một làng cách thành phố Madura độ ba mươi dặm. Thành phố này có một ngôi đền vĩ đại nổi tiếng ở miền Nam Ấn Độ. Cha ngài là một vị thẩm phán thuộc dòng Bà-la-môn, có tiếng là nhân từ, giàu lòng bố thí và hay cấp dưỡng cơm áo cho người nghèo. 

Ngài được nuôi nấng và giáo dục tại Madura, tại đây ngài học Anh văn ở một trường đạo của các vị giáo sĩ người Mỹ sáng lập. Lúc thiếu thời chàng thanh niênRamana rất thích chơi các môn thể thao và điền kinh. Chàng tập chơi các môn vật, đánh quyền và bơi lội. Chàng không biểu lộ một sự thích thú đặc biệt nào về tôn giáo hay triết học. Có điều lạ là hồi đó chàng thường có những cơn mộng du, nửa đêm đứng dậy đi trong giấc ngủ (somnambulism) và tiếp theo đó là một cơn ngủ say li bì, không có tiếng động nào có thể đánh thức dậy. 

Những bạn học cùng lớp kiêng sợ chàng lúc ban ngày vì chàng trả đũa lại rất mau chóng mọi sự khiêu khích của chúng. Nay chúng thấy vậy liền lợi dụng lúc ban đêm để trả thù. Chúng kéo chàng ra khỏi giường nằm, đưa chàng ra sân trường và đánh chàng nhừ tử rồi đem chàng để lại chỗ cũ trên giường mà chàng vẫn không tỉnh giấc. Qua ngày sau, chàng vẫn không hay biết chi cả. 

Đối với các nhà tâm lý học phương Tây thì hiện tượng lạ lùng này hầu như không thể giải thích được, nhưng một đạo sĩ phương Đông sẽ cho biết ngay rằng đó là những dấu hiệu hiển nhiên của một cơn đại định, khi tâm thức tập trung hoàn toàn vào một đối tượng nào đó. 

Ngày kia có một người thân đến viếng chàng và thuật lại rằng anh ta vừa đi hành hương ở Arunachala trở về. Danh từ này vang dội một âm thanh lạ lùng huyền bí trong trí của người thiếu niên mà chàng không hiểu lý do vì đâu. Chàng bèn hỏi thăm về Arunachala và khi chàng biết được sự tích của ngôi dền lớn ở đó, chàng liền bị một sự ám ảnh kỳ lạ không sao giải thích được. Tuy Ấn Độ có đến mười hai thánh địa, nhưng tại sao Arumachala lại làm sao cho chàng say mê và thích thú nhiều hơn những nơi thánh địa khác thì chàng cũng không thể trả lời được. 

Chàng tiếp tục sự học tại trường đạo nhưng không biểu lộ một khả năng đặc biệt nào, mặc dầu chàng là một học trò thông minh và chăm chỉ. Năm chàng mười bảy tuổi thì những chuyển biến lớn mới bắt đầu xảy ra. Chàng bỏ trường và thôi học mà không có lý do rõ rệt, cũng không cho các giáo sư hoặc gia đình biết trước. Sự thay đổi thình lình đó làm sụp đổ mọi triển vọng về tương lai của chàng, có một nguyên nhân nào chăng? 

Cái nguyên nhân đó đối với chàng thật là hiển nhiên, nhưng nó làm cho gia đình chàng phải bóp trán nghĩ ngợi. Vì cuộc đời, vị Thầy học lớn nhất của ta, vừa đặt người thanh niên ấy trên một con đường mà các ông giáo sư của anh ta không hề nghĩ đến. Sáu tuần lễ sau, chàng rời khỏi trường, từ giã Madura và không hề trở lại nữa. 

Ngày đó, chàng đang ở một mình trong phòng thì tự nhiên bị xâm chiếm bởi một cơn khủng hoảng lạ kỳ. Mặc dầu đang mạnh khỏe, chàng có cảm giác như người sắp chết. Bị ám ảnh bởi ý nghĩ đó, chàng chuẩn bị để đón tiếp tử thần, dường như là sự chết đã đến nơi. Chàng tự nghĩ rằng: 

– “Thế là hết. Cái thể xác này sẽ chết, người ta sẽ đem nó ra thiêu ngoài đồng và nó sẽ thành một nhúm tro tàn. Nhưng còn tôi, tôi cũng sẽ chết với cái xác này chăng? Cái xác này có phải là tôi không? Cái xác này đã cứng đơ và im lặng, nhưng tôi vẫn còn tiếp tục cảm thấy cái tôi trong sức mạnh vô biên của nó.” 

Đức Maharichi đã diễn tả cơn khủng hoảng lạ lùng đó bằng những lời lẽ trên dây. Còn việc gì xảy ra sau đó thì rất khó hiểu, nếu không nói là khó thuật lại. Chàng dường như rơi vào một trạng thái đại định có ý thức, khi đó chàng đạt tới nguồn gốc của chân ngã, tức là tinh hoa của bản thể. Khi đó chàng nhận thức rõ rằng thể xác là một vật ở ngoài chân ngã, và chân ngã vẫn tồn tại không thay đổi trong khi chết. Chân ngã xuất hiện với chàng như là một sự chân thật tuyệt đối, nhưng bị ẩn giấu và chôn sâu trong chỗ tận cùng của tâm thức, đến nỗi cũng như bao nhiêu người khác, trước khi đó chàng không hề biết đến nó là gì. 

Khi chàng Ramana tỉnh lại sau cơn khủng hoảng đó thì chàng hoàn toàn thay đổi. Chàng đã mất hết mọi thích thú về sự học, sự chơi điền kinh, sự giao tiếp bạn bè, vì sự thích thú của đời chàng đã tập trung về cái ý niệm chân ngã vừa thình lình xâm chiếm lấy chàng. Mọi ý niệm về sự chết trước đây đã biến mất. Chàng đã chinh phục được, với một niềm an tịnh bên trong, một sức mạnh tinh thần không hề mất đi hoặc suy chuyển chút nào kể từ khi đó. 

Xưa kia chàng phản ứng mãnh liệt như thế nào đối với những bạn học khi bị chúng nó phá phách, thì nay đối với chúng chàng chỉ có một lòng ưu ái và nhân từ. Chàng chịu đựng mọi sự bất công một cách thản nhiên và biểu lộ một sự khiêm tốn hoàn toàn trong mọi việc. Chàng từ bỏ những thói quen có từ xưa, tìm kiếm sự yên tịnh để lo việc tham thiền quán tưởng và sống đời sống nội tâm. Những sự thay đổi tâm tính như thế không khỏi làm cho người chung quanh chú ý. 

Một hôm người anh cả của chàng bước vào phòng, thấy chàng đang nhắm mắt và đắm chìm trong một cơn thiền định, những sách vở nhà trường rơi rớt tản mát dưới đất, như là chàng vừa ruồng bỏ chúng một cách chán nản. Người anh cả liền trách móc: 

– Mày đang làm gì đó? Nếu mày muốn trở nên đạo sĩ thì còn đi học để mưu cầu công danh làm gì? 

Chàng Ramana cảm thấy thấm thía về những lời nói đó và quyết định rất mau chóng. Chàng đã mồ côi cha và biết rằng có thể nhờ cậy nơi người cậu và các em để nuôi dưỡng mẹ chàng. Dầu sao, chàng không còn phận sự gì phải làm ở nhà nữa. Ngay lúc đó, cái tên ngọn Đồi Thiêng bỗng xuất hiện như một tia chớp trong trí chàng, cái tên nó vẫn ám ảnh chàng từ một năm nay, và hiện ra một cách quyến rũ: Arunachala

Đó chính là nơi chàng phải đi đến, mặc dầu chàng không nói rõ lý do tại sao. Nhưng chàng chỉ nghe theo một tiếng gọi mãnh liệt, không hề dự tính trước. Về sau này, chính đức Maharichi đã nói với tôi: 

– “Hồi đó, tôi hoàn toàn chịu ảnh hưởng của một sự quyến rũ lạ lùng. Cái mãnh lực huyền bí dắt dẫn anh đến đây cũng giống như cái sức mạnh vô hình nó bắt buộc tôi từ giã Madura.” 

Như thế, chàng thanh niên Ramana rời bỏ tất cả sự học vấn, bạn bè và gia đình, và nhắm con đường đưa đến Arunachala theo tiếng gọi của nội tâm, như một bản năng kỳ bí. Chàng để lại cho gia đình một bức thư bằng chữ Tamoul, nay vẫn còn được lưu giữ tại đạo viện. Thư viết như sau: 

– “Tôi nghe theo tiếng gọi của tự tâm để đi tim chân lý. Mục đích của tôi là tìm biết ý nghĩa quan trọng nhất của cuộc đời. Vậy xin đừng ai lo ngại gì cả. Không cần tiêu phí tiền bạc để đi tìm tôi.” 

Chàng ra đi, hoàn toàn dứt bỏ thế gian, chỉ với ba rupee trong túi, và bỡ ngỡ trước một thế giới hoàn toàn xa lạ. Nhưng ngọn lửa thiêng bừng cháy trong lòng chàng, khiến chàng khinh bỉ của cải thế gian đến nỗi khi bước chân vào đền chàng chỉ mặc một bộ y phục đã rách bươm vì đường xa nhưng vẫn cúi rạp đầu lạy một cách hết sức cung kính. Một giáo sĩ trong đền bước tới và khiển trách chàng về cách ăn mặc lôi thôi, nhưng chàng không đáp lời. Một người khác dường như hiểu được sự việc và mang đến cho chàng một bộ y phục đơn sơ của tu sĩ. Từ đó, chàng không bao giờ khoác lên người bất cứ gì khác ngoài bộ y phục rất đơn sơ này, trong suốt sáu tháng trường sau đó. 

Thỉnh thoảng chàng có rời chỗ ở, nhưng không bao giờ ra khỏi cổng dền. Một giáo sĩ mang cho chàng một ít cơm, mỗi ngày một lần, vì ngạc nhiên bởi lòng sùng tín quá sớm của chàng. Những ngày sống trong đền, chàng đều đắm chìm trong một cơn nhập định thâm sâu đến nỗi quên cả sự hiện diện của thế giới bên ngoài. Đôi khi, có những đứa trẻ nghịch ngợm quanh vùng kéo đến ném đá và bùn đất vào người chàng, rồi vừa chạy trốn vừa chế nhạo. Nhưng chàng không có một sự oán trách nào đối với những đứa trẻ ấy. 

Những người đi hành hương hằng ngày đổ xô đến ngôi đền làm cho nơi đó không còn là một nơi yên ổn tịch mịch như chàng vẫn mong muốn. Vì lẽ đó, chàng từ giã ngôi đền và đến ở ẩn trong một cái miếu nhỏ giữa đồng, cách xa thành phố. Chàng ở nơi miếu đó một năm rưỡi, chỉ tự bằng lòng với một ít lương thực mà người hành hương sùng tín đặt trước mặt chàng mỗi ngày. Chàng không nói năng gì với ai. Thật ra, chàng không hề mở miệng trong ba năm đầu tiên của cuộc đời ẩn dật, không phải vì chàng có lời nguyện giữ giới tịnh khẩu, mà bởi vì chàng luôn tập trung mọi sự chú ý vào đời sống tâm linh. Khi chàng đã đạt được mục đích, chàng mới phá bỏ sự im lặng. Tuy nhiên, chàng vẫn không hề nói nhiều. 

Chàng vẫn giữ kín tung tích, nhưng mẹ chàng lần hồi đã dò ra được chỗ ở của chàng, vừa đúng hai năm kể từ khi chàng bỏ nhà ra đi. Bà mẹ liền cùng với người anh cả đến tận nơi và cố gắng dùng nước mắt của bà để làm cho chàng phải xiêu lòng và trở về nhà, nhưng vô ích. Hết dùng nước mắt bà lại dùng lời oán trách, nhưng chàng cho biết là một khi mục đích tối thượng của đời chàng chưa đạt được thì không gì có thể làm lay chuyển được ý chí của chàng. Sau cùng, mẹ chàng phải nhượng bộ ra về. 

Chuyện này đồn đãi gần xa, thế là ngày càng có nhiều khách hành hương đến viếng chỗ của chàng ẩn cư, làm cho chàng lại phải dời chỗ một lần nữa và lên ngọn đồi thhiêng. Tại đây chàng sống nhiều năm trong một động đá. 

Trên ngọn Đồi Thiêng có rất nhiều động đá, là nơi trú ẩn cho những nhà yogi và những nhà tu sĩ khổ hạnh. Riêng động đá của chàng Ramana có phần đặc biệt, vì nó chứa đựng ngôi mộ của một vị đạo sĩ ưu tú thời xưa. Người Ấn Độ vẫn theo phong tục hỏa táng, tức là thiêu xác người chết, nhưng đối với người yogi từ trần thì lại cấm thiêu xác. Người ta tin rằng, nếu một người yogi đã tu hành đắc đạo thì thân xác người ấy sẽ không tan rã như những người bình thường. Trong trường hợp đó, xác người yogi được tắm rửa sạch sẽ, ướp dầu thơm và đặt vào trong ngôi mộ với thế ngồi kiết-già hai chân tréo như khi ngồi thiền. Cửa vào ngôi mộ được đóng kín bằng một tảng đá lớn và trám chặt lại bằng xi-măng. Ngôi mộ này thường trở nên một nơi hành hương của dân chúng. 

Còn một lý do khác làm cho người ta tin rằng thể xác của những vị ấy không cần phải tẩy uế bằng lửa, vì nó đã được tinh luyện bởi lối sống cao khiết và cuộc đời thánh thiện của họ thuở sanh tiền. Có điều đáng chú ý là những nơi hang động thường là những nơi trú ẩn của các nhà đạo sĩ yogi hay các bậc thánh nhân hiền triết. Thời cổ xưa, người ta dùng những nơi ấy để thờ thần. 

Những nhà đạo sĩ yogi Ấn Độ có những lý do rất tốt để chọn lựa những hang động làm nơi trú ẩn, khi họ không tìm được nơi tránh mưa nắng dãi dầu hay những khi thời tiết thay đổi bất thường ở vùng nhiệt đới. Ở những nơi đó, ít có ánh sáng hay tiếng động có thể quấy rầy họ trong những lúc tham thiền và nhu cầu của thể xác được hạn chế đến mức tối thiểu. 

Một lý do khác nữa đã hấp dẫn chàng Ramana đến cái hang đặc biệt này trên ngọn đồi thiêng là phong cảnh ngoạn mục của vùng chung quanh. Người ta có thể đứng trên một mô đá bên cạnh hang và nhìn xuống thành phố nhỏ dưới chân đồi, và ngôi đền vĩ đại nhô lên ở trung tâm thành phố. Bên kia vùng đồng bằng bao bọc chung quanh là một dãy đồi núi dài liên tiếp nhau đến tận chân trời. 

Dầu sao, chàng Ramana đã sống tại hang đá này suốt nhiều năm, đắm chìm trong những cơn thiền định rất thâm sâu. Chàng không phải là một nhà yogi theo nghĩa thông thường, vì chàng không hề học qua pháp môn Yoga và cũng không hề thụ giáo một vị danh sư nào. Chàng chỉ được hướng dẫn bởi một nguồn cảm hứng thiêng liêng đưa đến sự hiểu biết và nhận thức được chân ngã. 

Năm 1905, bịnh dịch tả xuất hiện trong vùng, do một người hành hương mang vào khi anh ta từ phương xa đến viếng đền Arunachala. Dân chúng bị bịnh truyền nhiễm chết nhiều đến nỗi, trong cơn kinh hoàng, hầu hết mọi người đều bỏ thành phố, chạy sang những tỉnh hoặc làng mạc kế cận. Vùng này bị bỏ trống trở nên vắng vẻ đến nỗi cọp beo từ trong những sào huyệt của chúng bò ra đây và đi lại tự do ngoài đường. Nhưng mặc dầu chúng đã dạo chơi trên đồi nhiều lần và qua lại trước cửa hang của chàng đạo sĩ trẻ tuổi, chàng vẫn nhất định không dời chỗ, vẫn điềm nhiên ở yên không chút sợ sệt. 

Lúc đó có một người tình nguyện đến xin làm đệ tử của chàng đạo sĩ trẻ tuổi, xin được ở cạnh để lo phục dịch và săn sóc cho chàng. Người ấy nay đã qua đời, nhưng người ta truyền rằng mỗi đêm có một con cọp lớn đi vào hang liếm hai bàn tay của chàng Ramana, trong khi chàng cũng đáp lại bằng cách vuốt ve bộ da của nó. Con cọp ấy ngồi trước mặt chàng suốt đêm và đến lúc gần sáng mới đi. 

Ở Ấn Độ người ta tin rằng những nhà đạo sĩ yogi và thuật sĩ Fakir sống trong rừng sâu núi thẳm, giữa những loài thú dữ như hùm beo, cọp, sư tử, rắn rết và những loài thú rừng khác, đều không sợ bị thú dữ làm hại nếu họ đạt tới một trình độ cao trên dường tu luyện. 

Người ta còn thuật lại một câu chuyện khác về chàng Ramana, rằng một buổi trưa chàng ngồi nơi cửa hang thì bỗng có một con rắn hổ mang lớn thình lình xuất hiện từ trong kẹt đá và ngừng lại ở trước mặt chàng. Con rắn vươn mình và phùng mang, nhưng chàng đạo sĩ vẫn ngồi yên không cử động. Chàng và con rắn đều lẳng lặng nhìn nhau trong vài phút. Sau cùng, con rắn rút lui và chàng vẫn bình yên vô sự. 

Cuộc đời cô đơn và khổ hạnh của chàng thanh niên lạ lùng này kết thúc giai đoạn đầu tiên khi chàng đạt tới điểm thâm trầm cao siêu nhất trong phép tham thiền. Sự xa lánh trần tục và ẩn cư không còn cần thiết nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục sống trong hang cho đến khi có một nhà bác học Bà-la-môn ưu tú tên là Ganapati Shastri đến viếng chàng trong động đá. 

Cuộc thăm viếng này đánh dấu một khúc quanh trong đời chàng, và chàng bắt đầu bước vào một thời kỳ nhập thế. Trước đó, nhà bác học có đến ở gần ngôi đền để tiện bề học đạo và tham thiền quán tưởng. Anh ta nghe nói đến một người yogi trẻ tuổi sống trên đồi, và do sự hiếu kỳ mới đi tìm xem cho biết. 

Khi anh ta gặp Ramana thì chàng đang vận nhãn lực nhìn thẳng vào mặt trời. Chàng vẫn thường nhìn mặt trời như thế suốt nhiều giờ cho đến khi vầng thái dương khuất dạng dưới chân trời hướng tây. Một người chưa từng kinh nghiệm về điều này không thể nào biết được sức mạnh của những tia nắng mặt trời Ấn Độ vào buổi trưa. 

Tôi còn nhớ có một lần tôi trèo lên sườn đồi vào một giờ quá trễ và bận trở về tôi đi đầu trần vào đúng lúc giữa trưa. Tôi bị say nắng và đi loạng choạng như người say rượu trong một lúc. Người ta có thể hiểu rõ hơn cái bản lĩnh của chàngRamana là như thế nào, khi chàng nhìn thẳng vào mặt trời như thế. 

Nhà bác học nọ đã từng học hỏi những kinh sách Ấn Độ về nền minh triết cổ truyền trong hai mươi năm, và đã thực hành những phép công phu tu luyện khắc khổ để hy vọng đạt tới một vài kết quả thực sự về tâm linh, nhưng ông ta vẫn bị chướng ngại bởi những điều thắc mắc và nghi ngờ. Ông ta bèn đưa ra choRamana một câu hỏi và liền nhận được một câu trả lời đầy minh triết, làm cho ông ta phải hết sức ngạc nhiên. Ông ta đưa ra thêm nhiều câu hỏi khác cùng những điều thắc mắc về các vấn đề triết học và tâm linh, và càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy rằng những điều thắc mắc nghi ngờ vẫn giày vò anh ta trong bao nhiêu năm nay đã được giải quyết mau chóng. Ông ta bèn khấu đầu làm lễ trước mặt chàng đạo sĩ trẻ tuổi và trở nên một đệ tử của người từ khi đó. 

Shastri cũng có riêng một nhóm đệ tử theo học đạo với ông ta ở tỉnh Vellore. Ông ta bèn trở về nói cho họ biết rằng ông ta đã gặp được một vị Mahanchi (tức là Đại Hiền hay Thánh Sư), vị này chắc chắn là người đã đạt tới một trình độ tâm linh siêu đẳng, và những giáo lý của Ngài thật là khác thường đến nỗi nhà bác học chưa từng thấy trong tất cả những kinh sách mà ông ta đã đọc. 

Kể từ đó, giới trí thức Ấn Độ bắt đầu gọi chàng Ramana bằng danh hiệuMaharichi, còn giới bình dân thì lại quá tôn sùng khi họ được biết rõ đời sống và đạo hạnh của Ngài và tôn thờ Ngài như một vị thánh sống. Nhưng đức Maharichitriệt để ngăn cấm mọi sự biểu lộ lòng tôn sùng như thế trước mặt Ngài. Phần nhiều những đệ tử và những người trong vùng đều gọi Ngài là bậc Thánh trông khi họ nói chuyện với nhau hoặc trong những câu chuyện riêng với tôi. 

Sau đó ít lâu, có một nhóm đệ tử qui tụ chung quanh Ngài. Họ xây cất một ngôi nhà bằng gỗ dưới chân đồi và thỉnh cầu Ngài sống chung với họ tại đó. Bà mẹ Ngài cũng đã nhiều lần đến viếng Ngài, và khi người con trưởng của bà cùng những người thân quyến khác đều đã qua đời, bà đến đây và yêu cầu Ngài để cho bà được ở đây với Ngài. Ngài vui lòng chấp thuận. Bà đã sống sáu năm cuối cùng của đời bà ở bên cạnh Ngài, và sau cùng bà cũng trở nên một đệ tử của ngài. Khi qua đời, bà được an táng dưới chân đồi. Vài người đệ tử của đứcMaharichi đã xây một cái miếu nhỏ nơi đó. Người ta đốt nhang đèn thường xuyên nơi miếu này để tưởng niệm công đức của người đàn bà đã đem đến cho nhân loại một vị thánh sống, và hằng ngày đều có người dâng hoa quả cúng trước bàn thờ. 

Thời gian trôi qua, danh tiếng đức Maharichi được đồn khắp gần xa, và những người hành hương ở ngôi đền lớn thường hay trèo lên ngọn Đồi Thiêng để chiêm ngưỡng Ngài trước khi trở về. 

Sau đó, đức Maharichi thuận theo lời thỉnh cầu của bá tánh và bằng lòng lưu trú tại ngôi nhà lớn của họ mới cất dưới chân đồi để làm chỗ ở cho Ngài và các đệ tử. Đức Maharichi không hề thâu nhận món gì của ai trừ ra lương thực vừa đủ dùng và luôn luôn từ chối không chịu nhận tiền bạc. Còn những thứ lễ vật gì đem đến cho Ngài đều là do kẻ khác tự nguyện hiến dâng và khẩn khoản thỉnh cầu Ngài chấp nhận. 

Trong những năm đầu tiên, khi Ngài còn sống cuộc đời ẩn dật và đơn chiếc trên núi để tu luyện và tham thiền, Ngài thỉnh thoảng vẫn rời khỏi hang với cái bình bát trong tay để đi xuống làng xóm khất thực mỗi khi Ngài thấy đói. Có một bà già góa bụa thường cung cấp thức ăn cho Ngài mỗi ngày. Sau cùng, bà tự nguyện đem thức ăn lên đến tận hang để Ngài khỏi phải đi khất thực. 

Như thế, cái đức tin khiến cho Ngài bỏ nhà ra đi, từ giã cuộc đời khá giả của một gia đình trung lưu, đã chứng minh rõ rằng người dốc lòng cầu đạo không cần phải lo thiếu hụt về vật chất. Từ đó, ngày càng có nhiều lễ vật và quà tặng được đem đến cống hiến cho Ngài, nhưng Ngài luôn luôn từ chối. 

Có một đêm nọ, một bọn cướp đột nhập vào tịnh thất và lục lạo khắp nơi để kiếm tiền bạc chôn giấu, nhưng chúng chỉ tìm được vỏn vẹn có vài đồng rupee trong túi người quản gia lo việc mua sắm đồ vật thực. Quân cướp lấy làm thất vọng, chúng bèn nổi giận và đánh đập đức Maharichi bằng gậy lớn làm cho thân thể Ngài có nhiều vết bầm. Ngài không những chịu đựng điều ấy một cách kiên nhẫn, mà còn mời chúng ở lại dùng cơm trước khi ra về. Kế đó, Ngài thực sự mang cơm vào thức ăn ra đãi chúng. Đối với chúng, Ngài không hề có một sự oán giận hay thù ghét nào trong lòng, mà chỉ có một lòng thương hại cho sự vô minh si mê của chúng. Ngài để cho chúng tự do ra đi, nhưng một năm sau chúng bị bắt trong khi đánh cướp ở một nơi khác và lãnh án tù chung thân. 

Nhiều người Âu hẳn không khỏi cho rằng một cuộc đời như thế thật là lãng phí vô ích. Nhưng có lẽ chúng ta cũng cần có một đôi người tách mình ra khỏi thế cuộc phù vân và thay chúng ta xét đoán về cuộc đời từ một góc độ khác. Khi đó, những ý nghĩa thật sự của cuộc đời mới có thể được nhận thức một cách rõ ràng sáng suốt hơn. 

Ai dám bảo rằng một hiền giả sống trong rừng thẳm đã chinh phục được cái bản ngã của mình là thua kém những kẻ sống cuộc đời buông thả phóng túng để rồi rốt cuộc không tự biết được mình sẽ đi về đâu? 


---o0o---
Mỗi ngày qua càng đem đến cho tôi những bằng chứng xác nhận về sự cao cả tâm linh của đức Maharichi. Trong số những người thuộc đủ các giai cấp đến viếng thăm đạo viện, một hôm có một người cùng đinh bị giày vò bởi một cơn đau khổ tinh thần rất lớn. Vừa bước vào tịnh thất vừa khóc kể và trút hết những nỗi đau thương của ông ta dưới chân đức Maharichi. Ngài không nói một lời, vì Ngài lúc nào cũng im lặng và kín đáo, và người ta có thể đếm được những lời của Ngài thốt ra trong một ngày. Ngài chỉ lẳng lặng nhìn một lúc vào người kia. Trong giây lát, những tiếng khóc kể của ông ta dần dần giảm bớt, và hai giờ sau, khi ông ta rời khỏi tịnh thất ra về thì ông ta đã trở nên một người vui vẻ bình tĩnh và tinh thần phấn khởi hơn trước. 

Tôi hiểu ra được rằng đó là phương pháp của Ngài để giúp đỡ kẻ khác, tức là sự giao cảm một cách chân thành có năng lực an ủi, xoa dịu vết thương của những tâm hồn đau khổ một cách hết sức mạnh mẽ và hiệu quả. Điều này vẫn còn là bí mật mà chắc chắn có ngày khoa học sẽ phải khám phá và giải thích. 

Một hôm, có một người Bà-la-môn có học thức đến tịnh thất và trình bày tâm sự của ông ta kèm theo với nhiều câu hỏi. Người ta không bao giờ biết trước rằng nhà hiền giả sẽ trả lời hay không, vì nhiều khi Ngài rất hùng biện mà không cần phải thốt ra bằng lời nói. Nhưng hôm ấy Ngài có vẻ cởi mở và chỉ vài câu nói vắn tắt bao hàm những ý nghĩa sâu sắc thâm trầm cũng đủ hé mở những chân trời mới lạ về tư tưởng để giải đáp những nỗi thắc mắc cho người khách kia. 

Mỗi buổi chiều, vào lúc mặt trời lặn là giờ tham thiền chung trong tịnh thất. ĐứcMaharichi thường bắt đầu giờ tham thiền bằng cách chính Ngài tĩnh tọa công phu và nhập định, hoàn toàn quên hẳn ngoại cảnh. Trong những giờ tham thiền hằng ngày bên cạnh Đức Maharichi, tôi đã học được phương pháp tập trung tư tưởng để quán chiếu vào nội tâm đến một mức độ sâu sắc nhất. 

Trong những cuộc tiếp xúc thường xuyên với Đức Maharichi, người ta không thể không tự mình khơi dậy những tia sáng từ nội tâm và nhận thức được rằng chỉ có sự thiền quán mới soi sáng được tâm hồn. 
Càng ngày tôi càng nhận thấy rõ rệt rằng Ngài đã thu hút tâm trí tôi vào cái vòng ảnh hưởng đặc biệt của Ngài trong những giờ ngồi thiền yên tịnh. Chính trong những lúc đó mà người ta mới bắt đầu hiểu rằng tại sao sự im lặng của Ngài lại hùng biện và hàm chứa nhiều ý nghĩa hơn cả những lời nói lưu loát nhất. Sự yên tịnh trầm lặng của Ngài có ẩn chứa một quyền năng mạnh mẽ phi thường, có thể ảnh hưởng mãnh liệt đến người khác mà không cần đến ngôn ngữ hay cử chỉ hành động gì cả. 

Có những lúc tôi cảm thấy được quyền năng giao cảm đó một cách rõ rệt đến nỗi tôi nhận biết rất cụ thể rằng tâm thức của tôi và của Ngài cũng chỉ là một, cũng như hoàn toàn hòa nhập với tâm thức của vô số chúng sinh khác trong vạn hữu. 

Đức Maharichi không phải là người bắt đệ tử vâng lời một cách mù quáng. Trái lại, Ngài luôn để cho mọi người được tự do phán xét và chọn lựa. Về phương diện này, Ngài khác hẳn với phần nhiều những danh sư và đạo sĩ mà tôi đã gặp ở Ấn Độ. 

Những buổi tham thiền của tôi vẫn noi theo đường lối mà Ngài đã chỉ dẫn cho tôi trong cuộc thăm viếng đạo viện lần đầu, khi mà Ngài làm tôi ngạc nhiên vì những câu trả lời dường như mơ màng và bí hiểm của Ngài. Tôi đã bắt đầu nhìn sâu vào cái gọi là “bản ngã” của mình và tự đặt câu hỏi: “Tôi là ai? Phải chăng tôi là cái thể xác bằng xương bằng thịt này? Phải chăng tôi là cái trí óc với vô số tư tưởng tán loạn hay những tình cảm dục vọng phân biệt tôi với những người khác?” 

Tôi chợt nhận ra là từ xưa nay tôi vẫn luôn chấp nhận một cách không phán xét theo tập quán từ lâu đời rằng “cái tôi” chính là những thứ đó! Nhưng đứcMaharichi đã dạy tôi phải tự mình suy xét trước khi chấp nhận như thế, và sự suy xét đã đưa tôi đến một nhận thức hoàn toàn trái ngược. Tôi không thể tìm được “cái tôi” ở bất cứ nơi đâu trong thế xác này. Tôi cũng không thể tìm thấy “cái tôi” trong những tư tưởng, những tình cảm vốn luôn đổi thay bất chợt. 

Tôi chìm sâu trong sự quán chiếu nhiều ngày về “cái tôi”, và nhận ra sự sụp đổ của tất cả những quan điểm, khái niệm mà trước đây tôi vẫn cho là quen thuộc, dễ dàng chấp nhận một cách không cần suy xét. Từ sự tan rã của những “cái tôi” vô nghĩa dưới ánh sáng của sự quán chiếu, tôi cũng thấy mọi khái niệm buồn, vui, vinh, nhục, tốt, xấu, dài, ngắn... đều trở nên vô nghĩa và giả tạo, chỉ do ý thức dựng lên trong những trường hợp nhất định và không hề có chút ý nghĩa chân thật nào. 

Đức Maharichi không hề trực tiếp đưa ra những phán đoán tương tự như thế với tôi, mà chỉ dạy tôi phải đặt câu hỏi “Tôi là ai?” và hãy phân tích toàn bộ “cái tôi” hiện có. Ngài cũng dạy tôi hãy cố tìm xem cái “tư tưởng về bản ngã” bắt đầu từ chỗ nào? Và hãy tiếp tục tham thiền quán xét và tập trung tư tưởng vào nội tâm. Chính nhờ sự quán chiếu theo hướng đó mà những tia sáng trực giác đã dần dần hiện ra trong tâm tôi. Điều này giúp tôi có được những nhận thức mà trước đây tôi hoàn toàn không có, nhưng tôi nhận biết rõ ràng rằng những nhận thức mới đó là chuẩn xác và khách quan hơn nhiều so với những cách suy nghĩ trước đây của tôi. Tôi biết rằng mình có thể noi theo cái trực giác đó, loại bỏ hết mọi tư tưởng vô nghĩa và sau cùng tôi sẽ đạt đến mục đích sáng tỏ. 

Tôi đã chiến đấu hằng ngày với những tư tưởng hỗn tạp của tôi và dần dần vạch một đường đi vào tận những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tâm hồn. Nhờ có Đức Maharichi ngồi gần bên, những lần tham thiền của tôi ngày càng trở nên ít mệt nhọc hơn và càng hiệu quả hơn. Sự dìu dắt của Ngài giúp khơi nguồn cảm hứng rất nhiều cho những cố gắng thường xuyên và liên tục của tôi. Có những giây phút lạ lùng tôi ý thức được rõ rệt cái ảnh hưởng và quyền năng giao cảm thần diệu của Ngài, giúp tôi tiến sâu hơn vào lãnh vực huyền bí của nội tâm. 

Sau buổi tham thiền chung, Đức Maharichi cùng với các đệ tử và các khách viếng thăm đạo viện đều rời khỏi tịnh thất và bước qua phòng ăn để dùng cơm tối. Vì không dùng được cơm Ấn Độ và cũng không muốn nhọc công nấu bữa ăn tối nên tôi thường ngồi lại một mình trong tịnh thất và chờ họ trở lại. Tuy nhiên, có một món ăn trong đạo viện mà tôi thấy ngon lành và ăn được, đó là món sữa chua. 

Đức Maharichi, khi nhận thấy tôi thích món ấy, thường dặn người đầu bếp mỗi chiều đem cho tôi một bát lớn. Độ nửa giờ sau khi cả bọn trở lại, những người nội trú của đạo viện cùng quan khách ở lại ban đêm đều chen nhau nằm trên sàn gạch của tịnh thất, mỗi người đều quấn một cái chăn bằng vải mỏng và sửa soạn đi ngủ. Đức Maharichi thì ngủ luôn trên chiếc giường gỗ của ngài thường dùng. Trước khi Ngài đắp chăn vải mỏng lên mình, có một người tiểu đồng đến đấm bóp và xoa dầu lên tay chân của Ngài. 

Còn tôi, tôi cầm chiếc đèn lồng rời khỏi tịnh thất và đi một mình về chòi tranh. Có vô số những con đom đóm bay lập lòe trong những khóm hoa bụi cỏ và các bụi cây trong vườn. Có một đêm tôi về trễ độ chừng vài tiếng đồng hồ, lúc ấy có lẽ đến gần nửa đêm, tôi thấy tất cả đom đóm đều đồng loạt tắt hẳn những đóm sáng kỳ dị của chúng. Tôi phải rón rén cẩn thận và coi chừng kẻo đạp nhằm loài bồ cạp hay rắn rết khi đi trong đêm tối. 

Có đôi khi, tôi vừa đi vừa đắm chìm trong sự trầm tư mặc tưởng và không cần chú ý đến những con đường mòn nhỏ hẹp đưa tôi về chòi tranh. Về đến chòi, tôi đóng chặt cánh cửa lớn và các cửa sổ để thú rừng hay rắn độc không đột nhập vào được lúc ban đêm.


---o0o---
CHƯƠNG 13 : NHỮNG CHÂN LÝ DIỆU HUYỀN
Một buổi chiều, tôi nhìn thấy một người khách lạ bước vào tịnh thất với dáng điệu trầm tĩnh và ngồi xuống sàn, gần bên giường của Đức Maharichi. Người ấy có một màu da đen sậm và một gương mặt rất sáng sủa. Anh ta vẫn im lặng không nói gì, nhưng ĐứcMaharichi liền tiếp đón anh ta bằng một nụ cười thân mật. 

Cái phong độ cốt cách của người này tạo ra một ấn tượng sâu xa trong lòng tôi. Anh ta giống như một pho tượng Phật tạc trong tảng đá, gương mặt biểu lộ một sự bằng an, trầm lặng khác thường. Khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau, anh ta nhìn thẳng vào tôi một hồi lâu làm cho tôi phải thấy ngượng và quay mặt đi chỗ khác. 

Suốt buổi chiều hôm đó, anh ta không thốt ra một lời nào cả. Qua ngày hôm sau, tôi lại gặp anh ta trong một trường hợp thật bất ngờ. Tôi vừa rời khỏi tịnh thất trở về chòi để nấu nước pha trà, vì người giúp việc của tôi đã đi chợ vắng. Khi vừa mở khóa cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào thì có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im lặng của nó và một tiếng huýt nhỏ như tiếng sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một con rắn ở trong chòi. 

Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hãi và không biết phải làm thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nhìn con rắn không chớp mắt, và nó cũng phùng mang giương mắt nhìn lại tôi. 

Sau cùng, tôi định tĩnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi tìm một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy giập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nhìn yên lặng của anh ta làm cho tôi bớt sợ hãi và lấy lại sự bình tĩnh. Anh ta đến gần chòi tranh, với cái nhìn thoáng qua anh ta đã thấu rõ tình hình và thản nhiên bước vào chòi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng anh ta không màng để ý đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi, vì mặc dầu không có khí giới anh ta vẫn đưa hai tay về phía con rắn. Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài như hình mũi chĩa thò ra thụt vào, nhưng có vẻ như không định mổ vào người kia. 

Trong khi đó có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vã chạy tới. Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó trong khi con rắn cúi đầu sát đất và nằm im lặng! Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến và làm cho nó giựt mình. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó nhanh nhẹn bò ra khỏi chòi tranh và trong khoảnh khắc đã biến mất dạng trong khu rừng rậm. 

– Đó là một con rắn hổ mang! 

Một trong hai người mới đến sau lên tiếng bình phẩm. Người này là một thương gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm đạo viện để chiêm ngưỡng Đức Tôn Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ đùa giỡn với con rắn một cách không chút sợ sệt. Anh thương gia bèn giải thích: 

– À, đó là đạo sĩ Ramiah. Ông ta là một trong những đệ tử cao nhất của đứcMaharichi. Ông ta là một người có bản lĩnh khá lắm. 

Tôi không thể trò chuyện với người yogi này vì tôi nhận thấy ông ta giữ giới tịnh khẩu, ngoài ra còn có những giới hạnh đặc biệt khác nữa mà ông ta tự nguyện giữ theo. Hơn nữa, ông ta là người bản xứ, sử dụng thổ ngữ Telugu chứ không biết tiếng Anh. Tôi cũng nghe nói rằng ông ta là một người sống ẩn dật và rất kín đáo, thường không giao thiệp với ai. Ông ta sống trong một cái nhà nhỏ xây bằng gạch dưới bóng mát của một tảng đá khổng lồ bên cạnh bờ ao, và là đệ tử của Đức Maharichi đã mười năm nay. 

Tuy nhiên, sau đó không lâu, sự cách biệt giữa chúng tôi đã được lấp bằng. Tôi gặp ông ta trên bờ ao khi ông ta cầm một cái bình nhỏ bằng đồng xuống ao để múc nước. Dáng điệu ung dung tự tại của ông ta làm tôi thích thú, lúc đó tôi sẵn có đem theo máy ảnh trong túi, tôi mới ra dấu hiệu đề nghị ông ta cho phép tôi chụp một bức ảnh. Ông ta không phản đối, và sau khi chụp ảnh ông ta còn theo tôi về chòi. 

Tại đây chúng tôi thấy một người đệ tử già của Đức Maharichi, đã bảy mươi lăm tuổi, là một công chức sở Hỏa xa về hưu, đang ngồi đợi ngoài của chờ tôi về. Cũng do sự tình cờ, tôi được biết ông lão này biết tiếng Telugu khá giỏi cũng như tiếng Anh và ông sẵn lòng làm thông ngôn cho chúng tôi, tuy rằng chỉ bằng bút đàm. 

Người đạo sĩ không thích nói nhiều và cũng không muốn bị ai phỏng vấn, nhưng tôi tìm cách gợi chuyện để được biết thêm vài điều về cuộc đời của ông ta. 

Đạo sĩ Ramiah đã trên bốn mươi lăm tuổi, có sở hữu đất ruộng tại tỉnh Nellore, và mặc dầu không chính thức xuất gia, ông ta vẫn giao lại cho gia đình cai quản toàn bộ đồn điền tài sản để bản thân có thời giờ theo đuổi việc học đạo. 

Ông ta có một nhóm đệ tử riêng ở tỉnh Nellore, nhưng mỗi năm một lần ông ta rời khỏi tỉnh này để đến viếng Đức Maharichi và ở lại đạo viện của Ngài chừng đôi ba tháng. 

Thuở thiếu thời, ông ta đã từng đi châu du khắp miền Nam Ấn để tìm thầy học đạo. Ông ta đã học với nhiều vị danh sư và phát triển được một vài quyền năng đặc biệt. Đối với các phép luyện khí công và tham thiền, ông ta đều thực hành rất dễ dàng. Dường như ông ta đã vượt xa cả các vị thầy của mình, vì ông ta đã trải qua những trạng thái định mà các vị thầy của ông ta không thể giải thích được một cách thỏa đáng. 



tải về 1.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương