Đông Phương Huyền Bí



tải về 1.6 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích1.6 Mb.
#33750
1   2   3   4   5   6   7
 

Như vậy, người thuật sĩ đã hoàn toàn chủ trị được phép hô hấp và có thể ngưng thở – theo như người ngoài nhận thấy – tùy ý muốn mà không chết. Tuy thế, người này không phải một môn đồ chân chính của pháp môn Yoga, vì tôi có biết về nếp sống của ông ta, có khá nhiều vấn đề về đạo đức. Ông ta tên là Haridasvà sống ở miền Bắc Ấn. Nếu người như thế có thể ngưng thở mà vẫn sống trong một thời gian lâu như thế ở một nơi không có không khí, thì thử hỏi các bậc thầy chân chính lẽ nào lại không làm được? 

Sau một lúc im lặng, Brama tiếp:

– Pháp môn Yoga còn đem lại cho ta nhiều năng lực khác nữa. Nhưng trong thời buổi suy đồi hiện nay, có mấy ai là người chịu cố gắng công phu tu luyện? 

Tôi trả lời: 

– Biết làm sao được, khi người ta còn phải vật lộn trong sự mưu sinh hằng ngày, không còn thời giờ để nghĩ đến những hoạt động tinh thần nữa. 



Brama gật đầu tán thành: 
– Đúng vậy, và vì thế mà những phép tu luyện này chỉ để dành cho một số ít người. Như thế, bạn sẽ hiểu được tại sao các bậc chân sư luôn giữ gìn pháp môn này một cách bí mật hoàn toàn đối với những người thế tục. Những bậc chân sư ấy không bao giờ đi tìm đệ tử, mà chính các đệ tử phải tìm đến các ngài. 

***


Một hôm, Brama đến dùng cơm tại nhà tôi. Cơm nước xong, chúng tôi ra ngồi ngoài hàng hiên dưới ánh trăng sáng. Tôi ngồi trên ghế, còn Brama thích ngồi trên chiếu trải dưới sàn gạch. 

Chúng tôi ngồi im lặng trong vài phút để thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng. Nhưng nhớ lại câu chuyện lần trước, tôi vẫn còn tò mò muốn biết thêm về vấn đề kỳ quái là có những người có thể chống lại uy lực của tử thần! 



Brama nói: 

– Một trong những vị chân sư mà tôi được biết đang sống trong một vùng hẻo lánh trên dãy núi Nilgiri và không hề bước ra khỏi am thất. Một vị khác sống trong động đá trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Những người ấy, bạn không bao giờ có thể gặp được, vì họ sống lánh xa thế tục. Những vị ấy đều đã đạt đến mức độ có thể tùy ý kéo dài sự sống. 

– Ông có tin như vậy chăng? 

– Lẽ tất nhiên, vì chính thầy tôi cũng là một người như vậy. 

Thầy của Brama ư? Vì chúng tôi đã quen nhau khá thân thiết và không còn sự lạnh lùng cách biệt nữa, nên tôi đánh bạo hỏi một câu: 

– Có thể cho tôi biết thầy của anh là ai chăng? 



Brama do dự trong một lúc, nhưng rồi trả lời với một giọng trang nghiêm: 

– Thầy tôi có danh hiệu là Yetrumbu Swami. Ở miền Nam Ấn, đệ tử của người rất đông, nhưng người thường đi lên miền Bắc và sống trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. 

– Tôn sư đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga chưa? 

– Tôi tin là như vậy. 

– Và ông cũng tin rằng tôn sư có thể tùy ý kéo dài sự sống? 

– Tất nhiên là như vậy. 



Brama nói câu đó với một giọng vô cùng tự nhiên, và khi nhìn thấy sự ngạc nhiên trong mắt tôi, ông ta nói tiếp: 

– Thầy tôi thường kể cho tôi nghe nhiều chuyện liên quan đến việc này. Qua những câu chuyện đó, tôi thấy rõ là người hoàn toàn có khả năng kiểm soát được sự sống của mình. Người cũng thường nói rằng người sẽ ra đi khi cơ duyên hóa độ đã hoàn mãn chứ không phụ thuộc vào những quy luật thông thường của sự sống chết. 

Điều này thật khó mà tin được đối với một kẻ đầy hoài nghi như tôi. Tôi nói: 

– Nhưng bất cứ ai khi còn đang sống cũng đều có thể nói ra những câu tương tự như thế. 


Brama thản nhiên như không nghe thấy sự phản đối của tôi và nói tiếp: 

– Thầy tôi đã trải qua nhiều biến cố quan trọng trong đời. Vào thời chiến tranh, ngài đã từng rơi vào những tình trạng mà đối với người bình thường chắc chắn không thể vượt qua được cái chết. Nhưng ngài không để cho những nghịch cảnh ấy chấm dứt đời sống của mình, vì ngài thấy rằng còn có nhiều việc phải làm, nhiều đệ tử cần được ngài hóa độ. 

Dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy rõ vẻ mặt bình thản tự nhiên của người yogi khi anh ta nói ra những chuyện lạ lùng trên dây. Một người Âu đã quen suy luận với những phương pháp chứng minh cụ thể của khoa học hiện đại làm sao có thể chấp nhận những điều này mà không một có sự thẩm tra chắc chắn? Dầu sao,Brama là người Ấn Độ, chắc ông ta cũng có thói quen tin tưởng vào những chuyện hoang đường như nhiều người bản xứ mà tôi đã gặp. Tôi vẫn lẳng lặng ngồi nghe ông ta nói tiếp:

– Thầy tôi đã từng làm cố vấn cho một vị Quốc vương xứ Népal trên mười một năm. Dân chúng xứ này quí mến người như thần thánh. Người cũng đối với họ như cha với con. Người gạt bỏ mọi sự thành kiến về giai cấp và xem mọi con người, mọi chủng tộc đều bình đẳng như nhau. Trong đời ngài, ngài đã từng đi khắp đó đây, làm rất nhiều việc mang lại lợi ích cho người khác, và ngài luôn tỏ ra tự tin là sẽ không bao giờ để cho sự chết chế ngự mình. Tóm lại, ngài chỉ quyết định ra đi khi nào tự ngài thấy rằng điều đó là thích hợp. 

– Nhưng làm sao một người có thể sống lâu tùy ý như thế? 

Brama mơ màng nhìn về cõi xa xăm, dường như quên cả sự có mặt của tôi. Ông ta đáp: 

– Có rất nhiều phương pháp để kéo dài sự sống. Mỗi một pháp môn tu tập chân chính đều có thể giúp hành giả đạt đến khả năng này. Tuy nhiên, theo pháp mônHatha Yoga thì chúng tôi dựa trên căn bản là sự kiểm soát hoàn toàn thể xác, từ đó mới đạt đến sự kiểm soát đời sống tinh thần. Như bạn có thể thấy rõ, sự sống của thể xác này rất mong manh, có thể chấm dứt vào bất cứ lúc nào. Nếu sự sống của bạn phụ thuộc vào thể xác, bạn sẽ không thể biết được là mình sẽ chết vào lúc nào. Nhưng nếu bạn kiểm soát được hoàn toàn thể xác, đến mức độ như tôi đã từng mô tả, chẳng hạn như điều khiển được hoạt động của từng mạch máu cho đến quả tim... thì vấn đề sẽ hoàn toàn đổi khác. Ngay cả khi thể xác rơi vào tình trạng không có đủ những điều kiện cho một sự sống thông thường thì bạn vẫn có thể kiểm soát được nó và không cho phép đời sống chấm dứt. Sau đó, bằng năng lực của ý chí, bạn sẽ dần dần khôi phục trạng thái của thể xác cho đến khi nó có thể hoạt động bình thường trở lại. Nói chung, quy luật thông thường là sự sống của thể xác quyết định đời sống tâm linh của một người, nhưng với hành giả Hatha Yoga thượng thặng thì ngược lại, sự sống của tâm linh – vốn không có giới hạn – sẽ quyết định đời sống của thể xác người đó. 

Tôi ngỏ lời cám ơn Brama về những giải thích tận tình của ông ta, nhưng tôi vẫn thấy không đủ sức đặt niềm tin vào những gì ông ta vừa nói. Khoa sinh lý học hiện nay không thể chấp nhận lý thuyết về sự tương quan giữa thể xác và tinh thần như thế, và tôi e rằng những chuyện lạ kỳ trên đây chỉ có trong óc tưởng tượng của những người chất phác và hồn nhiên ở xứ này. Tuy nhiên, sự kiểm soát hơi thở và mạch máu mà tôi đã chứng kiến cũng đủ chứng minh rằng năng lực đạt được do sự tu tập của các nhà đạo sĩ không phải là những điều viển vông, và rõ ràng là những năng lực đó có thể giúp người ta thực hiện được rất nhiều việc phi thường. Theo ý tôi thì đó là tất cả những gì hiện nay người ta có thể nói ra một cách dè dặt về vấn đề này. 

Tôi vẫn giữ im lặng và không muốn thổ lộ những ý tưởng riêng của mình. Bramalại nói tiếp: 

– Tất cả những người thế tục hầu như ai cũng muốn chiến thắng sự chết để được sống lâu mãi mãi. Nhưng đối với các bậc chân sư đã đạt được giải thoát thì các ngài không có sự mong muốn đó. Các ngài chỉ kéo dài đời sống vật chất này khi thấy điều đó là cần thiết để làm lợi lạc cho người khác, và khi cơ duyên đã hết thì các ngài sẽ chọn bước vào đời sống tâm linh vốn là thuần khiết và tinh tế hơn nhiều so với cuộc đời thế tục. Mặt khác, khi người ta vẫn còn mang tâm niệm tham sống sợ chết thì cho dù họ có tu tập đến bao lâu, theo bất cứ phương pháp nào, cũng đều không thể có được kết quả như mong muốn. 

Tôi đưa ra những câu hỏi cuối cùng vì thấy vầng trăng khuya đã chếch bóng, báo hiệu đến giờ phải chia tay: 

– Ông có thể cho biết lệnh tôn sư hiện nay đang ở đâu chăng?

– Thầy tôi đang ẩn cư trong một ngôi đền hẻo lánh ở vùng núi non xứ Népal. 

– Ông có nghĩ rằng một ngày kia lệnh tôn sư sẽ trở xuống đồng bằng hay chăng?

– Làm sao tôi biết được ý nghĩ của thầy? Ngài có thể sẽ ở lại xứ Népal thêm nhiều năm nữa trước khi xuống núi, vì ngài thấy thích hợp khi truyền đạo ở Népalhơn so với ở Ấn Độ. Pháp môn Hatha Yoga được người Népal tiếp thu nhanh và dễ dàng hơn là người Ấn. 



Brama trở lại với sự im lặng. Chắc ông ta đang thả hồn đi xa lắm về quá khứ và nhớ đến hình ảnh của vị thầy kính mến. Ôi! Nếu những điều tôi vừa được nghe không phải là một ảo tưởng, thì những tri thức công khai của nhân loại hiện nay quả là quá ít ỏi và thiếu sót. 

Màn đêm ở Ấn Độ buông xuống rất mau chóng, không hề có một buổi hoàng hôn kéo dài như ở trời Âu. Khi bóng tối bao phủ cái chòi tranh, Brama thắp lên một ngọn đèn dầu treo lủng lẳng trên xà nhà bằng một sợi dây, và chúng tôi ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét. Bà lão bước ra ngoài một cách kín đáo để cho chúng tôi tự do nói chuyện, với một người thông ngôn trẻ tuổi được tôi dẫn theo. 

Khói nhang tỏa ra khắp gian phòng một mùi hương thần bí. Ý nghĩ về sự chia ly sắp đến làm cho tôi buồn man mác. Tôi cố gắng vượt qua cơn buồn ám ảnh, nhưng vô hiệu. Vấn đề bất đồng ngôn ngữ, phải nói chuyện thông qua người thứ ba là một chướng ngại, vì tôi không thể bày tỏ tâm sự đang tràn ngập cõi lòng tôi theo như ý muốn. Trong giờ phút này, những lý thuyết lạ lùng kia có thật hay không cũng không còn quan trọng đối với tôi. Điều đáng kể là người đạo sĩ đã vui vẻ sốt sắng để cho tôi bước vào cuộc đời cô đơn độc chiếc của ông ta. Tôi đã nhận thấy được sự cảm thông giữa hai tâm hồn chúng tôi, và bây giờ tôi đã hiểu rằng đối với một người như vậy, thật là một sự hy sinh lớn lao khi chấp nhận dẹp bỏ sự dè dặt kín đáo của mình để thổ lộ tâm sự với một người lạ mặt. 
Nhưng lúc này lòng mong muốn hiểu biết thêm của tôi lại thắng thế. Tôi viện cớ sắp từ biệt trong nay mai để cố gắng thuyết phục ông ta tiết lộ cho tôi một vài điều bí mật cuối cùng. Nhưng ông ta đã giữ thế thủ bằng cách đưa ra câu hỏi: 

– Bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa náo nhiệt của thị thành và ẩn mình nơi thanh vắng của chốn núi rừng tịch mịch chăng? 

– Điều đó cần phải được suy nghĩ kỹ, Brama. 

– Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động, mọi công việc làm ăn, mọi thú vui trần tục, và để trọn thời giờ thực hành pháp môn Yoga, không phải chỉ trong một lúc mà là trong nhiều năm liên tiếp? 

– Chắc là không, tôi chưa có đủ sự chuẩn bị sẵn sàng. Nhưng một ngày kia, có lẽ... 

– Nếu vậy, tôi không thể nào dìu dắt bạn đi xa hơn nữa. Pháp môn Yoga không phải là một môn tiêu khiển trong những giờ nhàn rỗi. 

Thế là tôi sẽ không bao giờ trở thành một đạo sĩ! Phải thành thật mà nhìn nhận như vậy. Một môn tu luyện khó khăn như thế, với một kỷ luật gắt gao khổ hạnh, không phải để dành cho sự tò mò tìm hiểu của một kẻ hoài nghi như tôi! Tuy nhiên, có một cái gì nó hấp dẫn tôi hơn là những năng lực của thể xác vật chất. Tôi tỏ bày tâm sự với người đạo sĩ: 

– Brama, những năng lực phi thường mà ông mô tả đó hẳn là một điều huyền diệu và hấp dẫn vô cùng. Tôi cũng mong ước có ngày sẽ được thụ giáo theo pháp môn Yoga của ông. Nhưng rốt cuộc nó có thể đem đến cho ta một sự hạnh phúc lâu bền nào chăng? Trong khoa Yoga, còn có một mục đích nào cao hơn nữa chăng? Tôi nói vậy không biết bạn có hiểu ý tôi không. 



Brama mỉm cười và nói: 

– Tôi hiểu. Những thánh kinh của Ấn Độ nói rằng pháp môn Hatha Yoga (luyện xác thân) phải đi đôi với pháp môn Raja Yoga (luyện tinh thần). Sự thật, pháp môn trên chỉ là dọn đường cho pháp môn Raja Yoga, vì các bậc thầy chân chính đều biết rằng việc tu tập không chỉ nhắm vào mục đích tinh luyện thể xác vật chất mà thôi... Các ngài hiểu rằng sự tu luyện thể xác chỉ là một bước đầu tiên để dẫn đến sự tu luyện tinh thần, và mọi pháp môn tu tập đều nhắm đến mục đích cuối cùng là sự toàn thiện toàn giác. 

– Như thế, chắc hẳn phải có một pháp môn chuyên rèn luyện tinh thần? 

– Đúng vậy, và mục đích của pháp môn đó là dùng trí tuệ như một ngọn đèn soi chiếu vào nội tâm của chính mình. 

– Người muốn bắt đầu học pháp môn này phải làm thế nào? 

– Điều kiện tất yếu trước tiên là phải có một bậc thầy hướng dẫn. 

– Phải có thầy ư? Nhưng biết tìm thầy ở đâu? 

Brama hơi nhún vai: 

– Bạn ơi! Kẻ đói bụng thì đi tìm món ăn, nhưng còn người sắp chết đói thì quên hết tất cả mọi việc khác, chỉ nghĩ làm sao kiếm được thức ăn mà thôi. Nếu bạn nuôi khát vọng tìm thầy như người sắp chết đói cầu được thức ăn thì chắc chắn bạn sẽ tìm thấy. Bạn hãy tìm thầy với một đức tin, rồi khi nhân duyên đầy đủ thì chắc chắn bạn sẽ gặp được một bậc thầy như mong muốn. 

– Bạn tin rằng còn có những yếu tố khác liên quan đến việc này ngoài sự nỗ lực của bản thân hay sao? 

– Có chứ. Người Tây phương các bạn thường xem đó là định mệnh, nhưng chúng tôi gọi các yếu tố phức tạp kết hợp để gây tác động đến kết quả của một vấn đề là những nhân duyên. Cũng giống như khi bạn gieo một hạt giống thì cần có mưa và khí hậu thích hợp để nó tăng trưởng. Nếu gặp phải hạn hán thì không một hạt giống tốt nào có thể nảy mầm được cả. 

– Tôi thấy có nhiều kinh sách cũng truyền dạy các pháp môn tu tập. 

– Không có thầy dạy thì kinh sách cũng chỉ là mớ giấy lộn không hơn không kém. Danh từ guru (đạo sư) của chúng tôi có nghĩa là “người dẹp tan sự tối tăm u ám”. Người nào nhờ sự gắng công tìm tòi và hội đủ nhân duyên để tìm ra được một vị chân sư sẽ có khả năng tu tập thẳng đến sự giác ngộ. 

Nói đến dây, Brama tiến đến gần tấm gỗ phẳng đặt giấy tờ và lấy đưa cho tôi một đạo linh phù đầy những ký hiệu thần bí, những biểu tượng và chữ Tamoul vẽ bằng mực màu đỏ, màu xanh và màu đen. Trên hết có vẽ một hình tròn, hẳn là biểu tượng của mặt trời, hình mặt trăng và một con mắt, còn khoảng giữa thì để trống. Ông ta nói: 

– Tôi vẽ lá bùa này cho bạn trong đêm qua. Khi bạn ra đi, bạn hãy dán một tấm một ảnh của tôi ở khoảng trống ngay chính giữa. 



Brama cho biết rằng chỉ cần tập trung tư tưởng trong năm phút vào lá bùa lạ lùng này trước khi đi ngủ thì tôi sẽ mộng thấy ông ta một cách hoàn toàn rõ rệt. Ông ta nói: 

– Dầu chúng ta có cách xa nhau hàng ngàn dặm, chúng ta vẫn có thể gặp nhau trong tâm thức nếu bạn tập trung tư tưởng vào lá bùa này. Những cuộc gặp gỡ trong mộng cũng thật có như những cuộc thăm viếng bằng thể xác, chúng ta hoàn toàn có thể trao đổi ý tưởng và thảo luận về các vấn đề cũng như thăm hỏi lẫn nhau. 

Lời dặn dò của Brama làm cho tôi nghĩ rằng ngày từ biệt của chúng tôi đã sắp đến và tôi tỏ ý băn khoăn không biết ngày nào mới có thể gặp lại Brama. Ông ta bèn an ủi tôi: 

– Chúng ta không bao giờ có thể quyết định được mọi việc trong đời sống, vì chúng tùy thuộc vào rất nhiều nhân duyên khác nhau. Nhưng hãy vững tin nơi thiện ý của bản thân mình, vì chắc chắn nó sẽ mang lại cho mỗi người chúng ta những kết quả tốt lành. Về phần tôi, tôi cũng sẽ ra đi vào mùa xuân, đến địa phận tỉnh Tanjore. Tại đó có hai người đệ tử đang chờ đợi tôi. Còn tương lai về sau thế nào, chúng ta đều không thể biết trước. Tuy nhiên, như bạn đã biết, tôi vẫn luôn chờ đợi lời kêu gọi của thầy tôi. 



Brama im lặng một lúc và nói tiếp bằng một giọng rất thấp mà tôi nghe như tiếng thì thầm. Tôi đoán chừng hay là anh ta lại tiết lộ thêm điều gì bí mật nữa chăng? Tôi quay lại người thông ngôn thì nghe anh ta chuyển dịch lại nội dung ấy là: 
– Thầy tôi đã hiện ra với tôi trong đêm vừa qua. Ngài có nói chuyện về bạn. Ngài nói với tôi rằng: “Vị Sahib bạn con đang khát khao sự hiểu biết. Anh ta vốn là người đồng môn với chúng ta trong một kiếp trước. Anh ta đã tu luyện theo phép môn Yoga, nhưng thuộc về một môn phái khác. Ngày nay, anh ta đã trở lại Ấn Độ trong thể xác của một người Anh. Anh ta đã quên những gì anh ta đã học với chúng ta, nhưng không bao lâu anh ta sẽ có cơ hội nhớ lại. Ngày nào chưa gặp lại được thầy thì anh ta vẫn sẽ không phục hồi lại được ký ức về dĩ vãng. Tuy nhiên, ký ức đó vẫn luôn tiềm tàng, sau này thầy anh ta chỉ cần khơi động một chút cũng đủ làm cho nó bừng dậy. Vị thầy đó, con hãy cho anh ta biết là anh ta sẽ có dịp gặp lại. Điều đó chắc chắn sẽ đến, anh ta không cần phải băn khoăn gì nữa. Anh ta sẽ được toại nguyện trước khi rời khỏi xứ này.” 

Nghe đến đây, sự ngạc nhiên của tôi thật là vô hạn. Dưới ánh đèn dầu leo lét, gương mặt của người bạn tôi dường như biến đổi một cách khác thường. Tôi hỏi anh ta với một giọng mà tôi lấy làm hối tiếc là đã lộ vẻ nghi ngờ: 

– Phải chăng ông đã nói rằng lệnh tôn sư đang ở xa lắm, tận xứ Népal? 

– Phải, thầy tôi vẫn ở đó. 

– Tức là cách đây 1.200 dặm? Làm sao lệnh tôn sư có thể nói chuyện với ông qua một khoảng cách đường dài như vậy? 

– Thầy tôi luôn có mặt mỗi khi tôi tưởng nhớ đến ngài, dầu cho chúng tôi ở cách xa nhau muôn dặm. Tôi cảm nhận được những tư tưởng của thầy tôi khi chúng đến với tôi xuyên qua không gian và hiển hiện rõ ràng cũng giống như mọi thứ trước mắt tôi. 

– Phải chăng đó gọi là thần giao cách cảm? 

– Có thể nói như vậy. 

Tôi đứng dậy, vì đã đến lúc kiếu từ. Chúng tôi còn đi dạo một lần cuối cùng dưới ánh trăng khuya, dọc theo những vách tường cũ của ngôi đền bên cạnh nhà của Brama

Chúng tôi dừng bước dưới một hàng dừa cành lá sum suê có ánh trăng rọi xuyên qua in bóng trên mặt đất. Trước khi từ giã, Brama thì thầm: 

– Bạn cũng thấy là tôi không sở hữu gì nhiều. Đây là một vật quý giá nhất của tôi, bạn hãy cầm lấy. 

Nói xong, anh ta cởi chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay áp út bên trái và đặt vào lòng bàn tay lật ngửa. Dưới ánh trăng, tôi thấy chiếu sáng ngời một viên ngọc bích màu xanh có gân màu nâu sậm, lồng trong khung nhẫn bằng vàng. Bramađeo chiếc nhẫn vào ngón tay tôi và siết bàn tay tôi để từ giã. Tôi vừa tỏ ý không dám nhận món quà tặng quý giá đó thì Brama đã ngăn chặn lời từ chối của tôi bằng cách siết bàn tay tôi chặt hơn nữa. Anh ta nói: 

– Tôi nhận được chiếc nhẫn này của một vị hiền giả. Người ấy đã tặng cho tôi khi tôi bắt đầu bước chân lên đường đạo. Bây giờ, đến lượt bạn hãy đeo nó. 

Brama giải thích thêm với tôi rằng viên ngọc thạch này là một vật rất linh nghiệm. Nó có công năng giúp cho những người đủ cơ duyên sớm được gặp gỡ các bậc chân sư, hiền giả. 


Tôi chưa thấy được sự linh nghiệm đó, nhưng những lời giải thích xem ra rất quả quyết và tự tin của Brama đã sớm khích động trong tôi những tư tưởng lạ kỳ, xâm chiếm lấy khối óc trần tục còn loạn động của tôi. Những lời nhắn nhủ lạ lùng của một vị chân sư ở cách xa ngàn dặm thật quá sức lạ lùng đối với tôi nên xin miễn bàn luận thêm. Một sự giằng co mãnh liệt đang diễn ra trong tâm hồn tôi giữa sự ngờ vực và đức tin. Còn về chiếc nhẫn này? Làm sao có thể tin được rằng một chiếc nhẫn vô tri vô giác lại có thể gây ra một ảnh hưởng huyền bí nào đó về phương diện tâm linh hay vật thể? Phải chăng niềm tin đó chỉ là một điều dị đoan mê tín? Nhưng Brama tỏ ra tin chắc ở điều đó. 

Cuối cùng, tôi phải tự nhủ rằng dường như việc gì cũng có thể xảy ra được cả ở cái xứ lạ lùng huyền bí này! Tôi vẩn vơ suy nghĩ lan man đến nỗi đi lệch khỏi con đường mòn và đâm sầm vào một gốc dừa. Dưới nhành lá dịu dàng phất phơ của nó, những điểm sáng đom đóm bay lượn thành từng vòng tròn lập lòe huyền bí. 

Nền trời trong vắt một màu xanh thẫm. Sao Kim chói rạng tỏa ra một ánh sáng rực rỡ xem dường như rất gần. Cảnh vật thiên nhiên đắm chìm trong một bầu không khí hoàn toàn yên lặng, cả đến những con dơi lớn đang vụt bay ngang qua trên cao cũng không phát ra một âm thanh nào. Trong giây lát, tôi tự thả hồn trôi theo cái thú vị triền miên của những giờ phút tĩnh mịch thần tiên này. 

Về đến nhà, tôi trằn trọc suốt đêm không sao ngủ được. Mãi đến lúc gần sáng tôi mới chợp mắt được đôi chút khi những ý nghĩ vẩn vơ trong đầu óc của tôi tạm thời lắng dịu.


Về sau tôi đã kiểm chứng và thấy việc ấy quả thật xảy ra năm 1837 tại Lahore. Người thuật sĩ được chôn sống trước mặt vua Ranjit Singh, Sir Claude Wade, bác sĩ Honighbetget và nhiều nhân chứng khác. Quân lính canh gác suốt ngày đêm ở một bên ngôi mộ. Sau đó bốn mươi tám ngày, ngôi mộ được khai quật lên, thì người thuật sĩ vẫn còn sống. Quý vị nào muốn biết thêm chi tiết xin hãy tra cứu tài liệu ở văn khố chính phủ tại Calcutta.
---o0o---
CHƯƠNG 05 : NGƯỜI TU SĨ SUỐT ĐỜI KHÔNG NÓI
Một hôm, tôi nghe nói về người tu sĩ nổi tiếng đang ở vùng ngoại ô, cách thành phố Madras chừng nửa dặm. Người này thích sống ẩn dật, tránh xa tất cả mọi người nên có rất ít người được biết đến ông ta. 

Điều này khêu gợi sự tò mò của tôi. Tôi bèn quyết định tìm đến và xin được gặp mặt. Nhà của người tu sĩ nằm khuất sau một bờ tường dựng lên thành hình vuông ở giữa một cánh đồng. Người dẫn đường chỉ vào bên trong bờ tường và nói: 

– Tôi nghe nói người yogi này nhập định suốt ngày. Dầu cho chúng ta có la hét và đập cửa hàng rào, ông ta cũng không nghe. 

Một cánh cổng thô sơ khép chặt và được khóa lại rất chắc. Phía trong không nghe thấy bất cứ một tiếng động nào. Chúng tôi thử đi vòng quanh bờ tường và gặp một đứa nhỏ nói rằng nó biết nhà người giữ cửa và sẵn lòng đưa chúng tôi đến nhà người ấy. 

Người giữ cửa ấy là một nô bộc của người yogi. Ông ta sống với vợ và một bầy con nheo nhóc quấn quít theo chân ông ta. Chúng tôi ngỏ ý nhờ ông ta mở cửa, nhưng ông ta từ chối, bảo rằng vị tu sĩ tịnh khẩu, không tiếp khách và chỉ muốn ở yên một mình. Ngài nhập định suốt ngày và không muốn bị bất cứ ai quấy rầy. Tôi khẩn khoản đề nghị người nô bộc hãy dành cho tôi một sự dễ dàng ngoại lệ, nhưng ông ta vẫn cương quyết từ chối. 

Khi chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng và quay gót chuẩn bị ra về thì người nô bộc chợt nhìn thấy chiếc nhẫn đeo nơi tay tôi. Ông ta lộ vẻ ngạc nhiên và hỏi tôi:

– Xin lỗi, có phải ông là người Anh? 

Đến lượt tôi ngạc nhiên vì câu hỏi của ông ta, vì hầu hết người Ấn Độ đều dễ dàng nhận biết điều đó qua vóc dáng và màu da của tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn đáp lời:

– Vâng, tôi là người Anh. Có gì không ổn chăng?

– Không, nhưng tôi hỏi như thế vì không thể hiểu được vì sao một người Anh lại có thể có được chiếc nhẫn loại này. Chúng không bao giờ được mang ra bán, mà chỉ có thể là tặng vật của những người tu sĩ.

Tôi liền nói cho ông ta biết rằng chiếc nhẫn này đúng là tặng vật của một người bạn, và người bạn ấy đúng là một yogi.

Người nô bộc liền thay đổi thái độ và tỏ ra niềm nở với chúng tôi. Ông ta đề nghị chúng tôi nán lại một chút để chờ ông ta vào nhà lấy chìa khóa và sẽ đưa chúng tôi đến gặp vị tu sĩ tịnh khẩu kia.

Thế là chúng tôi cùng nhau trở lại chỗ cổng vào phía trước bờ tường và mở một ống khóa lớn bằng sắt. Người nô bộc cho biết rằng người tu sĩ không có tài sản gì cả, nhưng việc xây tường chắn quanh chỗ ở của ông ta chỉ nhằm mục đích an ninh mà thôi, vì ông ta gần như không có khả năng tự vệ, không hề đánh trả với bất cứ ai. 

Cánh cổng được khóa lại từ bên ngoài nên người bên trong không thể ra khỏi nhà nếu người nô bộc không đến mỗi ngày hai lần để mở cửa. Chúng tôi còn nghe nói rằng người tu sĩ nhập định suốt ngày, đến chiều mới dùng một ít vật thực nhẹ như bánh trái và một chén sữa. Thỉnh thoảng cũng có những buổi chiều đồ vật thực để trước mặt ông ta vẫn còn nguyên không động đến. Đôi khi, vào lúc trời tối ông ta cũng ra khỏi nhà và đi dạo giữa cánh đồng. 

Chúng tôi qua khỏi khoảng sân và đến trước một ngôi nhà xây bằng đá kiểu tân thời. Người nô bộc lấy chìa khóa mở một cánh cửa nặng và rất chắc. Tôi lấy làm lạ về sự bố trí cửa nẻo chặt chẽ đến như vậy đối với một người không sở hữu của cải hay tài sản gì đáng giá. Người nô bộc bèn giải thích lý do: 
– Cách đây mấy năm, người tu sĩ ở trong hàng rào tre này và không có khóa trong ngoài gì cả. Một hôm, một gã say rượu đẩy cổng vào trong, thấy người tu sĩ chỉ có một mình và không hề phản ứng tự vệ bèn ra tay hành hung. Hắn nắm chòm râu của ông lôi đi và đánh ông ta bằng gậy, vừa đánh vừa chửi rủa. Cũng may, lúc đó có mấy người thanh niên đang đá banh trên khoảng đất trống gần bên, nghe có những tiếng la ó khác thường họ bèn chạy vào nhà và giải cứu người tu sĩ thoát khỏi tay của tên say rượu. Khi đó, một người trong bọn đã chạy đi báo động với người làng. Mọi người lập tức kéo đến nơi và định cho tên du côn kia một bài học nhớ đời. Quả thật, hắn ta suýt nữa đã bị ăn một trận đòn nhừ tử nếu không có sự can thiệp của người tu sĩ. Người này vẻ mặt vẫn bình thản ngay cả khi đang bị hành hung. Ông ta viết trên một mảnh giấy dòng chữ như sau: 

Nếu các ông đánh đập người này thì cũng giống như các ông đánh đập tôi. Xin hãy thả cho anh ta về, vì tôi đã tha thứ cho lỗi lầm của anh ta.”

Vì lời nói của người tu sĩ luôn được tôn trọng, nên gã say rượu được thả ra. 

Người nô bộc liếc nhìn vào trong nhà và yêu cầu chúng tôi đừng gây tiếng động, vì người tu sĩ đang thiền định. Tôi cởi giày và để ngoài hàng hiên theo phong tục bản xứ. Lúc quay vào, tôi nhìn thấy trên vách tường có một tấm bia đá đề một dòng chữ Tamoul, người bạn tôi đọc cho tôi nghe: 

Đây là am thất của một nhà tu tịnh khẩu.” 

Gian phòng rộng rãi, cao ráo và rất sạch sẽ. Giữa nhà là một cái bục bằng cẩm thạch bề cao độ ba tấc, lót một tấm thảm bằng gấm Ba Tư, trên đó vị tu sĩ ngồi im lặng, hoàn toàn bất động như một pho tượng đá. Ông có một thân hình cao và thẳng, màu da nâu sậm. Ông ngồi theo kiểu bán già, bàn chân mặt đặt lên đùi bên trái, đầu, gáy, và lưng đều thẳng đứng. Tóc ông dài và đen, bỏ xõa xuống tận vai. Một bộ râu rậm và đen phủ đầy cằm; hai bàn tay đặt lên hai đầu gối. 

Vì ông chỉ vận duy nhất một cái chăn quấn ngang lưng, mình để trần nên tôi nhận ra ngay một thân mình đầy bắp thịt rắn chắc, biểu lộ một sức khỏe rất tốt. Gương mặt ông lộ vẻ ung dung tự tại, đôi môi dường như luôn sẵn sàng nở một nụ cười. Người này hẳn là đã giải thoát khỏi gánh nặng của cuộc đời thế gian mà những kẻ phàm tục bị bắt buộc phải mang lấy trên vai chỉ vì không nhận biết được sự phù du giả tạm của nó. 

Trên khuôn mặt hiền từ nhưng nghiêm nghị là một cái mũi ngắn và thẳng, với hai mắt mở lớn nhìn thẳng về phía trước, mí mắt không chớp. Toàn thân đều yên lặng, tuyệt nhiên không cử động. 

Người dẫn đường của tôi cho biết nhà tu sĩ đang nhập định. Trong trạng thái này, hành giả hòa nhập tâm thức mình với tâm thức vạn hữu, tuy vẫn tỉnh giác về mọi việc xảy ra chung quanh nhưng không còn một mảy may ý niệm chấp giữ cái bản ngã nhỏ nhoi của riêng mình. 

Tôi để ý quan sát kỹ người yogi. Trạng thái nhập định của ông ta quả là có thật, không còn nghi ngờ gì nữa. Điều lạ lùng nhất là đôi mí mắt ông không hề chớp, và mắt vẫn mở suốt nhiều giờ như không biết mỏi. Cặp mắt ông mở lớn nhưng không chú tâm nhìn vật gì, khác với hầu hết những người yogi khác đều khép mắt lại và hơi nhìn xuống. Những dấu hiệu hoạt động của cơ thể cũng dường như ngưng hẳn, trừ ra thỉnh thoảng có một giọt nước mắt chạy quanh theo gò má, nguyên nhân chắc hẳn là vì hai mí mắt không chớp đã lâu. 

Một con thằn lằn từ trên trần nhà bò xuống, chạy lên tấm thảm gấm và từ từ bò lên bàn chân ngồi bán già của người tu sĩ, nhưng tuyệt nhiên không có một cử động, chẳng khác nào một pho tượng đá. Vài con ruồi đáp xuống và bò lên mặt người, nhưng hình như không có dấu hiệu cảm giác, chẳng khác nào một gương mặt bằng đồng. Hơi thở ông dịu nhẹ và đều đặn, nhưng thoảng rất nhẹ, gần như không thể nhận ra được nữa. Tuy thế, đó là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ sự sống. 

Trong thời gian chờ đợi, tôi lấy máy ảnh ra chụp mấy tấm hình, nhưng rồi nhận thấy trong phòng thiếu ánh sáng nên thôi không chụp nữa. 

Tôi nhìn đồng hồ, đã hai giờ trôi qua kể từ khi chúng tôi bước vào. Toàn thân người tu sĩ vẫn trơ trơ, không một chút cử động. Tôi thầm nghĩ sẽ ở lại đây suốt ngày nếu cần, để đạt mục đích tiếp kiến với người tu sĩ lạ lùng này. Nhưng người nô bộc cho chúng tôi biết là chờ đợi như thế cũng vô ích, và cho dù chúng tôi có trở lại trong một hai ngày tới có lẽ cũng chưa chắc gì được tiếp xúc với ngài. Chúng tôi đành thất vọng ra về, nhưng điều ấy càng làm tăng thêm sự tò mò của tôi. 

Những ngày sau đó, tuy vẫn chưa có cơ hội diện kiến người tu sĩ im lặng nhưng tôi đã cố gắng dò hỏi, thu thập và chọn lọc được một số tài liệu về người tu sĩ này. Những cuộc điều tra loại này đòi hỏi một sự nhẫn nại và óc phán đoán sáng suốt của một thẩm sát viên, vì những tư liệu thu được khi thì quá ít ỏi, mơ hồ, lúc thì thật dồi dào nhưng lại chứa đầy những câu chuyện huyễn hoặc, thần bí mà người kể đã cố tình thêu dệt thêm vào. 

Cuộc điều tra bắt đầu bằng một buổi nói chuyện dài với người nô bộc, và kết thúc bằng cuộc phỏng vấn một viên thanh tra cảnh sát địa phương. Nhờ đó, tôi có thể chắp nối từng giai đoạn và ghi ghép lại được ít nhất là một phần tiểu sử của người tu sĩ. 

Ông ta đến ở trong vùng này đã được tám năm nay. Không ai biết ông ta là ai và từ đâu đến. Ban đầu, ông ta chọn cư trú trên một khoảng đất trống gần ngôi nhà ông ta hiện đang ở bây giờ. Những kẻ tò mò thường đến gần định hỏi chuyện ông ta, nhưng đều phải thất vọng ra về, vì ông ta không mở miệng nói chuyện với bất cứ ai, cũng không tỏ vẻ muốn nghe ai nói. Thỉnh thoảng, người ta thấy ông ta cầm một cái gáo dừa đi lang thang vào xóm làng để khất thực. 

Thường thì ông ta ngồi luôn cả ngày đêm trên khoảnh đất này, không một mái che, không quản mưa nắng dãi dầu, gió sương, cát bụi và côn trùng sâu bọ. Ông ta dường như hoàn toàn không lưu tâm đến ngoại cảnh, chỉ vận có một cái chăn và luôn luôn giữ duy nhất một thế ngồi. 

Tuy nhiên, vùng ngoại ô của một thành phố lớn như Madras không phải là nơi thuận tiện cho sự thiền định của một người tu sĩ ẩn dật lánh đời. Một chỗ như thế có thể là tạm được ở nước Ấn Độ thời cổ, chứ còn người yogi ở thời đại này thì phải ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm, hay ít nhất cũng phải ở trong một gian phòng vắng vẻ tĩnh mịch. Tại sao người ẩn sĩ lạ lùng này lại chọn một nơi hoàn toàn không thích hợp cho sự tu hành của ông ta như thế? 


Người ta đã tìm được lý do sau một chuyện không hay xảy đến cho anh ta. Một hôm, một đám du đãng thiếu niên nhìn thấy người tu sĩ này và liền dùng ông ta làm cái đích cho sự nghịch ngợm của chúng. Mỗi ngày chúng đến ném đá và rác rến vào người tu sĩ và buông lời chửi rủa. Ông ta vẫn thản nhiên chịu đựng, mặc dầu với sức lực của ông ta thì bọn chúng lẽ ra đã phải ăn một trận đòn đích đáng. Nhưng ông ta thậm chí cũng không mở miệng quở mắng chúng một lời, chỉ lặng thinh chịu đựng. 

Việc ấy có thể đã kéo dài hơn nữa nếu như không có một người qua đường nhìn thấy bọn nhóc du đãng đang làm trò mất dạy. Người này lấy làm bất bình bèn đến báo cho Sở cảnh sát Madras. Họ lập tức đến giải tán đám tiểu quỷ sau khi đã quở mắng chúng một trận nặng nề. 

Sau khi việc ấy xảy ra, một viên thanh tra cảnh sát bèn quyết định điều tra lai lịch của người ẩn sĩ. Nhưng vì không tìm được người nào biết rõ lai lịch của ông ta, nên viên thanh tra không còn cách nào khác hơn là sử dụng công quyền để chất vấn chính bản thân ông ta. 

Sau rất nhiều do dự, người tu sĩ mới viết những lời sau đây lên một mảnh giấy để kể rõ thân phận của mình: 

Tôi là đệ tử của ngài Marakayar. Thầy tôi đã dạy tôi hãy đi xuyên qua các vùng đồng bằng và đến tỉnh Madras. Chính thầy tôi đã chỉ cho tôi tìm ra khoảnh đất này. Người bảo tôi hãy ở tại đây và tiếp tục thực hành pháp môn Yoga cho đến khi thành đạo. 

Tôi đã từ bỏ cuộc đời thế gian và chỉ có một yêu cầu là mọi người hãy để cho tôi yên. Tôi không đến Madras để tìm kiếm lợi lộc gì, mà chỉ muốn đi theo con đường tu hành.” 

Viên thanh tra cảnh sát hài lòng về câu trả lời trên đây và thừa nhận người này là một đạo sĩ chân chính, bèn hứa sẽ dành cho ông mọi sự bảo vệ cần thiết. Anh ta cũng biết Marakayar là một vị đạo sĩ nổi tiếng, vừa qua đời cách đó không bao lâu. 

Tục ngữ có câu: “Trong họa có phúc.” Quả thật vậy, vụ rắc rối kể trên thấu đến tai một người mộ đạo ở Madras, người này bèn hiến cho người tu sĩ một khu đất lớn trong thành phố với tịnh thất khang trang để người tu tập. Nhưng người tu sĩ không chịu rời khỏi mảnh đất đang ở, vì không muốn làm trái lời thầy dặn. 

Sau cùng, người cư sĩ mộ đạo kia mới tìm ra một giải pháp là xây một nhà tịnh thất ngay trên miếng đất gần bên chỗ ở của người yogi. Người tu sĩ bằng lòng ở trong tịnh thất đó để tu tập. Từ đó ông ta mới thực sự có được một chỗ ẩn trú để tránh mưa tránh nắng. 

Cũng chính người mộ đạo hảo tâm ấy đã thuê một người nô bộc theo săn sóc người yogi để ông ta khỏi phải đi khất thực trong xóm làng. Không biết vị tôn sưMarakayar có tiên liệu trước rằng cuộc thử thách dành cho người đệ tử này rốt cuộc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp êm thấm như thế hay chăng? 

Tôi cũng được biết rằng người tu sĩ không có đệ tử nào cả. Ông ta không tìm kiếm, cũng không thâu nhận đệ tử. Ông ta quyết định tinh tấn tu tập để tiến nhanh đến mục đích giải thoát bằng cách tịnh khẩu và sống tách biệt với thế tục trong sự hoàn toàn cô đơn. Thái độ đó, theo quan niệm của người Âu Tây thì dường như thật ích kỷ. Tuy nhiên, thật cũng khó mà cho là ích kỷ khi một người đã có lòng từ bi hỷ xả, tha thứ dễ dàng đối với một kẻ say rượu hành hung mình, và không để tâm hờn giận đám tiểu quỷ đã hành hạ trêu chọc. 

Tôi đến lần thứ nhì với hy vọng được tiếp xúc trao đổi với người tu sĩ tịnh khẩu. Lần này có hai người cùng đi với tôi. Một là người thông ngôn đã quen biết và người kia là Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar đã từng dạy cho tôi biết rất nhiều điều quí giá. Brama không thích tới lui những chốn thành thị, nhưng khi nghe tôi bày tỏ mục đích cuộc thăm viếng liền bằng lòng đi theo tôi không chút do dự. 

Gần đến bờ tường, chúng tôi gặp một người khách lạ cũng vừa xuống xe ngừng ở giữa đường và đi bộ băng qua cánh đồng. Người này cũng muốn được vào yết kiến nhà tu sĩ. Trong khi trò chuyện trên đường đi, anh ta cho chúng tôi biết rằng anh ta là em bà Vương hậu của xứ Gadwal, một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của Quốc vương xứ Hyderabad. Người này cũng cho biết anh ta là một trong số những người đã cúng dường rất nhiều cho sự tu tập của người tư sĩ tịnh khẩu, và có góp phần trong việc trùng tu am thất. Anh ta đến Madras có việc trong vài ngày, và trước khi ra về anh ta muốn đến viếng thăm nhà tu sĩ để xin người ban ân huệ. Còn cái ân huệ này có giá trị như thế nào, thì tôi được biết qua câu chuyện sau đây do người khách lạ này thuật lại. 

Một mệnh phụ phu nhân trong triều đình xứ Gadwal có đứa con bị một chứng bịnh hiểm nghèo. Bà ấy nghe tiếng đồn về nhà tu sĩ tịnh khẩu. Bà không do dự, liền đi tới Madras để thỉnh cầu người tu sĩ ban ân huệ cứu giúp đứa con bà. Người yogi bằng lòng và đứa nhỏ khỏi bệnh một cách mầu nhiệm. Việc này đến tai bà Vương hậu, bà liền đến tận nơi để cám ơn người tu sĩ. Bà hoàng biếu cho vị tu sĩ một túi bạc sáu trăm rupee, nhưng ông ta từ chối không nhận. Bà hoàng hết lời khẩn khoản cầu xin, thì ông ta liền yêu cầu bà hãy dùng số tiền đó xây một bờ tường chung quanh tịnh thất, để ông khỏi bị quấy rầy trong lúc tham thiền. Bà hoàng liền làm đúng theo lời dặn đó và bờ tường được xây lên. 

Người nô bộc đưa chúng tôi cùng vào một lượt, nhưng chúng tôi lại thấy người tu sĩ vẫn đang ngồi nhập định cũng như lần trước. Chúng tôi bèn lẳng lặng ngồi thành một vòng bán nguyệt chung quanh người tu sĩ, khi ấy trông chẳng khác nào như một pho tượng oai nghi đặt trên phiến đá cẩm thạch. 

Độ một tiếng rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự xuất định. Hơi thở của người tu sĩ trở nên dài hơn và dễ nhận thấy hơn, hai mí mắt đã thấy chớp, tròng mắt trở lại bình thường. Những bắp thịt đã co giãn trở lại, thân mình cũng trở lại dáng điệu tự nhiên. 

Khoảng năm phút sau đó, sắc diện người tu sĩ và sự biểu lộ trong cặp mắt cho thấy rằng người tu sĩ đã trở về với cõi tục. Ông ta đưa mắt chăm chú nhìn người thông ngôn của tôi, rồi quay đầu nhìn về phía Brama và người khách lạ, sau cùng mới quay về phía tôi. Tôi liền nắm ngay lấy cơ hội, nghiêng người tới đặt dưới chân ông một cây bút và một tờ giấy. 

Sau một lúc do dự, ông ta cầm lấy những vật này và viết bằng một tuồng chữTamoul rất đẹp: 

“Hôm trước, có ai trong các vị đã đến đây và chụp ảnh?” 

Tôi đành phải thú nhận. Nhưng thật ra, những bức ảnh tôi chụp hôm đó đều hỏng cả vì thiếu ánh sáng. Người tu sĩ lại viết: 

“Lần sau, khi ông đến viếng các đạo sĩ đang xuất thần, xin đừng bao giờ làm như thế, vì có thể gây hại cho người đang nhập định” 

Quả thật, tôi đã làm một điều không nên làm ở nơi cư trú tách biệt của người tu sĩ, và tôi bày tỏ sự hối tiếc về điều đó. 

Vị điện hạ của triều đình vua Gadwal lên tiếng kính chào và bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với người tu sĩ. Khi ông ta đã xong, đến lượt tôi tiến lên và tự giới thiệu như một người ngoại quốc hâm mộ nền minh triết cổ truyền của Ấn Độ. Tôi cho ông biết là vì có nghe nói rằng xứ Ấn Độ ngày nay vẫn còn những bậc hiền triết đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga nên tôi đang cất công đi tìm các bậc ấy. Tôi không ngần ngại hỏi xem vị tu sĩ có thể giúp đỡ tôi phần nào trong cuộc tìm kiếm này hay chăng? 

Người Yogi vẫn ngồi yên như pho tượng, vẻ mặt thản nhiên không biểu lộ bất cứ cảm xúc gì. Mười phút trôi qua, tôi tự hỏi không biết ông ta có nghe tôi hỏi chăng? Hay là tôi lại sắp bị thất vọng? Có lẽ, đối với ông ta thì một người Âu chỉ là một kẻ sống nặng về vật chất, không có gì phải trao đổi nhiều trong lãnh vực tâm linh. Phải chăng tôi đã đòi hỏi quá nhiều khi muốn một người tu sĩ lánh đời phải ra khỏi thiền định chỉ để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của một kẻ vô tín ngưỡng và nặng lòng trần tục? 

Nhưng không, những lời tự trách của tôi chỉ là vu vơ và do tôi quá giàu tưởng tượng. Người tu sĩ đã cầm lấy cây bút chì và viết vài chữ trên tờ giấy. Tôi nghiêng người tới trước để nhận lấy trên tay ông ta và đưa cho người thông dịch. Người này lắc đầu: 

– Tôi không hiểu, vì chữ viết rất khó đọc. 

– Vũ trụ thật là đầy những sự huyền bí. 

Tôi nói đỡ lời để anh ta đừng băn khoăn, nhưng tôi thấy hình như những lời này làm nở một nụ cười hơi chua chát trên môi người tu sĩ. Ông ta nâng cây bút chì lên và viết mấy dòng bằng lối chữ phổ thông: 

Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể biết được sự huyền bí của vũ trụ?” 

Rồi ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy đằng sau cái nhìn đó là cả một thế giới tư tưởng thầm kín, đầy những bí mật được giữ gìn một cách chặt chẽ. 

– Tôi vẫn còn hoang mang, và lời nói của ngài chưa giải đáp được sự thắc mắc của tôi. 

Đó là tất cả những gì tôi nói được trong lúc đó. Vị tu sĩ tiếp tục viết một dòng khác:

Như vậy tại sao ông cứ đi tìm quanh quẩn như con ong đi kiếm từng giọt mật, trong khi cả một khối mật ngọt vốn luôn sẵn có kề bên?” 

Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên! Một câu trả lời như thế có lẽ là đầy đủ đối với một người Á Đông, và ý nghĩa bóng gió của nó mang một thi vị đáng yêu, nhưng tôi không được thỏa mãn chút nào khi đang muốn hỏi ông ta về sự giải đáp cho những thắc mắc cụ thể của tôi. Tôi tiếp tục chất vấn:

–Nhưng tìm ở đâu, và phải đi đến đâu bây giờ? 

Câu trả lời được viết tiếp ra là:

Hãy tự tìm nơi chính mình. Chân lý vốn sẵn có nơi mỗi người chứ không ở đâu xa.” 

– Thưa ngài, tôi đã tìm trong tôi và chỉ thấy có sự vô minh ngu dốt. 

Sự vô minh chỉ có trong tư tưởng của ông mà thôi.” 

Tôi không kiềm được nữa, buột miệng nói ra:

– Xin lỗi thầy, những câu trả lời của thầy chỉ làm tăng thêm sự hoang mang của tôi mà thôi. 

Người tu sĩ nhoẻn cười một cách tự nhiên trước sự thành thật của tôi. Ông ta hơi do dự một lúc rồi viết tiếp lên tập giấy: 

Chính tư tưởng của ông đã đưa ông đến sự vô minh hiện tại. Bây giờ, ông hãy quay trở về với sự minh triết, tức là hãy tự biết mình. Tư tưởng con người cũng ví như một chiếc xe bò đưa người vào trong hang tối. Ông hãy quay ngược trở ra thì sẽ nhìn thấy ánh sáng.” 

Người tu sĩ thấy tôi càng bối rối thêm, bèn ra dấu đòi lại tập giấy, và sau khi ngừng một lúc, ông ta viết tiếp: 

Việc tập trung tư tưởng quay trở về với bản thể nguyên sơ chính là điểm cốt yếu của pháp môn Yoga. Nói như vậy ông đã hiểu ra chưa?” 

Tôi dường như đã nhận thấy rõ hơn một chút, nhưng vẫn chưa thực sự hiểu hết được những gì vừa đọc. Tôi cần có thời gian suy ngẫm nhiều hơn về vấn đề này. Tôi nghĩ, tạm thời có lẽ tôi không nên hỏi thêm nhiều hơn nữa.

Vì mãi lo suy nghĩ nên tôi không nhận thấy có một người khách vừa mới bước vào. Người này ngồi sát sau lưng tôi, và tôi chỉ nhận biết được sự có mặt của người này khi anh ta nói nhỏ vào tai tôi những câu lạ lùng. Tôi đang ngẫm nghĩ về câu trả lời của người tu sĩ và hơi thất vọng về tính cách mập mờ khó hiểu của nó, thì bỗng nghe sau lưng có người thì thầm một câu bằng tiếng Anh rất thạo: 

– Thầy tôi sẽ nói cho ông nghe câu trả lời mà ông mong đợi. 

Tôi quay đầu nhìn lại. Người mới đến là một người trạc độ bốn mươi tuổi, khoác áo màu vàng của tu sĩ hành khất, nước da sậm như màu đồng đỏ, tác người cao lớn và vai rộng. Ông ta có một cái mũi dài và lộ như mũi chim ưng, đôi mắt rất nhỏ và dường như lúc nào cũng nhíu lên như một cái cười dài bất tận. Ông ta có vẻ như cười cợt làm tôi khó chịu. Hơn nữa, thật là bất lịch sự khi nói chuyện riêng với người khác trước mặt vị tu sĩ tịnh khẩu nên tôi không nói gì mà quay mặt trở lại về phía người yogi

Một câu hỏi khác vừa hiện ra trong trí tôi, nhưng phải chăng nó quá táo bạo và thậm chí dường như hỗn láo: 

– Bạch thầy, thế gian đang đau khổ kêu cứu, những bậc hiền giả như thầy tại sao lại ẩn mình ở một nơi vắng vẻ và đành chịu mai một với đời? 

Một nét chua chát thoáng qua trên gương mặt thản nhiên của người tu sĩ. Ông viết: 

Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông dám nghĩ rằng có thể hiểu được việc làm của tôi? Việc bàn luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi gì, ông hãy cố gắng tu tập một cách kiên tâm bền chí, rồi ông sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.” 

Tôi hỏi thêm một câu cuối cùng: 

– Nhân loại đang khát khao đi tìm ánh sáng. Tôi cũng đang đi tìm để hy vọng chia sẻ phần nào với người khác. Vậy tôi phải làm sao? 

Tôi đọc được câu trả lời như sau:

Khi ông nhận biết được chân lý, ông sẽ biết phải làm gì để phụng sự nhân loại và cũng sẽ không thiếu gì phương thức để thực hiện. Khi hoa có mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được với tất cả những loài hoa khác. Khi một người đã đạt được sự minh triết và có sức mạnh tâm linh, người ấy không cần đi tìm ai cả, những người khác sẽ tự tìm đến. Hãy lo trau giồi và rèn luyện tâm thức, đó là điều duy nhất cần phải làm.” 

Khi tôi đọc xong câu trả lời, người tu sĩ ra hiệu muốn ngưng cuộc nói chuyện để trở lại thiền định. Tôi ngỏ ý muốn được ông ta ban cho một ân huệ. Ông ta không tỏ dấu hiệu gì đáp lại, chỉ lặng thinh và cặp mắt dường như đắm chìm vào một trạng thái trầm mặc sâu xa. 

Sau một lúc, ông ta cầm bút chì viết lên tập giấy mấy dòng và trao cho tôi: 

Tôi rất vui vì ông đã đến đây. Ông hãy nhận món quà này của tôi để kỷ niệm ngày hội ngộ hôm nay.” 

Tôi chưa kịp hiểu hết ý nghĩa câu này thì thình lình tôi cảm thấy một sức mạnh lạ lùng xâm chiếm lấy người tôi. Sức mạnh ấy như đi xuyên qua tủy xương sống, rồi ran ran chạy từ dưới lên trên theo đường sống lưng, làm tôi phải duỗi thẳng gáy cổ và ngẩng đầu lên. Tôi cảm thấy tinh thần đột nhiên sảng khoái và mạnh mẽ, với một sự thúc giục từ bên trong muốn tự chinh phục chính mình. Tôi khởi lên ý nghĩ rằng từ nay nhất định sẽ khuất phục được thân xác này và buộc nó phải tuân theo ý chí tốt lành để thực hiện những lý tưởng cao cả nhất. Tôi có linh cảm rằng những sức mạnh và ý tưởng vừa phát sinh đó có liên quan trực tiếp đến người tu sĩ và món quà mà ông ta vừa nhắc đến. Phải chăng ông ta muốn dùng cách đó để giúp tôi và cũng là để cho tôi thấy một bằng chứng hiển nhiên của sức mạnh tâm linh? 

Đôi mắt người yogi lại đi vào trạng thái gần như vô cảm, và cái nhìn như mất hút tận trong cõi xa xăm nào đó. Toàn thân ông ta bất động như một pho tượng đá sau khi trở lại với thế ngồi thiền định quen thuộc. Chúng tôi vẫn còn ngồi quanh ông ta với những ý nghĩ khác nhau. Phải chăng đây đúng là một yogi chân chính? Phải chăng ông ta đang một mình bước vào cuộc thám hiểm nội tâm huyền bí, nhằm đem lại một vài tia sáng cho chính bản thân mình và cho nhân loại? 

Khi chúng tôi bước ra ngoài, Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar, quay lại nói với tôi bằng một giọng bình thản: 

– Người yogi này đã đạt tới một trình độ rất cao, tuy là chưa đến mức tột đỉnh. Ông ta có một số năng lực thần bí, nhưng vẫn đang gắng công tu luyện để hoàn thiện tâm thức. Ông ta có một thể xác kiện toàn mà tôi tin là nhờ tập luyện mônHatha Yoga từ lâu năm. Ông ta cũng đã tiến khá xa trên con đường luyện tinh thần theo pháp môn Raja Yoga. Tôi được biết ông ta trước đây đã lâu. 

– Từ bao giờ? 

– Tôi đã nhìn thấy ông ta nhiều năm về trước ở giữa một cánh đồng không có một mái che. Tôi liền nhận ra ngay rằng ông ta là một bạn đồng môn. Ông ta cho tôi biết, bằng cách viết trên giấy, rằng hồi còn trẻ ông ta có gia nhập quân đội. Sau khi giải ngũ, ông ta cảm thấy chán ngán cuộc đời và lui về ở ẩn nơi thanh vắng. Chính trong thời gian đó, ông ta gặp được đạo sĩ trứ danh Marakayar và trở thành đệ tử của vị này. 

Trên đường về, chúng tôi đi ngang qua cánh đồng rồi trở ra đường cái. Tôi không tiết lộ với ai về cái kinh nghiệm tâm linh bất ngờ và khó hiểu đã xảy đến với tôi trong tịnh thất khi nãy. Tôi cần phải suy nghĩ lại về vấn đề này trong khi cái âm hưởng của nó hãy còn vang dội chưa dứt trong tâm hồn tôi. 

Tôi không còn gặp lại người tu sĩ im lặng ấy lần nào nữa. Ông ta không muốn cho bất cứ ai quấy rầy sự tĩnh lặng của ông ta, và tôi phải tôn trọng mong muốn đó. Tôi tự biết mình không nên trở lại tìm ông ta, vì phải để cho ông ta tiếp tục những cơn thiền định hoàn toàn cách biệt với cuộc đời trần gian tục lụy. 

Vị tu sĩ này không hề có ý muốn lập thành môn phái hay qui tụ môn đồ, và dường như không có tham vọng gì khác hơn là sống một cuộc đời hoàn toàn tĩnh lặng. Ông ta hẳn không có gì để nói thêm ngoài những gì đã nói với tôi. Đây là con người đầu tiên tôi được gặp đã tỏ ra khinh thường sự nói năng hoạt bát hùng biện mà hầu hết chúng ta vẫn đề cao như một nghệ thuật và xem như là một năng khiếu quan trọng để dẫn đến thành công.
---o0o---
CHƯƠNG 06 : NHÀ LÃNH ĐẠO TINH THẦN MIỀN NAM ẤN
Chúng tôi chưa ra đến đường lớn để trở vềMadras thì đã nghe có tiếng chân người đuổi theo từ phía sau. Tôi quay lại thì thấy người yogi mặc áo vàng đã ngồi sau lưng tôi trong tịnh thất lúc nãy. 
Ông ta vừa nhìn tôi vừa nhăn răng cười. Ông ta có một cái cười đặc biệt, hai quai hàm xếch ngược lên tận mang tai và cặp mắt nhỏ híp lại thành hai vết nhăn, hình như lúc nào cũng có vẻ đùa cợt. Tôi bèn hỏi: 

– Ông muốn nói chuyện với tôi chăng? 

Ông ta đáp một cách mau mắn với cách nói tiếng Anh rất giỏi: 

– Thưa ông, đúng là như vậy. Xin ông có thể cho tôi biết ông làm gì ở xứ này được chăng? 

Sự tò mò của ông ta dường như hơi quá đáng đối với một người chỉ vừa mới gặp lần đầu, làm cho tôi cảm thấy do dự. Tôi bèn đáp một cách vu vơ: 

– Tôi đi du lịch, chỉ có vậy thôi. 

– Nhưng hình như ông có vẻ chú ý đến những tu sĩ ở xứ này, phải vậy chăng? 

– Phải, nhưng chỉ là xem chơi để tiêu khiển vậy thôi. 

– Tôi cũng là một người yogi, thưa ông. 

Tôi nghĩ thầm, sao lại có một người yogi tự khoe khoang một cách lạ kỳ như vậy. Tôi bèn hỏi: 

– Thế ông thực hành được bao lâu rồi? 

– Đã được ba năm. Trước kia tôi cũng có nhập ngũ trong quân đội Hoàng gia suốt bảy năm. 

– Thật vậy sao? 

– Thưa ông, đúng vậy. Tôi gia nhập quân đội Ấn Độ trong chiến tranh Trung Đông. Sau chiến tranh, nhờ thông minh và có năng lực nên tôi được thuyên chuyển sang Phòng Kế toán quân đội. 

Tôi không thể nhịn cười về màn tự giới thiệu khá đặc biệt của ông ta. Nhưng ông ta không lưu tâm gì đến thái độ của tôi, thản nhiên nói tiếp: 

– Về sau tôi xin từ chức vì một sự rối rắm trong gia đình khiến tôi phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần rất lớn. Sau đó tôi bước vào con đường tu hành và trở nên một yogi

Tôi đưa cho ông ta một tấm danh thiếp và xin ông ta cho biết quí danh. Ông ta đáp: 

– Tôi tên là Subramanya, thuộc dòng Bà-la-môn

– Ông Subramanya, ông hãy giải thích về lời nói thì thầm của ông bên cạnh tôi lúc nãy ở trong am thất của vị tu sĩ tịnh khẩu. 

– Vâng, chính tôi cũng đợi dịp để giải thích cho ông. Ông hãy đến chất vấn thầy tôi, vì ngài là một bậc hiền minh nhất của xứ Ấn Độ hiện nay. Sự minh triết của ngài còn cao xa hơn của tất cả những người yogi của xứ Ấn Độ. 

– Thật vậy sao? Ông đã từng đi hết khắp xứ Ấn Độ này chưa? Ông đã gặp được hết tất cả những nhà đạo sĩ trứ danh hay chưa mà ông dám nói như thế? 

– Tất nhiên là tôi đã gặp nhiều vị đạo sĩ chân tu, và tôi biết rõ xứ Ấn Độ từ mũiComorin đến tận dãy Hy Mã Lạp Sơn. 

– Rồi sao nữa? 

– Bởi vì chính thầy tôi đã sai tôi đến để gặp ông. Bởi vì chính quyền năng của ngài đã làm cho ông bị thu hút đến xứ Ấn Độ này. 

Lời tuyên bố này có vẻ như vượt quá sự thật đến mức trở thành lố lăng, làm cho tôi như phải dội ngược, không thể chịu nổi! Tôi thường không thích những lời nói phóng đại khoác lác của những kẻ quá trớn, và người tu sĩ áo vàng này quả thật là đã nói ra những lời quá trớn. Giọng nói, cử chỉ, hình dáng và cốt cách của ông ta biểu lộ điều ấy một cách rõ ràng. Tôi đáp một cách lạnh lùng: 

– Tôi không hiểu ông muốn nói gì. 

Ông ta không để ý đến thái độ lạnh nhạt của tôi, càng trở nên hùng biện và nói nhiều hơn nữa: 

– Tôi được gặp ngài chỉ mới cách đây tám tháng. Nhưng tôi chỉ được sống gần bên ngài trong năm tháng thôi. Sau đó ngài dạy tôi hãy tiếp tục cuộc đời khất sĩ lang thang đây đó. Tôi dám chắc là ông sẽ không bao giờ gặp được một người nào cao cả như ngài. Quyền năng của ngài cao siêu đến nỗi ngài có thể trả lời những tư tưởng thầm kín của ông trước khi ông thốt ra lời. Ông chỉ cần ở bên cạnh ngài một thời gian ngắn cũng đủ thấy trình độ tâm linh của ngài cao cả đến dường nào. 

– Anh có chắc rằng ngài sẽ vui lòng tiếp đón tôi không? 

– Chắn chắn như vậy, thưa ông. Chính do sự chỉ dẫn của ngài mà tôi đến đây gặp ông. 

– Thầy ông hiện giờ đang ở đâu? 

– Ở Arunchala, trên một ngọn đồi thiêng. 

– Nơi đó thuộc vùng nào vậy? 

– Trong địa phận tỉnh Arcot, ở tận miền Nam. Tôi sẽ dẫn đường cho ông đi đến tận nơi. Thầy tôi sẽ giải quyết mọi sự băn khoăn thắc mắc của ông, vì ngài đã đạt tới một trình độ tâm linh siêu đẳng. 

Tôi nhìn nhận một cách do dự: 

– Điều ấy thật là lý thú, nhưng tôi rất tiếc là hiện giờ tôi không thể đi được. Hành trang của tôi đã sẵn sàng và tôi sẽ lên miền Đông Bắc nay mai, vì tôi có hai việc quan trọng cần phải thu xếp. 

– Nhưng việc này còn quan trọng hơn!

– Rất tiếc rằng chúng ta gặp nhau quá trễ. Tôi đã chuẩn bị mọi việc sẵn sàng và không thể thay đổi được nữa. Tôi có thể trở lại miền Nam sau này, nhưng còn bây giờ thì không thể đi được. 

Người yogi lộ vẻ thất vọng rõ rệt: 

– Ông đã để lỡ mất một cơ hội tốt rồi, thưa ông, và... 

Tôi nhận thấy nói nhiều vô ích, nên tôi dứt khoát cắt đứt câu chuyện: 

– Tôi phải đi ngay bây giờ. Dầu sao cũng cám ơn anh. 

Anh ta vẫn nói, dai như đỉa: 

– Tôi không chấp nhận lời từ chối của ông. Chiều mai, tôi sẽ đến nhà ông và hy vọng rằng chừng đó ông sẽ đổi ý kiến. 

Đến đây, anh ta bèn quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo cái bóng người cao lớn mạnh khỏe, khoác áo vàng đi băng qua đường lộ và dần dần mất dạng. 

Khi về đến nhà, tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng tôi đã quyết định một cách quá vội vàng? Nếu vị tôn sư này chỉ đúng độ nửa phần những lời ca tụng của anh ta thì cũng đáng cho tôi chịu một phen khó nhọc đi xuống miền Nam. Nhưng tôi đã chán ngán những người đồ đệ quá mê tín. Họ luôn luôn ca tụng thầy họ một cách quá đáng, nhưng đến khi gặp gỡ tận mặt thì đó chỉ là những người đạo hạnh tầm thường, không có gì đặc biệt. Hơn nữa những đêm không ngủ và những ngày nóng bức như thiêu đã làm cho thần kinh tôi bải hoải, thân thể rã rời. Bởi vậy, tôi càng lo ngại nhiều hơn rằng chuyến đi này có thể là một cuộc “săn vịt” như những lần trước. 

Tuy nhiên, những lý luận đó vẫn không đánh tan được một sự linh cảm từ bên trong nội tâm. Một cái bản năng lạ lùng nhắc nhở cho tôi biết rằng hình như có một cái gì chân thật ẩn giấu sau sự khẩn khoản mời mọc của người khất sĩ. Điều này càng làm cho tôi lưỡng lự và bối rối. 

Sau giấc ngủ trưa vừa thức dậy, đến giờ dùng trà bỗng có khách đến. Đó là một bạn đồng nghiệp trong giới cầm bút, nhà văn Mani. Tôi được biết anh ta do bức thư giới thiệu của một người quen trước khi tôi đến Madras. Nhờ có bức thư giới thiệu này mà anh ta biết địa chỉ và đến thăm tôi. Nhà văn Mani là một thành viên trong Hội đồng Đại học viện của tỉnh Madras, tác giả của nhiều áng văn và tiểu thuyết nói về đời sống ở thôn quê. Anh ta là nhà văn Ấn Độ đầu tiên trong tỉnhMadras đã viết sách bằng Anh ngữ và được các giải thưởng về những công trình phục vụ nghệ thuật. Anh ta viết với một thể văn tao nhã, đã từng được sự khen tặng của thi hào Tagore ở Ấn Độ và Lord Haldane ở Anh quốc. Văn chương của anh ta thường miêu tả những cảnh tượng êm ái nhưng buồn tẻ của những làng mạc hoang vu lạnh lẽo. 

Khi anh ta bước vào phòng, tôi để ý nhìn dung mạo gầy gò mảnh khảnh với vẻ mặt trầm lặng, đôi mắt tinh anh và cặp kính trắng của anh ta. Đó là đôi mắt của một nhà tư tưởng, một triết gia và một thi sĩ. Đôi mắt ấy cũng phản chiếu nỗi ưu sầu của những nông dân đau khổ ở chốn đồng quê nghèo khó. 

Trong chốc lát, chúng tôi đã nhận thấy có sự thông cảm và đồng quan niệm trên nhiều lãnh vực. Sau khi chúng tôi tỏ bày tâm sự về nhiều vấn đề, bàn về tình hình chính trị và ca tụng những nhà văn được mến chuộng, tôi cảm thấy cần tiết lộ cho anh ta biết rõ mục đích của tôi khi viếng xứ Ấn Độ. 

Tôi thành thật nói cho anh ta biết ý định của tôi và hỏi anh ta về các nhà đạo sĩ chân tu ở xứ này; và nói trước cho anh ta biết rằng tôi không cần gặp những nhà tu khổ hạnh hay những người làm trò quỉ thuật. Anh ta lắc đầu nói: 

– Ngày nay, Ấn Độ không còn là nơi sản xuất ra những người hiền giả chân tu như thế nữa. Với trào lưu vật chất đang lên, sự suy tàn của nền văn minh cổ và sự xâm nhập bởi nền văn hóa duy vật chất của Tây phương, những bậc hiền triết, thánh sư mà anh tìm kiếm ngày nay đã biến mất, không còn nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn tin tưởng rằng có một vài người trong số đó còn đang ẩn dật ở những nơi rừng sâu núi thẳm, và trừ phi anh dành trọn đời để đi tìm các ngài, tôi e rằng anh rất khó tìm ra được. Ngày nay, ngay cả những người Ấn như chúng tôi muốn tìm thầy học đạo còn phải đi phiêu lưu tìm kiếm khắp nơi, huống chi một người Âu như anh thì điều đó lại càng khó hơn. 

– Như vậy, theo ý anh, chắc là không có hy vọng? 

– Tôi không dám nói chắc, đó còn là vấn đề may rủi. 

Tôi hỏi thêm: 

– Anh có nghe nói về một bậc danh sư hiện đang sống trên một ngọn đồi trong tỉnh Arcot

Anh ta lắc đầu tỏ vẻ không biết. Chúng tôi quay trở về các vấn đề văn chương.Mani cao hứng thổ lộ tâm sự của anh ta và ca tụng một cách nồng nhiệt những lý tưởng cao siêu của nền văn hoá cổ Ấn Độ mà ngày nay không còn nữa. Anh ta đề cập đến những lý tưởng như một đời sống đơn giản, phụng sự nhân quần xã hội, cùng phát triển tâm linh. Anh ta muốn tảo trừ cái trào lưu vật chất sa đọa đang lên và hăm dọa tràn ngập khắp xã hội Ấn. Nhưng điều quan trọng nhất đối với anh ta là làm thế nào để giải thoát những vùng làng mạc thôn quê của Ấn Độ đã sắp sửa trở nên những trung tâm tuyển mộ nhân công vào những khu xóm tồi tàn chật hẹp của những thành phố kỹ nghệ Âu Châu. Anh ta cho rằng điều đó sẽ là hậu quả chắc chắn của trào lưu hiện tại. 

Mani cho biết rằng anh ta sinh trưởng trong một gia đình khá giả, có tài sản ở vùng đồng quê. Anh ta nuôi trong trí những kế hoạch cải tiến tình trạng sinh hoạt của người dân quê, và không thể quan niệm được một hạnh phúc nào ở thế gian nếu đời sống của người nông dân hãy còn lầm than khổ sở. 

Tôi lẳng lặng nghe để tìm hiểu quan niệm của anh ta. Sau cùng, anh ta đứng dậy ra về và tôi nhìn theo bóng anh ta hút mất dạng ở cuối con đường. 

Sáng hôm sau, tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta trở lại viếng tôi một cách bất ngờ. Anh ta hối hả đậu xe ngay trước cửa nhà, vì sợ rằng tôi có thể đi vắng từ sớm. Anh ta vừa thở vừa nói: 

– Tôi vừa nhận được một bức điện tín hồi đêm hôm cho biết rằng vị đỡ đầu cao cả của tôi sẽ ghé qua tỉnh Chingleput và sẽ ở lại đó một ngày. 

Sau khi đã lấy lại được hơi thở và đã bớt mệt, anh ta nói tiếp: 

– Đức Tăng Thống Shankara ở tỉnh Kumbokonam là vị lãnh đạo tinh thần của miền nam Ấn Độ. Hàng triệu người tôn sùng ngài như một vị thánh sống. Ngài đã chú ý đến tôi rất nhiều và khuyến khích sự nghiệp văn chương của tôi. Lẽ tự nhiên ngài là người mà tôi trông cậy để dìu dắt tôi về phương diện tâm linh. Người Ấn chúng tôi xem ngài như bậc hiền triết đã đạt tới một trình độ tâm linh cao cả nhất. 

Nhưng ngài không phải là một người yogi. Ngài là vị chủ tể của Ấn Độ giáo miền Nam, một bậc chân tu mô phạm và một nhà đạo đức uyên thâm. Vì ngài biết rõ những trào lưu đạo đức tâm linh của thời đại này, và do bởi đạo căn của ngài, nên ngài có thể nhận biết được những nhà đạo sĩ yogi chân chính. 

Ngài đi châu du khắp nơi từ làng này sang làng khác và từ tỉnh này sang tỉnh khác, bởi đó ngài biết nhiều về vấn đề này. Bất cứ nơi nào ngài đi đến, những vị tu sĩ và tăng lữ trong xứ đều tìm đến chào mừng Ngài. Ngài có thể cho anh nhiều ý kiến hữu ích. Anh có muốn gặp ngài không? 

– Cám ơn anh nhiều. Tôi rất muốn gặp Ngài. Chingleput cách đây bao xa? 

– Chỉ có ba mươi lăm dặm thôi. Nhưng mà này... 

– Gì thế? 

– Tôi thật sự không thể nói chắc việc đức Tăng Thống có chịu tiếp kiến anh hay không. Lẽ tất nhiên là tôi sẽ hết sức cố gắng để xin ngài cho anh được vào yết kiến. Nhưng... 

Tôi tiếp lời anh ta không ngần ngại:

– Tôi biết, có lẽ vì tôi là một người Âu chăng? Tôi hiểu điều đó. 

Anh ta hỏi lại một cách hơi băn khăn, e ngại: 

– Vậy anh có sẵn lòng đón nhận một sự từ chối chăng? 

– Tất nhiên là như vậy rồi. Thôi, chúng ta đi. 

Sau một bữa ăn lót dạ, chúng tôi ra xe đi đến tỉnh Chingleput. Tôi hỏi thăm ông bạn đồng nghiệp của tôi về Đại đức Shankara, nhân vật mà tôi hy vọng được gặp trong ngày hôm đó. Tôi được biết rằng, về phương diện cá nhân, Đại đức là người sống rất đơn giản, nhưng trong những khi đi tuần du khắp nơi trong xứ, trọng trách của ngài buộc ngài phải dùng những nghi lễ oai vệ, lộng lẫy như các bậc vua chúa. Trong những khi ngài di chuyển thì trước sau đều có xe cộ, ngựa voi, tiền hô hậu ủng, cờ quạt, võng lọng tưng bừng. Dân chúng tấp nập ở nơi nào ngài đi đến. Họ đến để cầu xin sự giúp đỡ của ngài về tất cả mọi phương diện, không những về phương diện tâm linh, tinh thần, mà cả về mặt vật chất và thậm chí cả sự giúp đỡ về tiền bạc. 

Không ngày nào là không có những người giàu sang, quyền thế đến dâng cho Ngài những số tiền khổng lồ, nhưng vì ngài đã phát nguyện giữ đức thanh bần, nên những số tiền đó đều được đem dùng vào công việc từ thiện. Ngài nâng đỡ những kẻ khốn khó, trợ giúp tiền cho các trường học, tu bổ các đền thơ, kiến thiết và sửa sang hệ thống kinh rạch, dẫn thủy nhập điền để chống lại hạn hán ở những nơi sông ngòi rất hiếm. 

Nhưng đó chỉ là những công việc phụ thuộc: sứ mạng chính yếu của ngài là coi sóc hàng triệu tín đồ và giáo hóa họ về mặt đạo đức, tâm linh. Bất cứ nơi nào ngài đi đến, ngài đều cố gắng dạy dỗ cho dân chúng biết quay về cái thuần phong mỹ tục và đạo đức cổ truyền của Ấn giáo và gây cho họ một nguồn cảm hứng sâu xa về tinh thần. 

Thường thì ngài thuyết pháp trong đền chùa của địa phương, và sau đó ngài tiếp khách riêng từng người trong số những khách thập phương đến viếng. Đại đức là vị kế nghiệp đời thứ sáu mươi sáu của dòng tu sĩ Shankara, mà người sáng lập đầu tiên là Đức Giáo chủ Shankara Charya, một nhà đại hiền triết dòng Bà-la-môn, đã sống ở Ấn Độ cách đây hai ngàn năm. 

Vào thời kỳ đó, Ấn giáo đang hồi suy vong, mọi sinh hoạt tâm linh dường như sắp sửa điêu tàn. Năm mười tám tuổi, đức Shankara Charya chu du khắp nơi trong xứ, thảo luận về đạo lý với các nhà bác học và các bậc giáo sĩ. Ngài cũng giảng đạo khắp nơi và thâu phục một số tín đồ càng ngày càng đông. Trí thông minh tuyệt vời của ngài làm cho các nhà bác học trong xứ phải ngạc nhiên. Không bao lâu ngài được người đương thời kính nể và suy tôn như một bậc tiên tri. Ngài có những ý kiến rộng rãi và lên án nhiều sự dị đoan, mê tín, núp bóng dưới hình thức tôn giáo. Ngài khuyên răn người đời hãy trau giồi những đức tánh, và trong những lần thuyết pháp ngài chỉ rõ sự vô ích của một tôn giáo chỉ căn cứ trên sự lễ bái, cúng tế, mà không có sự công phu tu luyện. Ngài phá luôn các luật lệ phân biệt giai cấp bằng cách chính ngài hành lễ đám táng của thân mẫu ngài. Điều này làm cho ngài bị trục xuất ra khỏi Bà-la-môn giáo, vì theo tôn giáo này chỉ có những giáo sĩ được chỉ định mới có quyền hành lễ trong các nghi thức: quan, hôn, tang, tế mà thôi. Với quan điểm xóa bỏ giai cấp đó, ngài đã tỏ ra xứng đáng là một người đi theo đúng con đường của đức Phật Thích-ca, vì chính Đức Phật là người đầu tiên đả phá bỏ chế độ phân biệt giai cấp ở Ấn Độ. 

Trái với các giáo sĩ Bà-la-môn, ngài dạy rằng mọi người không phân biệt giai cấp hay màu da, đều có thể tham dự vào đời sống tinh thần và học hỏi đạo lý. Ngài không lập nên một tôn giáo mới nào, mà chỉ dạy rằng bất cứ tôn giáo nào cũng đưa con người đến một đời sống tâm linh tốt đẹp hơn, miễn là nó được thực hành một cách đứng đắn. Để chứng minh cho lập luận đó, ngài lập nên một hệ thống triết học hoàn bị và để lại cho đời một di sản quý báu về tinh thần, vẫn còn được gìn giữ và noi theo trong những đạo viện ở khắp nơi trong xứ. Chính những học giả uyên bác của Ấn Độ cũng rất sùng mộ công trình về triết học và tâm linh của ngài. 

Đức Giáo chủ Shankara Charya đi châu du khắp xứ Ấn Độ với chiếc áo màu nâu sòng và cây gậy hành hương của nhà tu sĩ. Với một chính sách khôn khéo, ngài thành lập bốn đạo viện lớn ở bốn phương trời, một ở Badrinath tại miền Bắc Ấn, một ở Puri tại miền Đông Ấn. Đại bản doanh của Ngài gồm có một ngôi đền và một tu viện được đặt ở miền Nam, nơi đó Ngài bắt đầu đi thuyết pháp. 

Cho đến ngày nay, miền Nam Ấn Độ vẫn được xem là nơi thánh địa của Ấn giáo. Những đạo viện đó là những trung tâm tinh thần truyền bá giáo lý của đức Giáo chủ Shankara Charya. Ngài trở thành vị Tăng Thống đầu tiên trong dòng tu do ngài sáng lập. Mỗi vị Tăng Thống về sau đều lấy tên là Shankara, và khi vị ấy qua đời thì một đệ tử xứng đáng nhất sẽ lên kế nghiệp. 

Vì người đệ tử này thường được chỉ định sẵn từ trước , khi còn là một thanh niên trẻ tuổi, nên anh ta được giao phó cho các vị danh sư dạy dỗ và chuẩn bị để có đủ khả năng đảm nhiệm chức vụ cao cả của một vị Tăng Thống. Sự học tập của không phải chỉ về mặt trí dục và đức dục mà thôi, nó còn gồm cả những giai đoạn cao đẳng của pháp môn Yoga và sự thực hành môn thiền định. Chương trình giáo dục này được tiếp theo bằng một thời kỳ hoạt động nhập thế, hoàn toàn hiến dâng cuộc đời để phụng sự nhân loại. 

Thật là một điều kỳ lạ khi dòng tu này được tiếp tục truyền thừa trải qua nhiều thế kỷ, mà từ trước đến nay, không hề có một vị Tăng Thống nào làm trái với lý tưởng vị tha, giúp đời một cách tuyệt đối trong sạch, cao thượng nhất. 

Mani còn kể cho tôi nghe nhiều giai thoại về những quyền năng của Đại đứcShankara đời thứ 66 này. Trong những câu chuyện đó, có việc chữa bệnh cho một người bị bệnh tật đã lâu năm: Đại Đức Shankara chỉ đơn giản dùng tay xoa đầu bệnh nhân, trong khoảng không đầy ba giờ sau đó, bệnh nhân đã ngồi dậy được, và sau đó ít lâu nữa thì hoàn toàn hết bệnh. Người ta cũng nói rằng ngài đọc được cả những tư tưởng thầm kín của người khác. 

Chúng tôi đi vào thành phố Chingleput theo một con đường hai bên trồng dừa rợp bóng và cắt ngang qua một hệ thống chằng chịt những con đường nhỏ hẹp, giữa những ngôi nhà quét vôi trắng, nóc đỏ. 

Trung tâm thành phố náo nhiệt và đông người. Chúng tôi bước vào một ngôi nhà đang có một nhóm thư ký bận rộn mở và xếp những bức thư chất thành đống được chuyển đến cho Đại đức sau khi ngài xuất hành từ thị trấn Kumbakonam và đi tuần du khắp nơi. 

Tôi chờ đợi ngoài một hành lang cho đến khi Mani nhắn một người thư ký ra nói rằng Đại đức không thể tiếp khách người Âu. Hơn nữa, đã có hai trăm người xin được gặp ngài, trong số đó có nhiều người đã đến ngủ lại từ đêm trước để đảm bảo sẽ được ngài tiếp kiến. Người thư ký không ngừng xin lỗi. Tôi chấp nhận việc ấy một cách bình tĩnh nhưng Mani nhất định không chịu thua. Anh ta cho biết sẽ dựa vào tình quen biết cố cựu với Đại đức để xin cho tôi được vào yết kiến. 

Trong đám đông có rất nhiều người khác. Tuy thế, anh ta dùng sự khéo léo ngoại giao để lọt vào trước. Và một lúc sau, anh ta trở ra với một nụ cười đắc thắng: “Đại đức sẽ đặc cách ban một ngoại lệ cho anh và sẽ tiếp anh trong một giờ nữa.

Trong khi chờ đợi, tôi đi bách bộ dọc theo những con đường nhỏ rất ngoạn mục đưa đến một ngôi đền lớn. Tôi gặp vài người giúp việc đang dắt một đoàn voi xám và lạc đà đi uống nước. Có người chỉ cho tôi xem con voi tuyệt đẹp của Đại đứcShankara, vẫn thường đưa ngài đi tuần du khắp nơi. Ngài dùng nghi vệ tương xứng với bậc vua chúa. Cái ngai trên lưng voi thếp vàng sáng loáng, lót nệm gấm cũng thêu chỉ vàng rất lộng lẫy. Tôi nhìn theo con voi tiến bước một cách chậm chạp và oai vệ, dường như nó cũng ý thức được địa vị cao quý của chủ nó. 

Tôi nhớ lại rằng theo phong tục Ấn Độ, khi đến viếng thăm một nhân vật đạo đức chân tu, người ta thường mang theo hoa quả bánh trái làm lễ vật ra mắt. Tôi định đi mua quà biếu, nhưng ở quanh vùng chỉ tìm thấy có hai món là hoa và cam, tôi bèn mua luôn cả hai thứ đem về. 

Vì có quá đông người chen chúc nhau ngoài cửa ngõ, làm tôi bối rối quên cả một phong tục khác là cởi giày trước khi vào nhà. Mani mau mắn nhắc tôi. Tôi bèn cởi giày bỏ ngoài đường, hy vọng rằng đôi giày sẽ còn nguyên ở chỗ cũ khi tôi ra về. 

Chúng tôi đi qua dãy hành lang và bước vào một gian phòng lớn. Ở cuối phòng, trong một góc thiếu ánh sáng, tôi nhận thấy có một người đứng khuất trong bóng tối. Tôi bước đến gần, đặt mâm lễ vật một bên và cúi rạp mình làm lễ. Tôi nhận thấy cái nghi lễ giản dị này có một tính cách lịch sự mà tôi rất thích, ngoài ý nghĩa cần thiết cơ bản của nó là để bày tỏ lòng tôn kính. 

Tôi biết rằng Đại đức Shankara không phải là một vị Giáo hoàng, vì Ấn Độ không có một chức sắc tương tự như thế, nhưng ngài là một vị Giáo chủ và lãnh đạo tinh thần của một số tín đồ rất đông đảo. Toàn thể dân chúng Ấn Độ miền Nam đều kính cẩn nghiêng mình dưới sự bảo hộ của ngài. 

Tôi im lặng nhìn đức Tăng Thống. Ngài có tác người hơi thấp, khoác một bộ áo màu vàng sậm của vị tăng lữ xuất gia và chống gậy tu sĩ. Tôi được biết rằng ngài mới trên bốn mươi tuổi, nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy tóc ngài đã điểm bạc. 

Ngài có một tác phong cao quí, vẻ mặt khiêm tốn, dịu dàng, đôi mắt lớn đen huyền trông rất đẹp và có vẻ an tịnh khác thường. Mũi ngắn, thẳng và đều đặn, một bộ râu đen hơi ngắn phủ ở trên cằm, đôi môi khép chặt và nghiêm chỉnh. Gương mặt ngài hao hao giống như của một vị thánh Gia Tô thời Trung Cổ. 

Người Tây phương có thể cho rằng cặp mắt đen của ngài có vẻ quá mơ mộng, nhưng tôi cảm thấy, bằng một cách khó giải thích, rằng ở sau đôi mắt đó còn có một cái gì khác hơn là những giấc mơ. 

Tôi mở lời để bắt đầu câu chuyện: 

– Đại đức đã quá hạ cố khi tiếp tôi. Thật rất hân hạnh... 

Đại đức Shankara quay sang bạn tôi và nói ít lời bằng tiếng bản xứ, nhưng tôi có thể đoán được ý nghĩa. Bạn tôi thông dịch lại: 

– Đại đức hiểu được tiếng Anh, nhưng ngài không nói được, và muốn tôi dịch lại những câu trả lời của ngài. 

Tôi nói qua về những kinh nghiệm đầu tiên của tôi ở xứ này. Ngài muốn biết những cảm tưởng của một người ngoại quốc về đất nước và con người Ấn Độ. Câu chuyện kéo dài và tôi ngạc nhiên khi biết rằng Đức Tăng Thống thường xuyên đọc các báo chí của Anh quốc và tỏ ra rất am tường thời sự. Tôi chợt nhớ ra rằng Đại đức Shankara cũng nổi tiếng là một nhà tiên tri. Tôi bèn hỏi ý kiến ngài về tương lai của thế giới: 

– Xin Đại đức cho biết, trong tương lai gần đây thời cuộc thế giới có được khả quan hơn bây giờ hay không? 

– Tôi không thấy có sự thay đổi nào trong một ngày gần đây. Đó là một vấn đề thời gian. Làm sao có sự thay đổi tình hình khi mà các nước lớn đều đua nhau võ trang bằng các loại võ khí giết người ngày càng tối tân hơn? 

– Nhưng người ta cũng đang bàn cãi rất nhiều về vấn đề kiểm soát và cắt giảm vũ khí. Đại Đức nghĩ sao về vấn đề này? 

– Cho dù các anh có tháo gỡ hết những chiến hạm và phá bỏ được những cỗ đại bác thành sắt vụn, điều đó cũng không ngăn cản được chiến tranh. Người ta sẽ quay sang đánh nhau bằng gậy gộc nếu không còn súng đạn. 

– Vậy theo ngài thì phải thế nào? 

– Điều cần phải thay đổi chính là phần tinh thần bên trong mỗi con người. Chỉ có sự hòa hợp tinh thần giữa mọi con người và mọi giai cấp xã hội với nhau mới có thể tạo ra được sự tin tưởng lẫn nhau và tái lập hòa bình, tạo nền tảng cho sự thịnh vượng chung. 

– Theo khuynh hướng hiện nay thì điều đó chắc hẳn còn lâu lắm. Như vậy phải chăng hiện nay chúng ta có rất ít hy vọng? 

Đức Tăng Thống chống một tay lên gậy và nói: 

– Không, điều đó còn tùy thuộc vào đức tin của con người. Khi có đức tin, người ta có thể xoay chuyển được toàn bộ vấn đề theo hướng tốt đẹp hơn nhiều. 

Tôi bạo gan phản đối: 

– Đức tin ư? Nhưng đức tin là một yếu tố rất trừu tượng, trong khi những sức mạnh vật chất hiện nay hầu như đang chế ngự tất cả. Khi những nước lớn luôn dùng sức mạnh để áp chế các nước nhỏ, liệu họ có thể chống lại bằng đức tin hay chăng?

Đại đức giải thích với một giọng dịu dàng: 

– Không phải là vấn đề nước lớn và nước nhỏ, mà tất cả mọi con người khi sinh ra đều sẵn có trong lòng một tình thương, đối với nhân loại cũng như đối với muôn loài. Chính nhờ có tình thương căn bản này mà chắc chắn rồi có lúc họ sẽ sinh khởi được đức tin vào đời sống tinh thần và những sức mạnh tâm linh, thay vì mãi mê chạy theo vật chất.

Tôi không cưỡng lại được một sự mỉa mai cay đắng dâng lên trong lòng tôi khi nghe những lời đầy tự tin và quả quyết này, đến nỗi tôi phải thốt lên: 

– Cứ xét theo cách mà nhân loại đang đối xử với nhau hiện nay thì một tình thương sẵn có nơi tất cả mọi con người như ngài nói hẳn phải là rất khó nhận ra. Thú thật, tôi không thể không hoài nghi về tính xác thực của điều đó!

Đức Tăng Thống nhìn tôi một cách lạ lùng. Ngay tức khắc, tôi liền thấy hối tiếc về những nhận xét hấp tấp của mình. Tuy nhiên, ngài vẫn tiếp lời một cách điềm đạm: 

– Chỉ cần kiên nhẫn và mở rộng lòng hơn một chút, anh sẽ có được một cái nhìn khác hơn. Ngay cả khi con người đang giành giật đấu đá nhau một cách tàn bạo nhất thì hạt giống tình thương trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn không hề mất đi. Những sự tranh chấp náo loạn giữa các quốc gia, sự đồi trụy tinh thần của đa số, và sự lầm than đau khổ của hàng triệu người đều không phải là những việc vô cớ xảy ra hoặc do một đấng tối cao nào sắp đặt. Con người phải chịu trách nhiệm về chính việc làm của mình. Điều này đúng một cách chắc chắn cũng như phương Tây các ông tin tưởng vào các định luật vật lý vậy. Vì thế, chính trong sự đau khổ cùng cực mà con người sẽ sớm nhận ra những lỗi lầm của mình. Bằng cách đối diện với khổ đau, con người sẽ nhận ra được rằng chỉ có một con đường duy nhất để thoát khổ là quay về với sự hoàn thiện đời sống đạo đức và tinh thần. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy từ cách đây gần hai mươi lăm thế kỷ.

– Như vậy, Đại đức tin rằng sẽ có một trào lưu tư tưởng mới sớm xuất hiện trong tương lai gần đây chăng? 

Ngài chỉnh lại câu nói của tôi: 

– Không chắc lắm trong tương lai gần đây, nhưng chắc chắn điều đó sẽ xảy ra khi các điều kiện nhân duyên đã có đủ. Lẽ tất nhiên phải là như vậy. Tôi thừa nhận là việc xoa dịu những khổ đau của nhân loại hiện nay đã trở nên vô cùng cấp bách, nhưng bức màn vô minh ám muội của người đời nay lại quá dày đặc, đến nỗi họ tự mình đắm chìm vào khổ đau chẳng khác nào con thiêu thân lao vào ánh đèn. Vì thế, điều cần thiết là phải có những bậc thầy sáng suốt, những vị hướng dẫn tâm linh xuất hiện. Điều này có thể xảy ra vào khoảng nửa sau của thế kỷ này hoặc muộn lắm cũng là đầu thế kỷ tới.

Tôi hỏi tiếp: 

– Phải chăng Đại đức cho rằng con người hiện nay đang càng ngày càng trở nên sa đọa hơn trước? 

Ngài đáp một cách khoan dung. 

– Không, tôi không nghĩ như thế. Như đã nói, tình thương là hạt giống sẵn có trong mọi con người, cuối cùng rồi cũng sẽ làm cho họ thức tỉnh và quay về với sự hoàn thiện chính mình. 

Nghĩ đến những tay bịp bợm, lừa đảo một cách khoa học và quy mô của thời đại này, tôi buột miệng nói ra một cách chua chát: 

– Nhưng ở những thành phố Tây phương của chúng tôi đầy dẫy những kẻ bất lương, hành động chẳng khác nào như có quỷ vương ngự trong lòng họ. Tôi rất ngờ rằng hạt giống tình thương mà ngài nói đó có tồn tại được chăng nơi những con người ấy.

– Chúng ta không nên nhìn vấn đề một cách phiến diện và chê trách những người như thế, mà hãy phân tích và tìm hiểu về những hoàn cảnh xã hội đã tạo ra họ. Khi đó, chúng ta mới có thể phán đoán vấn đề một cách khách quan và chính xác hơn. Ông không thấy rằng chính hoàn cảnh xã hội luôn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đẩy người ta vào con đường tội lỗi hay sao? Dầu ở Đông phương hay Tây phương cũng vậy, môi trường xã hội cần phải tạo ra được những điều kiện tối thiểu cho sự tu tập hoàn thiện của con người. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận sự nỗ lực vươn lên của mỗi cá nhân và đổ lỗi hoàn toàn cho hoàn cảnh xã hội. Hoàn cảnh xã hội cũng là do con người tạo ra. Đó là lý do tôi nhắc đến vai trò của những bậc thầy tâm linh, những nhà lãnh đạo tinh thần mang tầm vóc của thế giới. Chính họ sẽ là những người tiên phong trong việc thay đổi môi trường tâm linh trong toàn xã hội để tạo điều kiện cho sự giải phóng của mỗi cá nhân ra khỏi sự mê mờ, tham lam và sân hận. Sự đam mê vật chất phải được thay thế bằng những hoài bão tinh thần cao cả và lý tưởng tâm linh. Không có phương thuốc mầu nhiệm nào để chữa trị căn bệnh của nhân loại hiện nay ngoài việc quay về với đời sống tâm linh. Những sự khó khăn và đau khổ của các quốc gia trên thế giới hiện nay là những cơn hấp hối sẽ thúc giục đưa đến sự thay đổi nói trên, bởi vì những lời thuyết giảng chân lý sẽ chẳng bao giờ được tiếp nhận khi người ta chưa biết gì về đau khổ. 
– Phải chăng Đại đức muốn cho mọi người đều áp dụng những lý tưởng tâm linh, những nguyên lý đạo đức và hoàn thiện tinh thần vào công việc xử thế hằng ngày của họ? 

– Đúng vậy, và đó là con đường duy nhất để giảm nhẹ khổ đau cho mỗi người cũng như cho toàn nhân loại. Điều đó cũng không phải khó làm, chỉ cần người ta nhận hiểu được và có được sự tin tưởng vào chính mình cũng như người khác. Và điều đó nhất thiết phải được thực hiện, bởi vì đó là phương tiện duy nhất để đem lại những kết quả lâu bền, mà cứu cánh là sẽ làm thỏa mãn tất cả mọi người. Rõ ràng hiện nay chúng ta còn thiếu những bậc thầy tâm linh có đủ trí tuệ và năng lực để truyền bá ánh sáng chân lý trên khắp thế giới. Nhưng tôi tin rằng trong thời gian tới rồi sẽ có những bậc thầy như thế xuất hiện. Nếu cả thế giới đều nhận thức được và làm theo lời dạy của những bậc thầy tâm linh sáng suốt này thì chắc chắn nhân loại sẽ sớm được sống trong hòa bình và thịnh vượng. 

Câu chuyện kéo dài, tôi nhận thấy Đại đức Shankara không đưa ra những sự chê bai chỉ trích phương Tây hoặc đề cao phương Đông như nhiều bậc thầy Ấn Độ khác. Ngài nhìn nhận rằng mỗi nền văn hóa đều có những ưu điểm và khuyết điểm. Ngài quan niệm rằng một thế hệ khôn ngoan cần phải biết hòa hợp những ưu điểm của cả hai nền văn minh Đông Tây để hình thành một cơ cấu xã hội mới quân bình, tốt đẹp và cao thượng hơn, dựa trên những tiêu chí đạo đức và tinh thần hơn là những giá trị vật chất. 

Tôi chuyển sang một vấn đề khác và xin phép hỏi Ngài một vài câu có tính cách cá nhân. Ngài bằng lòng ngay không chút do dự. 

– Đại đức giữ chức vụ này đã được bao lâu? 

– Từ năm 1907. Hồi đó, tôi chỉ mới mười hai tuổi. Bốn năm sau khi tôi được chỉ định, tôi lui về sống ở một làng nhỏ trên bờ sông Cauvery để học tập và tham thiền, quán tưởng trong ba năm. Sau đó, tôi mới bắt đầu làm những việc công ích. 

– Hình như Đại đức ít khi sống thường xuyên tại Tổng hành dinh ởKumbakonam

– Lý do là vào năm 1918 tôi được Quốc vương xứ Népal mời đến làm thượng khách của ngài trong một thời gian. Tôi đã nhận lời và từ đó tôi đi dần lên miền Bắc để đến Népal. Nhưng trong những năm đó, tôi không đi xa hơn được vài trăm dặm đường, vì truyền thống của chức vụ này buộc tôi phải dừng lại ở mỗi làng mạc và thành phố trên lộ trình, hoặc ở những thị trấn gần đó nếu có lời mời. Tôi phải thuyết pháp ở tại đền chùa của mỗi địa phương và giảng dụ cho dân chúng quanh vùng. 

Khi ấy, tôi mới đề cập đến vấn đề tôi đang đi tìm đạo và đức Tăng Thống hỏi tôi về những người đạo sĩ mà tôi đã gặp. Tôi không dấu giếm gì cả. Tôi nói rằng tôi muốn gặp một người đạo pháp cao thâm để có thể cho tôi thấy một vài bằng chứng về đời sống tâm linh. Nhiều tu sĩ mà tôi đã gặp khi được yêu cầu chứng minh cụ thể những điều đã nói thì không làm gì được khác hơn là tuôn ra hàng loạt những lý thuyết lưu loát như nước chảy. Hay là tôi đã đòi hỏi một điều quá đáng chăng? 

Đức Tăng Thống vuốt chòm râu ngắn của ngài và nói: 


– Nếu anh muốn nhập môn khoa yoga thì đòi hỏi như vậy không có gì là quá đáng. Tấm lòng chân thành sẽ giúp anh đạt được kết quả mong muốn, vì tôi cảm thấy anh có một ý chí rất mạnh. Nhưng nếu anh chỉ muốn tìm hiểu để thỏa mãn sự tò mò, hiếu kỳ, thì chắc chắn anh sẽ không bao giờ gặp được những điều anh muốn gặp. Ánh sáng của đức tin khi bắt đầu chớm nở nơi anh và sẽ dìu dắt anh thẳng đến mục đích. 

– Tôi phải làm gì bây giờ để có được đức tin? 

Đức Tăng Thống nhoẻn miệng cười và đáp: 

– Hãy tiếp tục công việc tìm kiếm của anh. Hãy nhớ đến những đạo sĩ yogi chân chính mà anh đã gặp. Hãy chọn lựa và đặt niềm tin nơi người nào mà anh thấy thích hợp nhất, rồi người đó chắc chắn sẽ dìu dắt anh bước vào cửa đạo. 

– Nhưng, bạch Đại Đức, nếu tôi không thấy thích hợp với một người nào cả thì tôi biết phải làm sao. 

– Nếu như thế, anh hãy tự mình tu tập cho đến khi nhận thức được ý nghĩa chân thật của đời sống. Anh hãy thực tập pháp tham thiền một cách đều đặn, quán tưởng những điều thanh cao và nuôi dưỡng lòng từ bi. Chính sự tu tập sẽ giúp anh có được một trí tuệ sáng suốt hơn và tạo điều kiện cho anh có nhiều khả năng gặp gỡ được một bậc minh sư. Nên biết rằng, ngay cả khi được sống kề bên một bậc thầy vĩ đại thì những người ngu muội vẫn không có khả năng nhận biết đươc điều đó. Thời gian tốt nhất dành cho việc tham thiền là buổi sáng sớm khi mặt trời còn chưa lố dạng. Tuy nhiên, nếu anh thực tập thường xuyên thì có thể dành thêm một thời khóa vào buổi tối ngay trước khi đi ngủ. Vào những giờ đó, cảnh vật thiên nhiên đều đắm chìm trong yên lặng, giúp cho sự tham thiền được dễ dàng hơn. 

Những lời dạy chân thành và sáng suốt của ngài làm cho tôi cảm động. Tôi bỗng dưng ước ao có được sự an tịnh hoàn toàn như trên gương mặt ngài. Có lẽ ngài không bao giờ biết đến những sự thắc mắc, băn khoăn giống như những thứ đang giày vò tâm trí tôi. Tuân theo một sự thúc giục bên trong còn mạnh hơn cả ý chí, tôi buột miệng hỏi ngài: 

– Nếu tôi không tìm được một bậc minh sư thích hợp, ngài có thể thâu nhận tôi làm đệ tử được chăng? 

Đức Shankara lắc đầu một cách nhẹ nhàng: 

– Tôi đứng đầu một cơ quan tinh thần và chịu trách nhiệm chung đối với quá nhiều người, thời giờ không còn là của riêng tôi mà là của chung cho mọi người. Từ nhiều năm nay tôi chỉ ngủ có ba tiếng đồng hồ mỗi đêm. Làm sao có thể thâu nhận đệ tử trong những điều kiện đó? Anh hãy tìm một vị đạo sư có thể dành nhiều thì giờ cho việc dẫn dắt anh. Tôi biết rằng những vị chân sư là rất hiếm có, và một người Âu ít khi có đủ may mắn để gặp được. Nhưng nếu anh thật sự cố công tìm, ắt có ngày anh sẽ gặp. 

– Đại đức có thể chỉ dẫn hoặc giới thiệu cho tôi một vài tên tuổi được chăng? 

– Cũng được, nếu anh muốn. Tôi biết có hai vị chân sư mà tôi nghĩ là có thể làm cho anh được như ý nguyện. Một vị hiện đang sống ẩn dật tại Bénarès, nhưng ít người có may mắn được ông ta tiếp kiến, đừng nói chi đến một người Âu như anh lại càng khó hơn. Tôi có thể giới thiệu anh, nhưng tôi e rằng ông ta sẽ từ chối. 

– Còn vị thứ hai? 

– Vị này ở tận dưới miền Nam, đi sâu vào nội địa. Tôi chỉ gặp ông ta có một lần, nhưng tôi biết ngay đó là một bậc chân sư. Ông ta sống tại Arunachala, trên ngọn đồi thiêng, trong địa phận tỉnh Arcot. Người ta thường gọi ngài là đức Maharichi. Anh muốn biết thêm gì nữa không? 

Những lời nói đó như đem đến cho tôi một tia sáng. Tôi chợt nhớ lại người khất sĩ áo vàng đã khẩn khoản mời tôi đến viếng thầy ông ta. Tôi không nghe lầm, chính ông ta cũng đã nói đến ngọn đồi thiêng! 

– Cám ơn Đại đức. Hiện có một người đã hứa sẽ dẫn đường cho tôi đến đạo viện của đức Maharichi

– Thế sao? Vậy anh có đi chăng? 

– Tôi vẫn còn đang do dự. Tôi đã sắp đặt tất cả mọi việc để đi lên miền Bắc. 

– Nếu vậy, tôi có một lời yêu cầu anh. Hãy hứa với tôi là sẽ không rời khỏi Ấn Độ trước khi gặp đức Maharichi

Cặp mắt Ngài biểu lộ sự chân thành rõ rệt, làm cho tôi phải hứa ngay không do dự. Một nụ cười đầy hảo ý hiện trên gương mặt Ngài: 

– Như vậy anh đừng băn khoăn gì nữa. Điều mà anh đi tìm, nay đã gặp rồi đó. 

Lúc ấy, tôi nghe phía ngoài có tiếng ồn ào của đám đông người đã chờ đợi quá lâu. Tôi bèn kiếu từ: 

– Tôi e rằng đã quá lạm dụng thời giờ của Đại đức. Xin kính chào Ngài. 

Nhưng đức Tăng Thống rất vui vẻ. Ngài tiễn tôi đến tận hành lang và quay lại nói nhỏ điều gì bên tai người bạn tôi. Tôi chợt nghe thoảng có tên tôi trong đó. Ra đến cửa, tôi còn quay lại chào Ngài một lần cuối. Đức Tăng Thống dặn với tôi một câu: 

– Anh hãy luôn nhớ đến tôi, và tôi cũng sẽ không quên anh. 

Với những lời chứa chan tình cảm đó, tôi từ giã ngài mà lòng đầy lưu luyến với một người đã hiến dâng trọn cuộc đời cho đạo pháp, một người không màng đến danh vọng quyền thế và đã từ bỏ mọi lạc thú trần gian để phụng sự nhân loại. Những gì người ta dâng cúng cho ngài, ngài đều mang ra bố thí tất cả. Hình ảnh một bậc hiền giả như thế chắc chắn sẽ không bao giờ phai mờ trong ký ức của tôi. 

Tôi còn lưu lại dạo chơi suốt ngày hôm đó trong thành phố Chingleput, vì vẻ cổ kính đã làm cho tôi ưa thích, và còn chiêm ngưỡng đức Tăng Thống một lần cuối cùng trước khi trở về nơi ở. 

Tôi gặp lại ngài trong ngôi đền lớn, lúc ngài đang thuyết pháp trước một cử tọa đông đảo gồm đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi. Giọng nói của ngài vang rền giữa một sự im lặng hoàn toàn, mặc dầu tôi không hiểu được ý nghĩa ngôn ngữ, nhưng tôi thấy rằng tất cả mọi người đều hết lòng chăm chú lắng nghe, từ các nhà bác học Bà-la-môn đến những người nông phu thất học. Tôi được biết rằng trong những buổi thuyết pháp dành cho công chúng, ngài luôn trình bày những chân lý sâu xa bằng những lời nói rất giản dị, và chính điều này đã khiến cho ngài trở nên gần gũi và thân thiết với hầu như tất cả mọi tín đồ.

Mặc dầu tôi vô cùng kính phục tâm hồn cao quí của ngài, nhưng tôi lại đâm ra thèm muốn cái đức tin đơn giản của những người ngồi nghe ngài thuyết pháp. Họ không hề biết đến những nỗi giày vò thắc mắc của sự hoài nghi! Họ tin và đặt niềm tin, chỉ có thế thôi! Họ không hề biết đến sự thất vọng não nề cay đắng của một người khi nhìn thấy thế gian như một bãi chiến trường mà không tìm đâu ra những tâm hồn chân thật, cao quý. Dưới sự phân tích khô khan của lý trí, Thượng đế chỉ là một điều không tưởng hư vô, và đời người chỉ là một màn kịch ngẫu nhiên thoáng qua trong vũ trụ mênh mông, không tìm thấy mục đích! 

Chúng tôi từ giã Chingleput dưới một vòm trời xanh biếc. Một cơn gió mát đưa những ngọn lá dừa dọc hai bên đường lộ, nghe xào xạc trên đỉnh đầu chúng tôi. Người bạn tôi phá tan cái im lặng đó trước nhất. Anh ta có vẻ rất hài lòng và nói: 

– Anh có thể tự hào là tốt số! Đây là lần đầu tiên mà đức Tăng Thống tiếp kiến một văn sĩ người Âu. 

– Thật vậy sao? 

– Không những thế, từ nay ân huệ của ngài sẽ theo anh mãi mãi. 

Khi tôi về đến nhà, đã gần nửa đêm. Lúc ấy, sao mọc đầy trời, một cảnh tượng mà tôi chưa hề thấy ở trời Âu. 

Khi tôi vừa bước lên hàng ba trước cửa nhà thì một người từ trong bóng tối hiện ra. Tôi nhìn người ấy và ngạc nhiên hỏi: 

– Subramanya, anh làm gì ở đây? 

Người khất sĩ áo vàng lại nhăn mặt cười – một cái cười đặc biệt mà từ nay tôi đã thấy quen mắt. 

– Phải chăng tôi đã hứa sẽ đến nhà ông vào chiều nay? 

Trong câu hỏi của anh ta có đượm một vẻ trách móc vì tôi đã không lưu tâm đến điều đó. Tôi liền dịu giọng: 

– Thầy anh là đức Maharichi đức Maharichi, phải không? 

– Sao ông biết, ai nói với ông như vậy? 

– Điều đó anh không cần biết. Nhưng tôi đã đổi ý. Chúng ta sẽ lên đường vào sáng mai. 

– A! Đó là một tin rất vui cho tôi. 

– Nhưng tôi chỉ có thể đến viếng thăm đạo viện trong vài ngày thôi, không thể ở lâu... 

Đêm đó, người khất sĩ nghỉ tại nhà tôi để chờ hôm sau cùng lên đường. Cũng trong đêm ấy, một chuyện lạ đã xảy ra. 

Sau khi đã ngủ mê được một lúc, tôi thình lình tỉnh giấc; đồng hồ dạ quang chỉ đúng ba giờ kém mười lăm phút sáng. Chung quanh trời tối đen như mực. Tôi chợt cảm thấy thần kinh căng thẳng đến tột độ, dường như có một luồng điện trong bầu không khí quanh tôi. Chính trong lúc đó, cặp mắt hé mở, tôi nhìn thấy có một vệt sáng ở dưới chân giường. Tôi giật mình ngồi nhổm dậy để xem cho rõ. Trước hết tôi nhìn thấy cặp mắt của Đức Tăng Thống Shankara, rồi dần dần gương mặt và toàn thân ngài hiện ra, đó không phải là một ảo ảnh, vì tôi đã hoàn toàn thức giấc. Tôi nhìn thấy ngài, không phải như một cái bóng ẩn hiện chập chờn, mà là một người thật như bằng xương bằng thịt! 

Gương mặt ngài hiện ra trong một vòng hào quang huyền bí như mờ như tỏ. Chính cái hào quang đó tạo ra nơi tôi cảm giác về một vật sáng ở dưới chân giường lúc nãy. 

Thật là kỳ lạ! Không thể như vậy được! Vì tôi vừa từ giã đức Tăng Thống ở tỉnhChingleput hồi sớm mai này! Tôi thử nhắm mắt lại. Hình ảnh đức Shri Shankaravẫn còn đó, rõ ràng như khi nãy! Ngài hiện ra như một người bạn lành và che chở. Tôi lại mở mắt ra thì thấy gương mặt ngài hình như cử động, đôi môi mỉm cười và mấp máy như nói với tôi rằng: “Anh hãy khiêm tốn, rồi anh sẽ gặp!” 

Những lời này tuy không vang lên thành âm thanh nhưng lại hiện rõ trong đầu tôi không khác nào như khi tôi ngồi đối diện và được nghe ngài nói chuyện, nhưng tôi chắc chắn đó không phải là một ảo ảnh, mà quả thật là người đang ở đó và nói chuyện với tôi. 

Kế đó, hình ảnh lại biến mất đi một cách bí mật cũng như khi nó hiện ra. Nhưng sự kiện ấy để lại cho tôi một niềm an vui hạnh phúc mà không gì có thể làm mất đi được. Tôi tự hỏi, hình ảnh đó hiện ra với ý nghĩa gì? Nhưng tôi không tự tìm thấy câu trả lời. Nhưng điều đó dường như không gây thắc mắc cho tôi, mà tôi chỉ cảm nhận nhiều nhất là niềm vui mà việc ấy mang lại. 

Tôi thức luôn từ lúc đó tới sáng và hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ với đức Tăng ThốngShri Shankara ở tỉnh Kumbakonam. Đạo hạnh và trí tuệ của ngài như vẫn còn soi sáng trong tâm thức đầy mê mờ của tôi, và thắp lên trong đó một tia sáng của niềm hy vọng về một ngày mai tươi sáng trên con đường tầm đạo.
---o0o---



tải về 1.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương