Đông Phương Huyền Bí


CHƯƠNG 02 : MỘT NHÀ PHÙ THỦY XỨ AI CẬP



tải về 1.6 Mb.
trang2/7
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích1.6 Mb.
#33750
1   2   3   4   5   6   7
CHƯƠNG 02 : MỘT NHÀ PHÙ THỦY XỨ AI CẬP
Thật là một chuyện lạ lùng và có ẩn giấu một ý nghĩa gì đây chăng? Tôi chưa kịp thử thời vận thì tự nhiên dịp may ở đâu đã tự nó lù lù xuất hiện. Tôi cũng chưa kịp sử dụng thời giờ nhàn rỗi của một người du khách để đi ngoạn cảnh và viếng xem thành phố Bombay. Những hoạt động của tôi trong hiện tại chỉ là đang cố làm quen với cảnh vật chung quanh ở khách sạnMajestic mà tôi được biết do sự giới thiệu của một người mới quen trên tàu. Và chính nhờ đó mà tôi vừa khám phá được một chuyện lạ. 

Trong số những người khách cùng ở trọ có một vị pháp sư phép thuật cao cường, có lẽ không thua kém so với những nhà phù thủy thời Trung cổ. Tôi nghe nói là ông ta tiếp xúc hằng ngày với những vong linh mà người thường không thể nhìn thấy, nhưng ông ta nhìn thấy rõ. Ít nhất thì đó cũng là những lời thiên hạ đồn đại về ông ta. Nhân viên khách sạn rất kiêng nể ông ta, và thường chỉ nhắc đến ông ta bằng một giọng thì thầm sợ hãi. Nơi nào ông ta đi ngang qua thì dường như mọi câu chuyện đều ngưng bặt, và mọi người đều nhìn trộm ông ta với một sự tò mò kín đáo và không ai dám nhìn ngay mặt. 

Về phần mình, ông ta dường như rất ít khi ra mặt nói chuyện hoặc tiếp xúc với ai và chỉ dùng cơm một mình trong phòng riêng. Điều làm cho người ta càng tò mò hơn nữa là ông ta không phải người Ấn Độ hay người Âu, mà là một người đến từ ven bờ sông Nile, một nhà phù thủy xứ Ai Cập! 

Hình dáng bề ngoài không có vẻ gì cho thấy là ông ta có những quyền năng bí mật lạ lùng. Mới nghe qua những lời đồn đại, người ta có thể tưởng tượng đó là một người có vẻ mặt rùng rợn, khắc khổ; nhưng trái lại, ông ta có một gương mặt tròn trĩnh, tươi tắn và hồng hào, với một khổ người đầy đặn phương phi, vai rộng và dáng đi nhanh nhẹn của một người năng động. Người ta cũng có thể tưởng tượng là ông ta luôn mặc áo choàng rộng trắng, đầu quấn khăn như mọi người thuật sĩ phương Đông, nhưng ngược lại, ông ta mặc một bộ Âu phục được may rất khéo, hợp thời trang, và có vẻ ngoài giống như một người Pháp thượng lưu lịch lãm mà người ta thường gặp ở những nhà hàng lớn tại Paris

Tôi ngẫm nghĩ về vấn đề này suốt cả ngày hôm đó. Sáng hôm sau, tôi thức dậy với một quyết định rõ rệt. Tôi phải phỏng vấn nhà phù thủy Mahmoud Bey – ấy là nói theo danh từ báo giới mà các bạn đồng nghiệp của tôi vẫn thường dùng. Tôi liền viết vài hàng chữ lên tấm danh thiếp để bày tỏ ý muốn của tôi. Trên góc phải tấm danh thiếp, tôi vẽ một biểu tượng nhỏ có ngụ ý cho thấy rằng tôi không xa lạ với khoa pháp môn phù thủy, và tôi hy vọng điều này có thể giúp tôi được ông ta nhận lời tiếp kiến. 
Tôi trao tấm danh thiếp cho một người phục vụ của khách sạn và không quên kèm theo một rupee tiền thưởng để nhờ anh ta mang vào phòng của nhà phù thủy. Năm phút sau, ngườiphục vụ trở lại với câu trả lời: 

– Thưa ông, ông Mahmoud Bey sẵn lòng tiếp ông ngay bây giờ. Ông ấy sắp dùng điểm tâm và mời ông cùng vào. 

Vừa bước vào phòng, tôi nhìn thấy ông ta mặc một bộ áo choàng rộng màu xám. Ông ta mở đầu câu chuyện bằng một nụ cười vui vẻ và mời tôi: 

– Ông dùng điểm tâm với tôi nhé? 

Tôi cám ơn và ngồi xuống. Giữa hai ngụm trà nóng, tôi thuật lại cho ông ta nghe những lời đồn đại rùng rợn mà người ta lan truyền cho nhau về ông ta ở khách sạn này, và nói rằng điều đó đã làm cho tôi đã do dự rất lâu trước khi có đủ sự bạo gan để xin được nói chuyện với ông ta. 

Nghe xong, ông ta bèn phá lên cười một cách giòn giã và thật tình, rồi đưa một tay lên ra dấu như muốn nói rằng ông ta cũng không thể làm gì được với những lời đồn đại ấy. Sau một phút im lặng, ông ta hỏi tôi: 

– Ông là phóng viên cho một tờ báo? 

Tôi đáp: 

– Không, tôi đến Ấn Độ vì mục đích riêng, để khảo cứu một vài khía cạnh về đời sống tâm linh của xứ này và thu thập tài liệu để viết một quyển sách về vấn đề ấy.

–Thế ông sẽ ở lại đây bao lâu? 

– Điều đó còn tùy. Tôi chưa xác định được là sẽ ở đây bao lâu. 

Tôi đáp lời với cái cảm giác lạ lùng rằng người đi phỏng vấn lại đang bị kẻ khác phỏng vấn ngược lại mình! Nhưng câu nói kế đó của ông ta làm tôi yên tâm: 

– Tôi thì đến đây trong một cuộc viếng thăm dài hạn. Tôi sẽ ở Ấn Độ một năm hoặc hai năm. Sau đó tôi sẽ đi sang Viễn Đông, và đi vòng quanh thế giới trước khi trở về Ai Cập, nếu Allah cho phép. 

Chúng tôi đã ăn xong. Người phục vụ bước vào và dọn bàn. Không để lỡ dịp, tôi đi ngay vào đề: 

– Tôi nghe người ta nói rằng ông có thể thực hiện nhiều phép lạ, có quả thật vậy không? 

Vị pháp sư đáp thản nhiên một cách hết sức tự tin: 

– Vâng! Nhờ trời nên tôi đã có được đôi chút năng lực mà người ta thường gọi là phép lạ. 

Im lặng một lúc, rồi ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi và nói tiếp: 

– Có lẽ ông muốn tôi chứng tỏ vài điều để ông xem tận mắt? 

Ông ta dường như đã đọc rõ ý muốn của tôi. Tôi gật đầu bằng lòng ngay. Ông ta liền bảo tôi lấy ra một mảnh giấy và cây bút chì – những thứ mà lúc nào tôi cũng mang theo bên mình – và nói: 

– Ông hãy tự tay viết lên tờ giấy này một câu hỏi, bất cứ về chuyện gì. 

Nói xong, ông ta đứng dậy và bước đến ngồi nơi một chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ, quay lưng về phía tôi và nhìn ra đường. Như thế, chúng tôi ngồi cách nhau một khoảng độ vài thước. 

Tôi viết trên mảnh giấy câu hỏi như sau: “Cách đây bốn năm, tôi ở đâu?” 

Khi tôi viết xong, nhà phù thủy bảo tôi: 

– Bây giờ ông hãy gấp mảnh giấy lại nhiều lần, càng nhỏ càng tốt. 

Tôi làm y theo lời. Sau đó, ông ta bước lại gần tôi và nói: 

– Bây giờ ông hãy nắm chặt mảnh giấy và cây viết chì trong lòng bàn tay mặt. 

Tôi lại nghe theo lời. Nhà phù thủy bèn nhắm mắt trong một lúc, có vẻ như đắm chìm trong một cơn thiền định. Rồi bỗng nhiên hai mí mắt ông ta giương lên, cặp mắt xám đục của ông ta nhìn ngay vào mắt tôi, ông ta chậm rãi nói: 

– Câu hỏi phải chăng là như thế này: “Cách đây bốn năm, tôi ở đâu?” 

Tôi ngạc nhiên đáp: 

– Đúng vậy! Nếu đây là việc đọc được tư tưởng của người khác thì quả thật là một việc phi thường! 

Nhà phù thủy vẫn thản nhiên nói tiếp:

– Ông hãy mở tờ giấy ra. 

Tôi làm theo lời và càng ngạc nhiên hơn nữa. Một bàn tay vô hình đã viết bằng bút chì lên mảnh giấy – mà từ nãy đến giờ tôi luôn nắm chặt trong lòng bàn tay – cái tên Oxford, tức là thành phố mà tôi đã ở cách đây bốn năm, ngay phía dưới câu hỏi do tôi viết. 

Nhà phù thủy Mahmoud Bey cười một cách hài lòng, và hỏi: 

– Câu trả lời như thế có đúng không? 

Tôi lặng thinh vì ngạc nhiên. Việc này ngoài sức tưởng tượng của tôi, khiến cho tôi phải yêu cầu ông ta thực hiện lại một lần nữa. Ông ta bằng lòng và trở lại phía cửa sổ, trong khi tôi viết lên mảnh giấy câu hỏi thứ nhì. Với khoảng trống ngăn cách chúng tôi, tôi không thể nghi ngờ rằng ông ta đọc được những chữ tôi viết, nhưng tôi vẫn vừa viết vừa nhìn ông ta không chớp mắt để đảm bảo ông ta không liếc nhìn về phía tôi, và tôi thấy quả thật ông ta chỉ chăm chú nhìn xe cộ qua lại ngoài đường. 

Viết xong, tôi gấp nhỏ mảnh giấy lại và nắm chặt nó cùng với cây viết chì trong lòng bàn tay mặt. Lúc đó, nhà phù thủy mới trở lại bàn, ngồi xuống và nhắm mắt định thần. Sau một lúc, ông ta nói với tôi: 

– Câu hỏi thứ nhì là: “Tôi làm chủ bút tờ báo nào cách đây hai năm?” 

Lần này, ông ta cũng nói đúng như lần trước! Một lần nữa, tôi mở mảnh giấy ra trên bàn và nhìn thấy có nét bút chì viết rõ ràng tên tờ báo của tôi cách đây hai năm! 

Điều này phải khác hơn là việc chỉ đơn thuần đọc hiểu tư tưởng người khác. Là thôi miên chăng? Không phải vậy, vì tôi hoàn toàn tỉnh táo. Chính tôi đã lấy giấy và bút chì từ trong túi của tôi ra, và cũng chính tôi chọn những câu hỏi và viết lên giấy trong khi Mahmoud Bey đứng cách xa tôi vài thước. Trong phòng chỉ có hai người chúng tôi, và mọi việc xảy ra hoàn toàn giữa lúc thanh niên bạch nhật. 

Tôi không thể hiểu được gì cả! Tôi bèn yêu cầu người phù thủy thực hiện lại một lần thứ ba. Lần này ông ta cũng bằng lòng và cũng thành công như trước. Sự việc diễn ra trước mắt tôi một cách hiển nhiên không thể phủ nhận được. Ít nhất thì ông ta đã hoàn toàn đọc được tư tưởng của tôi, và tôi không tìm ra sự giải thích nào khác hơn. Ngoài ra, bằng một phép thuật nào đó, ông ta đã viết lên mảnh giấy mà tôi nắm chặt trong lòng bàn tay những câu trả lời đúng cho các câu hỏi của tôi. Càng ngẫm nghĩ, tôi càng phải thừa nhận sự hiện diện của những sức mạnh vô hình, huyền bí. Đối với một người bình thường, việc này thật là không thể tưởng tượng và thách thức lý trí con người. Sau cùng, tôi đành chịu không sao hiểu nổi. 

Nhà phù thủy lúc đó mới hỏi tôi: 

– Ông biết có người nào bên Anh quốc có thể làm được như vậy không? 

Tôi nhìn nhận là không có và hỏi lại: 

– Ông có vui lòng giải thích những pháp thuật của ông cho tôi nghe được chăng? 

Tuy hỏi vậy nhưng tôi tự hiểu rằng điều đó chẳng khác nào muốn ôm lấy mặt trăng. Nhà phù thủy trả lời: 

– Có người đã đề nghị trả cho tôi những số tiền khổng lồ nếu tôi chịu nói ra những sự bí mật của tôi, nhưng hiện giờ tôi chưa có ý định làm như vậy. 

Tôi gắng gượng vớt vát: 

– Ông cũng biết rằng tôi không phải hoàn toàn dốt nát về những vấn đề thần bí siêu hình? 

– Dĩ nhiên rồi. Nếu tôi có dịp sang châu Âu, có lẽ ông sẽ giúp tôi được nhiều việc. Chừng đó tôi hứa sẽ chỉ cho ông biết những phương pháp của tôi, để ông có thể làm được như tôi nếu ông muốn. 

– Phương pháp đó phải học trong bao lâu? 

– Điều đó còn tùy nơi từng người. Nếu ông chuyên cần tập luyện và để hết thời giờ vào đó, thì ba tháng cũng đủ để hiểu biết về phần lý thuyết. Nhưng sau đó, ông còn cần phải thực hành trong nhiều năm. 

Tôi mừng rỡ nắm ngay lấy cơ hội dễ dãi này:

– Ông có thể cho biết những nguyên tắc đại cương của phép thuật này, về phần lý thuyết thôi, không cần giải thích những bí mật của ông. Như vậy có được chăng? 

Mahmpud Bey ngẫm nghĩ trong một lúc về đề nghị của tôi và trả lời: 

– Được tôi sẵn lòng làm như vậy đối với ông. 

Tôi liền móc túi lấy ngay cuốn sổ ghi chép tốc ký với cây bút chì và sẵn sàng ghi chép. Nhưng ông ta đã mỉm cười và nói: 

– Không, sáng nay tôi bận. Xin ông thứ lỗi cho và mời ông hãy đến vào sáng mai, lúc mười một giờ. Khi ấy chúng ta sẽ tiếp tục.

Sáng hôm sau, đúng giờ hẹn tôi đã có mặt tại phòng của Mahmoud Bey. Ông ta đưa cho tôi một hộp thuốc lá Ai Cập rồi bật lửa mời tôi hút thuốc và nói: 

– Thuốc lá này là thổ sản của xứ Ai Cập, hút rất ngon. 

Chúng tôi ngồi ngả lưng trên ghế bành và thở vài ngụm khói đầu tiên. Khói thuốc có mùi thơm dịu, quả thật là thuốc lá Ai Cập ngon có tiếng. Mahmoud Bey vừa mở lời vừa cười một cách thật tình và cởi mở: 
– Vậy bây giờ tôi sẽ nói về phần lý thuyết, như cách phân biệt của người phương Tây các ông. Nhưng đối với chúng tôi thì sự thật là lý thuyết không bao giờ tách rời khỏi phần thực hành. Có lẽ ông sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng tôi là một chuyên viên ngành nông nghiệp, và có cả bằng kỹ sư canh nông? 

Tôi bắt đầu những ghi chép bằng tốc ký. Ông ta nói tiếp: 

– Điều đó dường như không liên quan gì đến khoa phù thủy, phải không? 

Tôi ngừng ghi chép và ngước mắt nhìn lên, thoáng thấy một nụ cười còn sót lại trên vành môi của ông ta. Ông ta cũng nhìn lại tôi. Tôi nghĩ rằng đây sẽ là một câu chuyện phóng sự rất lý thú. Ông ta hỏi tôi: 

– Nhưng ông là một ký giả, hẳn ông phải muốn biết do nhân duyên gì mà tôi trở thành một nhà phù thủy. 

Tôi gật đầu tỏ ý biểu đồng tình. Mahmoud Bey nói: 

– Tôi vốn sinh trưởng ở thành phố Cairo, Ai Cập. Thuở nhỏ tôi là một đứa học trò bình thường cũng như mọi đứa trẻ khác, không có gì đặc biệt hay xuất chúng. Nhưng tôi có năng khiếu về canh nông, và tôi gắng chuyên cần theo đuổi môn này khi tôi vào trung và đại học. Một ngày kia, có một ông già dọn đến ở gần nhà tôi. Đó là một ông lão người Do Thái có cặp chân mày thật rậm, chòm râu dài, vẻ mặt luôn luôn đăm chiêu và ít nói. Ông ta rất dè dặt trong cử chỉ, khiến cho những người láng giềng đều xa lánh và không dám làm quen. Nhưng đối với tôi, điều đó lại làm cho tôi tò mò muốn tìm hiểu về ông ta hơn. 

Hồi đó tôi còn trẻ và bạo dạn, không nhút nhát. Tôi tìm cơ hội làm quen với ông ta. Lúc đầu còn dè dặt, nhưng dần dần ông trở nên dễ dãi hơn và sau cùng ông đã mở cửa cho tôi bước vào cuộc đời của ông. Nhờ đó tôi được biết rằng ông là một người chuyên khảo cứu về khoa pháp môn huyền bí và dành trọn thời giờ để học hỏi về các hiện tượng siêu linh, cùng thực hành những pháp thuật lạ lùng. 

Ông hãy tưởng tượng xem, cuộc đời tôi trước khi đó chỉ là đời của một sinh viên. Ngoài giờ học, tôi chỉ biết chơi thể thao cùng các môn giải trí lành mạnh. Bỗng nhiên từ nay tôi đã gặp một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nhưng nó hấp dẫn một cách lạ lùng! Sự huyền bí không làm cho tôi sợ hãi như đối với phần đông các bạn của tôi. Trái lại, nó cho tôi cái thích thú của sự tìm tòi, để khám phá những điều bí hiểm. 

Tôi yêu cầu ông lão Do Thái hãy dạy tôi học khoa pháp môn của ông. Ông ta bằng lòng. Từ đó, tôi dần dần có dịp làm quen với một giới người theo đuổi những môn học kỳ lạ. Ông lão Do Thái đưa tôi đến một Hội ở Cairo chuyên khảo cứu và thực hành các môn Thần linh học, Huyền môn học và Thông thiên học. Nhóm này gồm các nhà bác học, công chức, hoặc trí thức, đến để nghe ông lão giảng dạy về các môn học kể trên. Lúc ấy tôi hãy còn là một thanh niên mới trưởng thành, nhưng tôi cũng được phép tham dự các buổi học. 


Tôi nghe giảng với tất cả tâm hồn, nghe một cách say sưa như uống cạn những lời giảng của thầy. Những cuộc thí nghiệm lạ lùng làm tôi nhìn xem một cách say mê và vô cùng thích thú. Lẽ tự nhiên, sự học của tôi ở trường Canh Nông bị giảm sút, nhưng vì sẵn có năng khiếu nên tôi vẫn thi đậu tốt nghiệp. Sau đó, tôi dành trọn thời gian để chăm chú học một cách say mê những quyển sách cổ xưa đầy bụi mốc do ông lão Do Thái cho mượn, và tập thực hành khoa pháp môn. Tôi tiến bộ rất mau về khoa này đến nỗi tôi khám phá được những điều mà chính thầy tôi chưa biết. 

Không bao lâu tôi được nhìn nhận là một chuyên viên ưu tú về khoa pháp môn. Đến lượt tôi làm giảng sư thuyết trình về pháp môn huyền bí tại Hội quán và được bầu làm Chủ tịch Hội này trong mười hai năm. Về sau, tôi xin từ chức để đi du lịch ở một vài xứ và cũng để gầy dựng một sự nghiệp tương lai. 

Nói đến đây, Mahmoud Bey ngừng một lát để gạt tàn thuốc. Tôi nhận thấy ông ta có một bàn tay đẹp, một bộ móng tay rất chải chuốt và cắt xén rất kỹ. Tôi nói xen một câu để bày tỏ sự chú ý của mình vào câu chuyện: 

– Sự nghiệp mà ông muốn gầy dựng đó hẳn là một công trình rất khó nhọc? 

Ông ta mỉm cười nói: 

– Không, đối với tôi thì việc ấy rất dễ. Tôi cũng không đặt ra mục tiêu gì to tát lắm, nên tôi chỉ cần tìm vài vị thân chủ trong số những nhà giàu có cần dùng đến những phép thuật của tôi. Trong giới hào phú ở Ấn Độ, có một vài người đã biết tôi. Họ đến đây để hỏi ý kiến tôi về những vấn đề khó khăn thắc mắc của họ; họ cũng muốn khám phá những chuyện mà họ chưa được biết hoặc muốn biết những điều bí hiểm. Lẽ dĩ nhiên là tôi tính tiền thù lao rất cao, mỗi vụ ít nhất cũng là một trăm rupee. Nói thật tình, tôi chỉ muốn kiếm một số tiền, rồi sau đó sẽ giải nghệ và lui về dưỡng nhàn nơi một tỉnh nhỏ ở Ai Cập. Tôi sẽ mua một khu đất để trồng một vườn cam và trở lại nghề canh nông của tôi. 

Đến đây, tôi dò hỏi:

– Ông từ Ai Cập thẳng đường sang đây? 

–Không. Tôi có ở một thời gian bên xứ Syrie và Palestine sau khi tôi từ giã thủ đô Ai Cập. Những viên chức an ninh ở Syrie có nghe nói về tôi và thỉnh thoảng có nhờ tôi giúp đỡ. Mỗi khi có một vụ án mạng khó khăn, không tìm ra manh mối, thì phương kế cuối cùng là họ tìm đến tôi. Trong nhiều trường hợp, tôi đã giúp họ tìm ra được thủ phạm. 

– Ông tìm ra thủ phạm bằng cách nào? 

– Tôi nhờ đến sự giúp đỡ của những sinh linh trong cảnh giới vô hình. Họ diễn lại sự việc trong tâm giới của tôi, cho tôi thấy rõ ràng cảnh tượng của vụ án mạng. Mahmoud Bey ngừng một lúc, như để hồi tưởng lại những sự việc đã qua. Tôi kiên nhẫn chờ cho ông ta nói tiếp: 
– Chắc ông sẽ cho tôi là một nhà Thần linh học, vì tôi kêu gọi sự giúp đỡ của những vong linh? Nhưng tôi cũng là một pháp sư phù thủy, theo ý nghĩa đúng đắn của danh từ này, chứ không phải là một tay làm trò ảo thuật. 

Tôi không đòi hỏi gì hơn những điều vừa được nghe đó! Những lời giải thích của ông ta cũng đủ làm cho người ta phải giật mình, không cần phải hỏi thêm điều gì nữa! Nhưng tôi vẫn không dừng lại:

– Xin ông cho tôi biết vài điều về những vong linh vô hình đó. 

– À! Những âm binh đó sao? Tôi đã mất ba năm công phu khó nhọc mới làm chủ được chúng nó. Trong cõi vô hình, ngoài vòng nhận xét của giác quan chúng ta có những loại vong linh tốt cũng như xấu. Một vài loại vong linh đó chính là vong hồn những người đã chết, còn phần nhiều chúng thuộc về loại Djinns nghĩa là những vong linh xuất xứ tự cõi vô hình và chưa hề có sự chuyển kiếp làm người. Có những vong linh với trình độ tiến hoá không cao hơn loài thú, có những loại khác khôn ngoan như loài người. Cũng có những vong linh hung ác, được những bọn phù thủy hạ cấp xấu xa sử dụng, nhất là những thầy phù thủy chữa bịnh ở Phi châu. Tự nhiên là tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, có thể quay ngược lại để giết chết những người đã sử dụng và sai khiến chúng. 

– Còn những vong linh người chết mà ông sử dụng đó là ai? 

– Một trong những vong linh đó là em ruột của tôi, đã chết từ vài năm nay. Nhưng ông nên nhớ rằng tôi không phải là một người lên đồng, vì không có vong linh nào nhập vào xác tôi, hoặc được phép chế ngự tôi theo bất kỳ cách nào. Vong linh em tôi tiếp xúc với tôi bằng cách đưa vào trong trí tôi những tư tưởng của nó, hoặc gieo vào trong tâm giới của tôi một hình ảnh tương tự. Chính nhờ cách đó mà tôi đọc được những câu hỏi của ông đã viết. 

– Còn những âm binh Djinns

– Tôi có tới ba chục đứa để sử dụng và sai khiến. Sau khi đã làm chủ được chúng nó, tôi phải tập cho chúng biết vâng lời, cũng như người ta tập cho một đứa trẻ biết múa hát chẳng hạn. Tôi còn phải biết tên mỗi đứa để kêu gọi và sai khiến chúng làm việc. Tôi biết tên chúng nhờ học từ những quyển sách cổ của thầy tôi truyền lại. 

Mahmoud Bey lại đưa hộp thuốc lá cho tôi và nói tiếp: 

– Mỗi vong linh đều có một vai trò của nó và không thể đóng vai trò khác. Chẳng hạn, những âm binh đã viết câu trả lời của tôi bằng bút chì trên mảnh giấy trắng không thể giúp tôi đọc được những câu hỏi của ông. 

– Ông tiếp xúc với chúng bằng cách nào? 

– Bằng cách tập trung tư tưởng của tôi đến âm binh nào mà tôi muốn kêu gọi. Nhưng trên thực tế, tôi thường viết tên âm binh đó bằng chữ Ả Rập lên một tờ giấy thì nó liền xuất hiện lập tức. 

Đến đây, nhà phù thủy xem đồng hồ tay và đứng dậy kiếu từ: 

– Bây giờ, thưa ông, tôi rất tiếc không thể nói nhiều hơn. Ông hiểu vì sao tôi phải giữ kín những phép thuật của tôi. Chúng ta sẽ gặp nhau một ngày khác, nếu Allahmuốn thế! 

Nói xong, anh ta vừa mỉm cười để lộ hàm răng trắng như ngà, vừa cúi đầu chào từ biệt. Cuộc phỏng vấn của tôi với nhà phù thủy đã chấm dứt. 

Đêm ở Bombay. Tôi đi ngủ trễ nhưng vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Không khí nặng nề vì độ ẩm quá cao làm tôi khó thở, dường như không có dưỡng khí và nóng nực không thể chịu nổi. Cái quạt máy trên trần chạy hết tốc lực cũng không đủ mát để cho cặp mắt tôi nhắm lại. Sự hô hấp là cả một công việc khó nhọc. Không khí nóng bức đến nỗi mỗi hơi thở vào dường như làm cho buồng phổi thiếu kinh nghiệm của tôi bị thương tổn! Bộ quần áo ngủ của tôi thấm mồ hôi ướt sũng, dường như toàn thân tôi đều chảy ra nước! Tệ hơn nữa là bộ óc bị dồn ép của tôi cũng không được chút nghỉ ngơi. Con ma mất ngủ đã bước vào cuộc đời tôi kể từ đêm nay và sẽ ám ảnh tôi luôn cho đến ngày tôi đặt chân trên đất Ấn Độ lần cuối cùng. Tôi phải tập quen với khí hậu, phong thổ vùng nhiệt đới, và tôi đã bắt đầu trả bằng một giá rất đắt! 

Ánh trăng xuyên qua cửa sổ rọi vào phòng làm cho cảnh vật chung quanh đắm chìm trong một thứ ánh sáng nhạt mờ huyền ảo. Nằm thao thức trên giường, tôi ngẫm nghĩ về câu chuyện lúc ban ngày với nhà phù thủy Mahmoud Bey và hiện tượng lạ lùng mà ông ta đã thực hiện cho tôi xem ngày hôm trước. 

Tôi thử tìm kiếm một sự giải thích nào khác hơn nhưng không có kết quả. Nếu những tay sai bí mật và vô hình của anh ta quả là có thật, thì việc này làm cho chúng ta nhớ lại thời Trung cổ, khi những nhà phù thủy đã từng làm ăn phát đạt ở những thành phố châu Âu, mặc dầu họ thường bị khủng bố bởi Hội Thánh và nhà cầm quyền. 

Càng cố tìm ra một sự giải thích, tôi càng đành chịu thất bại, không hiểu ra sao cả. Tại sao Mahmoud Bey lại bảo tôi nắm chặt trong lòng bàn tay cây bút chì cùng với tờ giấy? Phải chăng những âm binh của ông ta đã dùng những nguyên tử của chất chì để viết thành câu trả lời? Tôi gắng nhớ lại những sự việc tương tự đã từng xảy ra trong quá khứ. Phải chăng Marco Polo, nhà thám hiểm trứ danh của thành Venise, đã tường thuật lại trong bộ sách du ký rằng ông đã từng gặp những vị pháp sư Trung Hoa, Mông Cổ và Tây Tạng, có thể viết chữ bằng nét bút chì mà không cầm đến cây bút? Và phải chăng chính những vị pháp sư ấy đã nói cho ông biết rằng pháp thuật lạ lùng này đã từng được biết và thực hành ở các xứ ấy từ bao nhiêu thế kỷ về trước? 

Tôi cũng nhớ rằng bà Helena Blavatsky, nhà sáng lập ra Hội Thông thiên học, cũng đã từng làm những hiện tượng tương tự như thế cách đây năm mươi năm về trước. Hồi thời kỳ đó, có vài người hội viên ưu tú trong Hội ấy đã nhận được những bản thông điệp rất dài của các vị chân sư do bà làm trung gian. Những người ấy viết trên giấy những tờ giấy có viết những câu hỏi đó. Một điều lạ là bàBlavatsky cho biết bà có đi du lịch bên xứ Mông Cổ và Tây Tạng, là những nơi mà nhà thám hiểm Marcho Polo đã từng chứng kiến những hiện tượng tương tự như thế. Tuy nhiên, bà Blavatsky không tuyên bố là có quyền năng sai khiến các âm binh như nhà phù thủy Mahmoud Bey. Bà chỉ cho biết rằng những câu trả lời bí mật đó là do những vị chân sư của bà ở bên Tây Tạng, những người có xác phàm như chúng ta, và là những nhà sáng lập thật sự và ẩn tàng của Hội Thông thiên học. Như thế, những vị này dường như còn cao tay ấn hơn nhà phù thủy Ai Cập về hiện tượng nói trên, vì các ngài đã tạo ra những hàng chữ viết như thế từ bên xứ Tây Tạng, cách xa nơi nhận đến hàng ngàn dặm dường. Hồi đó, người ta đã từng bàn luận rất sôi nổi về tính cách chân thật của hiện tượng này, và về sự hiện diện thật sự của các đấng chân sư. 

Tôi không có ý định nêu ra vấn đề này, vì đó không phải việc của tôi. Hơn nữa, người phụ nữ kỳ lạ đó đã bước sang một thế giới khác mà có lẽ bà thấy là sung sướng dễ chịu hơn cõi đời này. Nhưng tôi không thể nào phủ nhận những gì tôi đã nhìn thấy tận mắt, hoặc nghi ngờ về tính cách chân thật của sự việc đã xảy ra, mặc dầu tôi không sao giải thích được. 

Không còn nghi ngờ gì nữa, Mahmoud Bey quả thật là một nhà phù thủy còn sót lại giữa thế kỷ hai mươi này. Gặp gỡ được ông ta khi vừa mới đến Ấn Độ, đối với tôi có vẻ như là một điềm lành, và hứa hẹn nhiều sự khám phá lạ lùng hơn nữa về sau này. Dầu sao tôi cũng đã trải qua một bước kinh nghiệm lý thú đầu tiên, và ghi nhận được những tài liệu quí báu trên những trang hãy còn mới của tập nhật ký.


---o0o---
CHƯƠNG 03 : NGƯỜI ĐẠO SĨ BÊN BỜ SÔNG ADYAR
Những tuần lễ sau đó, tôi vượt qua vùng cao nguyênDécan để đi xuống miền nam. Tôi viếng thăm nhiều nơi danh lam thắng cảnh, nhưng không gặp một nhân vật nào đáng kể. Tuy nhiên, có một sức mạnh huyền bí mà tôi nhắm mắt tuân theo không suy nghĩ đã thúc giục tôi tiếp tục tiến bước. 

Ngày nọ, tôi ngồi trên chuyến xe lửa đêm đi xuống Madras, và không tìm thấy giấc ngủ. Tôi bèn ngồi dậy để thử kiểm điểm những kết quả đã thu thập được. Tôi phải nhìn nhận rằng những kết quả ấy rất mỏng manh, và tôi chưa có dịp gặp gỡ một người đạo sĩ nào. Còn nói về hy vọng gặp được một vị chân sư thì tôi đành tạm gác sang một bên vì chưa thấy có chút manh mối tương quan nào cả. 

Ngược lại, tôi đã gặp phải không biết bao nhiêu những sự dị đoan mê tín và những tập quán cổ xưa lỗi thời. Bây giờ tôi mới hiểu những nụ cười nghi hoặc và những lời cảnh cáo của các bạn tôi ở Bombay. Lần đầu tiên tôi nhận thức được sự khó khăn của vấn đề tôi đang theo đuổi. 

Nói về những tu sĩ tự xưng là sùng tín và đạo hạnh thì ở xứ này không thiếu. Họ họp thành một thành phần đông đảo không thể tưởng tượng. Nhưng có đáng để tốn công nhọc sức đi tìm những người như thế hay không thì lại là một chuyện khác. 

Bạn đi ngang qua một ngôi đền cổ kính thâm nghiêm, bề ngoài có vẻ rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn. Bạn bước vào trong với một tấm lòng sùng kính thiêng liêng và tiến đến gần nơi thánh điện. Bạn nhìn vào trong và bạn thấy những gì? Những người hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện vừa rung một cái chuông nhỏ để làm cho những lời cầu xin của họ được thấu đến tai của những vị thần trong đền! 

Thành phố Madras với những phong cảnh tưng bừng nhộn nhịp và màu sắc địa phương rực rỡ lạ mắt làm cho tôi rất thích thú. Tôi tạm trú ở một vùng ngoại ô cách thành phố hai dặm. Nơi đây tôi sẽ được gần gũi với người bản xứ hơn là ở khu sang trọng dành cho người Âu. 

Tôi đi theo con đường cái, nhà cửa hai bên đường đều quét vôi trắng, trước mỗi nhà đều có một hàng hiên để hóng mát. Chung quanh vùng có cây cối sầm uất, cảnh vật tươi tốt trông thật thích mắt. Cách đó chừng nửa dặm, con sông Adyaruốn quanh, dòng nước chảy chậm chạp lờ đờ. Hai bên bờ sông có những vườn dừa che bóng mát rượi. Tôi định lúc nào rảnh rang sẽ đi bách bộ dạo chơi dưới bóng những hàng dừa, hoặc ngồi ngắm cảnh trên bờ sông. Con sông Adyar chảy về ngoại ô phía nam thành phố Madras, trước khi đổ ra vịnh Coromandel

Một buổi sớm mai, tôi dạo chơi trên bờ sông với một người thanh niên Ấn mà tôi mới làm quen và tôi đã có dịp thổ lộ với anh ta về mục đích cuộc sưu tầm của tôi. Thình lình anh ta nắm lấy tay tôi và nói: 

– Kìa! Ông hãy nhìn xem, người đang đi về phía chúng ta từ đàng xa kia là mộtyogi. Có lẽ ông sẽ muốn biết về người ấy, nhưng có điều rất tiếc là khó mà làm quen được với với ông ta. 

– Tại sao vậy? 

– Tôi biết chỗ ông ta ở, nhưng tôi chưa từng thấy ai dè dặt và kín đáo như người này. 

Người lạ mặt đã tiến đến gần chúng tôi. Ông ta có cái vóc vạc cao lớn lực lưỡng và trạc độ ba mươi lăm tuổi. Gương mặt có điều làm cho tôi chú ý nhất là những nét đặc biệt của một người da đen: nước da rất sậm, mũi thấp, cặp môi dày, vai rộng. Tóc ông ta dài và cột lại thành một búi nhỏ trên đỉnh đầu. Ông ta đeo hai cái khoen lớn khác thường dưới hai trái tai. Ông ta vận một cái chăn quấn chung quanh thân mình, một đầu vắt lên vai bên trái, hai vai để trần và đi chân trần. 

Ông ta đi ngang qua chúng tôi với những bước đi chậm rãi, mắt nhìn xuống đất như đang tìm một vật gì và dường như không nhìn thấy chúng tôi. Đằng sau đôi mắt đó hẳn phải là một tâm hồn sáng suốt linh hoạt, và tôi tự hỏi trong cơn suy tư trầm lặng và đơn chiếc của ông ta lúc ấy, không biết ông ta đang suy gẫm về vấn đề gì. 

Tôi bỗng có ý muốn phá tan bức rào ngăn cách với con người kỳ lạ đó. Lúc ấy ông ta đã đi qua khỏi chỗ chúng tôi đứng. Tôi bèn đề nghị: 

– Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Chúng ta hãy quay trở lại. 

Người thanh niên bèn cản tôi: 

– Ông sẽ mất thời giờ vô ích thôi. 

– Nhưng hãy thử xem, biết đâu. 

Người bạn tôi lại can ngăn lần nữa: 

– Người này sống ẩn dật và cách biệt đến nỗi không ai biết gì cả về cuộc đời của ông ta. Ông ta tránh xa tất cả mọi người, thậm chí đến cả những người láng giềng. Tốt hơn, chúng ta không nên quấy rầy ông ta. 

Nhưng tôi đã quyết định quay trở lại, và người bạn trẻ của tôi đành phải đi theo. Không bao lâu, chúng tôi đã theo gần kịp người lạ mặt. Ông ta vẫn tiến bước mà không tỏ vẻ gì biết rằng có chúng tôi đi theo. Chúng tôi cố đi nhanh hơn để vượt lên. Tôi bảo người bạn tôi: 

– Anh hãy nói giúp là tôi muốn nói chuyện với ông ta. 

Người bạn trẻ của tôi do dự và lắc đầu từ chối: 

– Tôi không dám. 

Không muốn bỏ qua một cơ hội tốt, tôi quyết định phải đánh bạo làm quen. Tôi không còn cách nào khác, đành bất chấp những luật lệ xã giao thông thường. Tôi bèn đứng chặn đường người yogi và thốt ra một câu ngắn ngủi rút trong số vốn tiếng Ấn Độ nghèo nàn của tôi. Người lạ mặt ngước mắt nhìn lên, miệng hơi nở một nụ cười, nhưng lại lắc đầu tỏ vẻ không muốn bị làm phiền. 

Người bạn trẻ của tôi thấy rằng đã đến lúc anh ta phải can thiệp. Bằng một giọng do dự, anh ta nói vài lời xin lỗi bằng tiếng Tamoul. Người yogi không đáp lại, nét mặt ông ta trở nên cứng rắn, cặp mắt lạnh lùng cách biệt. Người thanh niên luống cuống nhìn tôi, sự im lặng càng trở nên nặng nề và khó chịu. Làm sao thoát ra khỏi tình trạng đó? 

Trong cơn bối rối, tôi mới biết rằng thật không phải dễ gì mà làm cho một người ẩn sĩ mở miệng để nói chuyện với mình. Những người ấy hẳn là không thích bị ai phỏng vấn, đừng nói chi là tiếp đón một người ngoại chủng tọc mạch muốn biết về đời sống nội tâm của họ. Điều mà họ càng không thích hơn nữa là phải nói chuyện với một người Anh, là hạng người mà họ luôn có định kiến rằng không hề có một chút thiện cảm hoặc hiểu biết gì về những điều huyền vi tế nhị của pháp môn Yoga

Nhưng ý nghĩ đó bị xô đuổi bởi một ý nghĩ khác. Tôi cảm thấy rõ rệt rằng mình đang là cái đích đặt dưới sự dò xét tỉ mỉ và sâu sắc của người yogi. Tôi chắc chắn rằng phía sau vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm kia, ông ta đang chú ý thăm dò những ý nghĩ thầm kín nhất của tôi. Hay là tôi đã lầm? Nhưng tôi vẫn không thể gạt bỏ cái cảm giác khó chịu đó: tôi đang là một vật khám nghiệm dưới một ống kính hiển vi!

Người thanh niên lấy làm bực mình và ngầm lấy cùi chỏ thúc vào hông tôi, như muốn nói rằng ta hãy nên lui bước. Anh ta làm cho tôi khó chịu, và chỉ độ một phút nữa là tôi cũng đành nhượng bộ rút lui và nhìn nhận sự thất bại của mình. Nhưng ngay khi đó, người yogi cử động; ông ta đưa tay chỉ một gốc dừa gần bên và ra hiệu bảo chúng tôi cùng đến ngồi dưới bóng cây. Ông ta ngồi xuống sau hết và nói vài lời bằng tiếng Tamoul với người thanh niên. 

Tôi nhận thấy giọng nói ông ta trong và ấm gần như tiếng nhạc. Người bạn trẻ của tôi thông dịch lại: 

– Đạo sĩ nói rằng người sẵn lòng tiếp chuyện với ông. 

Tôi liền hỏi quí danh đạo sĩ và được biết ông ta có một cái tên rất dài. Tôi bèn xin phép gọi ông ta là Brama cho tiện và dễ nhớ. Tôi nói với người thanh niên: 

– Anh hãy nói giùm là tôi rất chú trọng đến pháp môn Yoga và tôi muốn được hiểu biết ít nhiều về khoa ấy. 

Người yogi nghe xong liền gật đầu mỉm cười: 

– À! Tôi cũng đoán là như vậy. Vậy ông muốn biết điều gì, xin ông cứ hỏi. 

– Đạo sĩ tu luyện theo pháp môn nào? 

– Tôi tu theo pháp môn Hatha Yoga, tức là phép chủ trị xác thân. Đó là pháp môn khó nhất. Thể xác con người và nhất là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm soát như một con lừa! Sau đó, việc làm chủ được hệ thần kinh và trí óc sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con. 

Tôi lại hỏi:

– Tu theo pháp môn này đem đến những ích lợi gì? 

Cặp mắt mơ màng như nhìn về một cõi xa xăm, Brama đáp: 

– Sức khỏe, ý chí và sống lâu. Đó là chỉ kể sơ qua vài điều. Người yogi tu luyện đúng phép sẽ làm chủ được xác thân và làm cho nó trở nên cứng rắn như sắt. Sự đau đớn không còn tác động đến nó được nữa. Tôi biết một yogi đã chịu đựng một cuộc giải phẫu mà không cần dùng đến thuốc mê. Ông ta trải qua suốt ca mổ mà không một tiếng rên. Người yogi cũng có thể phơi mình trần dưới tiết trời lạnh lẽo nhất mà không hề gì cả. 

Tôi lấy sổ ra ghi chép, và câu chuyện bắt đầu chuyển sang một giai đoạn thú vị hơn. Lối viết chữ tốc ký của tôi làm Brama mỉm cười, nhưng ông ta không ngăn cản việc ấy. 

– Đạo sĩ có thể cho biết thêm vài chi tiết? 

– Được, nếu ông muốn. Thầy tôi đã từng sống ở một địa điểm ngoài trời trên dãy Hi Mã Lạp Sơn đầy tuyết phủ mà trên người không mặc gì khác hơn một manh áo mỏng. Người có thể nằm suốt nhiều giờ liên tiếp ở một nơi mà nước phải đông lại trong tức khắc, nhưng vẫn không hề chi cả. Đó là cái sức mạnh nhiệm mầu của pháp môn Yoga

– Đạo sĩ là đệ tử của ngài? 

– Phải, nhưng tôi chưa đạt tới mức cao tột, mặc dầu tôi đã công phu cố gắng luyện tập không ngừng trong suốt mười hai năm. 

– Nhưng chắc đạo sĩ cũng đã đạt tới một trình độ nhất định nào đó rồi, và có được những năng lực vượt hơn người thường? 

Brama gật đầu nhưng không nói gì. Ông ta làm cho tôi càng tò mò hơn nữa. Tôi bèn hỏi: 

– Xin đạo sĩ cho biết trong trường hợp nào ông đã trở thành một người yogi? 

Im lặng. Cả ba người chúng tôi đều ngồi dưới bóng cây ven bờ sông. Trên lùm cây bên kia sông, tiếng bầy quạ kêu vang lẫn với tiếng kêu chí choé của vài con khỉ nhảy nhót trên cành. Bỗng nhiên, Brama cất tiếng nói: 

– Được. 


Tôi đoán chắc ông ta có thể hiểu được những câu hỏi của tôi có một lý do sâu xa hơn là một sự tò mò. Ông ta choàng lại cái khăn vắt trên vai, đôi mắt mơ màng nhìn về phía bên kia sông và bắt đầu nói: 

– Thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ ít nói và thích sống cô đơn. Tôi không thấy gì là vui thú trong những trò chơi của các bạn tôi, vì thế tôi luôn tránh xa họ và thích đi dạo một mình ở những nơi vườn cây hay ngoài đồng vắng. Ít người biết được những gì diễn ra trong tâm hồn kín đáo của một đứa trẻ. Tôi sống cách biệt với mọi người và cảm thấy rằng đời không có gì vui. Vào năm mười hai tuổi, tình cờ tôi nghe lỏm được một câu chuyện giữa những người lớn nói về vấn đề Yoga. Đó là lần đầu tiên tôi nghe đến danh từ đó, và những gì tôi nghe trong câu chuyện cũng đủ làm cho tôi tò mò muốn biết thêm. Tôi chất vấn nhiều người và góp nhặt được vài quyển sách nói về Yoga, trong đó tôi đọc được nhiều điều thú vị về các đạo sĩYogi. Cũng như con ngựa giong ruổi trên sa mạc mong mỏi tìm đến dòng suối mát, trí óc tôi khát khao sự hiểu biết. Nhưng tôi chỉ có một mình và không làm sao tiến xa hơn nữa được. 

Một hôm, tình cờ tôi lật một quyển sách và thấy trong đó có câu: “Muốn tiến bộ trên đường tu luyện pháp môn Yoga, phải nhờ có sự chỉ dẫn của một bậc danh sư.” 

Những lời này làm cho tâm hồn tôi thắc mắc băn khoăn. “Một danh sư” ư? Tôi hiểu ngay rằng, muốn tìm được thầy thì không có cách nào khác hơn là bỏ nhà ra đi để tìm kiếm khắp thiên hạ. Nhưng tôi không thể mong đợi sự cho phép của cha mẹ tôi về việc này. Không biết phải làm thế nào, tôi bèn lén lút luyện thử một vài phép hô hấp mà tôi đã góp nhặt được từ những tài liệu trong các sách. Phép luyện này, thay vì có ích, lại làm hại cho tôi. Tôi không biết rằng phép khí công rất nguy hiểm nếu không có sự dìu dắt của một bậc danh sư. Nhưng vì tôi quá nóng lòng nên không thể chờ đợi mãi được. Sau vài năm tập luyện lén lút một mình, hậu quả bất ngờ đưa đến là tôi bị đứt một gân máu trên đỉnh đầu, dường như đó là chỗ chịu đựng yếu nhất. 

Tôi cảm thấy toàn thân tôi giá lạnh và sức khỏe yếu dần, máu chảy lênh láng ở chỗ vết thương. Tôi tưởng rằng tôi sắp chết. Hai giờ sau đó, tôi nhìn thấy một linh ảnh lạ lùng, hình như tôi thấy gương mặt đạo mạo của một vị đạo sĩ già hiện ra và nói với tôi: “Con thấy chăng, phép tu luyện ngăn cấm đối với kẻ phàm tục có thể đưa con đến một tình trạng nguy hiểm là dường nào! Con hãy nhớ lấy bài học này.” Rồi linh ảnh biến mất, nhưng lạ thay, từ đó trở đi tôi cảm thấy khá hơn và không bao lâu sức khỏe của tôi hoàn toàn bình phục trở lại. Nhưng ông hãy xem, vết sẹo hãy còn đây. 

Brama cúi đầu cho chúng tôi xem một vết sẹo nhỏ hiện ra rõ ràng trên đỉnh đầu. Ông ta nói tiếp: 

– Sau khi tai nạn đó xảy ra, tôi bèn ngưng việc luyện hơi thở và chờ đợi để cho thời gian làm giảm bớt những sự ràng buộc với gia đình. Khi tôi được tự do, tôi liền từ giã gia đình và đi châu du khắp nơi để tìm thầy. Tôi biết rằng phương pháp hay nhất để chọn lựa một bậc thầy là hãy sống chung với người ấy trong vài tháng. Tôi đã gặp qua được vài ba người, nhưng khi sống chung với họ thì tôi luôn bị thất vọng. Những vị ấy đều là những sư trưởng đứng đầu các tu viện hoặc đạo viện, nhưng không có vị nào làm cho tôi thỏa mãn. Về phần lý thuyết thì họ biết rất nhiều, nhưng về kinh nghiệm tự thân thì hầu như họ chẳng có gì cả. Phần nhiều họ chỉ lặp lại những điều đã có trong sách, còn việc dìu dắt tôi trên phương diện thực hành thì họ không làm được. 

Tôi đã bỏ qua tất cả mười vị thầy, nhưng vẫn không thối chí, sự nhiệt thành của tuổi trẻ lại càng sôi sục thêm nữa, và những thất vọng liên tiếp đó càng nung nấu thêm lòng cương quyết của tôi. 

Khi tôi đã đến tuổi trưởng thành. Tôi bèn quyết định từ bỏ gia đình và tất cả ruộng vườn nhà cửa, dứt bỏ hẳn cuộc sống thế tục và đi lưu lạc khắp nơi để tìm thầy. Tôi dứt bước ra đi, phiêu lưu đây đó. 

Một ngày kia, tôi đến một làng thuộc tỉnh Tanjore. Tôi xuống sông để tắm gội, xong rồi mới lên dạo chơi trên bờ sông. Tôi thấy một ngôi đền nhỏ xây bằng đá màu đỏ. Vì hiếu kỳ, tôi đến nhìn vào trong thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy có một số người ngồi vây quanh một người khác để mình trần. Họ nhìn người này với một sự kính mến vô cùng: quả thật, trên gương mặt người này có một cái gì vừa huyền bí vừa tôn nghiêm. 

Tôi đứng ở trên thềm và nhìn xem với một sự say sưa, chăm chú. Tôi nhận thấy rằng cả nhóm đang thụ giáo người này về một môn học nào đó, và tôi có cái linh cảm rằng người này là một vị đạo sĩ chân chính, một bậc danh sư mà tôi đang tìm kiếm chứ không phải một học giả nhồi sọ đầy những lý thuyết. Tại sao tôi có cái linh cảm đó, tôi cũng không thể nói được. 

Bỗng nhiên, bốn mắt chúng tôi gặp nhau. Tuân theo một sự thúc giục thầm kín bên trong, tôi bước ngay vào đền. Vị tôn sư tiếp đón tôi một cách niềm nở, mời tôi ngồi và nói: 

– Con đây rồi! Đã sáu tháng nay ta luôn nghĩ đến việc thâu nhận con làm đệ tử. 

Thật là vừa đúng sáu tháng kể từ ngày tôi bước chân ra đi! Và tôi đã gặp thầy tôi trong hoàn cảnh đó. Từ đó trở đi, tôi theo thầy tôi khắp mọi nơi. Có đôi khi ngài xuống tỉnh thành, nhưng thường hơn là ngài ở tận trong rừng thẳm. Tôi bắt đầu thu hoạch được những kết quả tiến bộ mau chóng về khoa Yoga. Thầy tôi là một vị yogi thượng đẳng về pháp môn Hatha Yoga, tức là pháp môn tinh luyện xác thân. Khoa Yoga có nhiều môn phái khác nhau về phương pháp thực hành. Môn phái của tôi chuyên lo tinh luyện xác thân trước nhất, rồi sau mới tu luyện về tinh thần. Phép luyện khí công, tức luyện hơi thở, cũng thuộc về pháp môn này. Có một lần, tôi phải nhịn đói suốt bốn mươi ngày liên tiếp để chuẩn bị cho một giai đoạn công phu đặc biệt và nhận lãnh một vài quyền năng của pháp môn Yoga

Một hôm, thầy tôi gọi tôi lại gần và nói: “Cuộc đời xuất gia và hoàn toàn thoát tục chưa phải là của con. Con hãy trở lại thế gian và sống một cuộc đời bình thường. Con sẽ lập gia đình và sinh một đứa con. Đến năm ba mươi chín tuổi, con sẽ được thấy nhiều ấn chứng và sau đó sẽ được tự do rút lui ra ngoài vòng thế tục. Chừng đó, con hãy trở lại nơi rừng thẳm để tu luyện cho đến khi công phu viên mãn. Thầy sẽ chờ đợi, con có thể trở lại với thầy.” 

Tôi vâng lời thầy dạy và trở về quê hương. Tôi cưới một người vợ và có một đứa con đúng như lời thầy tôi đã nói trước. Sau đó ít lâu, vợ tôi qua đời, cha mẹ tôi cũng đã khuất núi, và tôi lại từ giã quê hương một lần nữa để đến ở nơi đây, tại nhà một bà lão góa bụa, người đồng hương với tôi và đã từng biết tôi từ khi tôi còn nhỏ. Bà lão này coi sóc nhà cửa bếp núc cho tôi, và vì tuổi già làm cho bà trở nên ít nói và kín đáo, nên bà để cho tôi bình yên sống cuộc đời ẩn dật mà sự tu tập của tôi cần đến. 

Brama nói dứt lời, tôi cũng không hỏi thêm gì nữa. Sau vài phút im lặng, ông ta đứng dậy và bước chậm rãi trở về nhà. Tôi và người bạn trẻ cùng đi theo sau. Chúng tôi đi qua một đám rừng dừa và những đám cây cối sầm uất. Nước sôngAdyar phản chiếu ánh nắng sáng ngời. 

Một hay hai giờ trôi qua trong khi chúng tôi đi dạo một cách thú vị dọc theo bờ sông. Không bao lâu, chúng tôi đã về đến làng. Một ngọn gió nhẹ từ bờ biển thổi vào mát rượi. Đến một bên đường, một bầy lợn đi ngang qua. Một bà lão chăn lợn cầm cái gậy quất ngọn roi tre vào những con đi lạc bầy. 



Brama quay lại để từ giã chúng tôi. Tôi tỏ ý muốn gặp ông ta lần nữa. Ông ta gật đầu bằng lòng. Tôi bèn mời ông ta đến nhà tôi chơi. Người bạn trẻ của tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy người đạo sĩ nhận lời đến chơi nhà tôi ngay chiều hôm đó. 

Chiều đến, tôi ngồi đợi Brama và sắp đặt sẵn trong trí những câu hỏi mà tôi sẽ đưa ra. Những điều ông ta thuật lại về cuộc đời của ông ta làm tôi thích thú và muốn tìm hiểu thêm về con người đặc biệt đó. 

Vừa nghe nói có ông ta đến, tôi liền bước ra hàng ba và chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ để tỏ thiện chí đối với ông ta và cũng vì tôi muốn tỏ ra tôn trọng phong tục bản xứ. 

Brama theo tôi vào phòng khách và ngồi xuống sàn gạch, hai chân xếp bằng. Tôi mời ông ta ngồi trên bộ ván gỗ, nhưng ông ta từ chối và bảo thích ngồi dưới sàn gạch hơn. Tôi tỏ lời cám ơn ông ta về cuộc thăm viếng và mời ông ta dùng một ít bánh trái. Ông ta lẳng lặng ngồi ăn. 

Khi ông ta đã dùng xong trà bánh, tôi thấy có bổn phận nói qua đôi chút về mình để ông ta biết được lý do vì sao tôi đường đột muốn làm quen với ông ta. 

Trong vài câu vắn tắt, tôi thổ lộ với ông ta về những hoàn cảnh và những sức mạnh huyền bí đã dắt dẫn tôi đến với xứ Ấn Độ. Brama im lặng ngồi nghe tôi nói đến khi dứt câu chuyện, ông ta mới bước đến gần, thân mật đặt một bàn tay lên vai tôi và nói: 

– Tôi rất thích thú khi được biết rằng ở Tây phương vẫn có những người như bạn. Bạn sẽ không uổng phí thời giờ khi quyết định đến đây và chắc chắn sẽ học hỏi được rất nhiều. Ngày đầu tiên tôi được quen biết bạn, ấy là ngày sung sướng nhất của tôi. Bạn cứ hỏi điều gì bạn muốn biết, tôi sẽ vui lòng giải đáp nếu tôi có thể. 

Những lời này có vẻ rất hứa hẹn. Tôi bèn hỏi ông ta về lịch sử, tính chất và mục đích của pháp môn Hatha Yoga. Ông ta đáp: 

– Làm gì có ai biết được pháp môn này bắt nguồn từ bao giờ trong lịch sử? Những sách cổ Ấn Độ nói rằng pháp môn này trước hết do thần Shiva truyền dạy cho nhà hiền triết Gheranda. Vị này mới truyền lại cho nhà hiền triết Marteyanda. Đến lượt vị sau này truyền dạy lại cho các đệ tử và từ đó nó được lưu truyền cho hậu thế trải qua hàng bao nhiêu ngàn năm. Nó có mấy ngàn năm lịch sử, chúng tôi không được biết rõ và cũng không cần biết điều đó, mặc dầu chúng tôi luôn tin rằng trong tất cả các môn Yoga thì môn này là xuất hiện sớm nhất. Thật vậy, vào thời kỳ cổ xưa nhân loại cũng đã rơi vào một tình trạng sa đọa đến nỗi các bậc thánh nhân phải phát minh ra một phương pháp giải thoát tâm linh mà sự thực hành lại áp dụng trước hết cho thể xác. Pháp môn này chỉ được một số ít môn đồ hiểu rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông những người phàm tục thì dễ hiểu sai lầm. Vì những môn đồ chân chính ngày càng hiếm, nên những sự tập luyện trái phép, những lối tu khổ hạnh điên rồ thường bị gán một cách sai lầm cho pháp môn Hatha Yoga mà cũng không có ai đưa ra lời cải chính nào. 

Bạn hãy đi lên tận Bénarès, bạn sẽ thấy có những người nằm suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa và móng tay mọc dài đến hơn nửa thước! Người ta nói rằng những người này thực hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy. Trái lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người đời khâm phục. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Họ chỉ là những kẻ bày trò lạ mắt ở giữa chợ để kiếm ăn. Chỉ có thế thôi. 

– Nhưng ta có nên phiền trách họ chăng? Sự thật là, nếu những nhà đạo sĩ chân tu ngày càng hiếm hoi và luôn giấu kín những bí pháp chân truyền của họ, thì những sự sai lầm và lạm dụng kể trên làm sao tránh khỏi? 



Brama nhún vai đáp: 

– Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu ra trước mắt mọi người? Không, người ta cần cất giữ những của quí ấy trong kho tàng và giấu kín trong chốn thâm cung. Còn sự quý giá của pháp môn Yoga thì có kho tàng nào có thể so sánh được? Vậy chúng tôi có nên đem ra phơi bày ở giữa chợ hay chăng? Kẻ nào muốn biết, hãy tự ra công tìm lấy. Đó là phương pháp chọn lọc tốt nhất. Những sách cổ Ấn Độ luôn dặn dò sự chân truyền bí pháp cho những đệ tử thâm niên đã từng trải qua nhiều thử thách. Khoa Yoga của môn phái chúng tôi là môn bí mật nhất, bởi vì nó đầy sự nguy hiểm không những đối với môn đồ, mà còn đối với kẻ phàm tục. Vậy bạn tưởng rằng tôi được phép tiết lộ cho bạn những điều khác hơn là những nguyên tắc sơ đẳng hay chăng, và dẫu cho những điều sơ đẳng này, liệu có thể nói ra mà không đắn đo cẩn thận hay sao? 

– Tôi hiểu. 

– Tuy nhiên, có một phần của pháp môn Yoga mà tôi có thể nói cho bạn nghe. Đó là phương pháp luyện ý chí trở nên mạnh mẽ và thân thể được cường tráng để có thể bước qua những giai đoạn khó khăn trên đường đạo. 

– A! Đó là điều mà bên Âu Tây có nhiều người muốn biết. 

– Môn phái chúng tôi có gần hai mươi phép tập luyện, gọi là những tư thế, tiếng Phạn gọi là Asama, để tăng cường sức mạnh cho những bộ phận và cơ quan trong thân thể, và để chữa trị hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Mỗi tư thế đó ảnh hưởng đến những bí huyệt trong hệ thần kinh, và những bí huyệt này lại tác động đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt động mạnh mẽ trở lại. 

– Môn phái của ngài có dùng thuốc men để chữa bịnh chăng? 

– Nếu cần, chúng tôi cũng dùng đến một vài loại cỏ thuốc, và thường hái những loại cỏ ấy vào tuần trăng lên. Chúng tôi có bốn phương pháp để giữ cho thân thể luôn luôn khỏe mạnh cường tráng. Trước hết, là phép nghỉ ngơi để làm xoa dịu hệ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp mà các bạn có thể cho là kỳ dị, nhưng có hiệu lực rất tốt. Sau cùng là phép khí công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở. 

Tôi đề nghị ông ta biểu diễn cho xem một vài phép tập luyện. Brama mỉm cười và nói: 

– Những điều tôi sẽ chỉ cho anh đây không có gì là bí mật. Chúng ta hãy bắt đầu bằng phép nghỉ ngơi. Điều này chúng ta có thể học được từ loài mèo. Thầy tôi thường để con mèo ngồi giữa các đệ tử và giảng giải cho họ thấy được những ưu điểm trong tư thế của nó khi ngồi yên bất động. Người dạy họ hãy quan sát nó một cách tỉ mỉ khi nó ngồi ngủ trưa hoặc ngồi rình chuột. Người chỉ cho họ thấy rằng con mèo biết cách dùng sức. Nó biết bảo tồn sinh lực, không để tiêu hao, phí phạm một chút sinh lực nào. Đôi khi các bạn tưởng rằng mình biết cách nghỉ ngơi, nhưng sự thật là các bạn không biết. Bạn ngồi trên ghế một lát, rồi ngả về bên nọ, quay sang bên kia, hoặc tréo chân chữ ngũ, rồi lại duỗi thẳng hai chân ra. Mặc dầu bạn vẫn ngồi trên ghế, bề ngoài trông có vẻ thoải mái, nghỉ ngơi, nhưng thật ra trí óc bạn có nghỉ ngơi được không? Phải chăng đó chỉ là một hình thức hoạt động âm thầm? 

– Đó là một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến. 

– Loài vật biết phép nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng ít người biết được phép này. Đó là vì loài vật sống theo bản năng, mà bản năng chính là biểu hiện của tự nhiên. Còn con người thì được hướng dẫn bằng lý trí. Nhưng vì con người phần nhiều không kiểm soát được bộ óc của họ, nên hậu quả là hệ thần kinh và cơ thể đều bị ảnh hưởng, và bởi đó họ không hề biết cách nghỉ ngơi một cách thật sự. 

– Bây giờ phải làm thế nào? 

– Việc trước tiên mà bạn phải tập luyện không gì khác hơn là ngồi xếp bằng theo kiểu Đông phương. Ghế bành tuy rất hữu ích cho khí hậu lạnh lẽo ở các xứ miền bắc, nhưng bạn phải tập ngồi không có ghế trong thời gian luyện tập để chuẩn bị nhập môn vào khoa Yoga. Phép ngồi của chúng tôi thật ra là thoải mái nhất. Sau khi làm việc hay đi bộ, nó đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để tập ngồi là trải chiếu dưới đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và đừng co bắp thịt lại. 

Như vậy, phép tập trước tiên là hãy ngồi như thế và giữ cho toàn thân yên lặng, trừ ra hơi thở nhẹ và đều. Khi đã giữ được thế ngồi đó, bạn hãy để cho trong lòng yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghỉ ngợi gì đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy tập trung tư tưởng vào một đối tượng có sức cuốn hút mạnh, chẳng hạn như một bức tranh rất đẹp hay một đóa hoa. 

Tôi rời khỏi ghế bành và ngồi xuống đất, đối diện với Brama, theo đúng như phép ngồi mà anh ta vừa mô tả. Brama nói: 

– A! Đúng đấy. Bạn đã ngồi được khá dễ dàng, nhưng có nhiều người Âu không ngồi được vì họ chưa quen. Nhưng bạn có một điểm phải sửa lại: hãy giữ cho xương sống thẳng đứng, đừng cong về phía trước. Bây giờ, để tôi chỉ cho bạn xem một thế ngồi khác. 

Brama bèn đưa hai đầu gối lên đến tận cằm, nhưng vẫn giữ hai bàn chân tréo. Thế ngồi này làm cho hai bàn chân ông ta tách rời khỏi thân mình. Ông ta dùng hai bàn tay ôm chặt quanh hai đầu gối Tôi nói: 

– Thế ngồi này có vẻ giản dị quá nhỉ? 

– Trong phép nghỉ ngơi, chúng tôi không cần đến những gì khó khăn phiền phức. Thật vậy, những tư thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết quả rất tốt. Bạn hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình. Buông xuôi tất cả các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức nặng của toàn thân đè lên sàn gạch. Bạn không thể tập kiểu nằm này trên giường một cách đúng phép, vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng. Hãy dùng một cái chăn trải trên sàn gạch. Trong phép nằm nghỉ này, những sức mạnh hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp bạn bồi bổ sinh lực. Chúng tôi gọi đây là thế nằm của người chết. Khi đã quen thực hành, bạn có thể nghỉ ngơi trong những tư thế này suốt nhiều giờ nếu muốn. Những tư thế đó làm cho các thớ thịt không bị căng thẳng và làm dịu hệ thần kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não. 

– Thật vậy, những phép tập luyện mà ông nói dường như không có gì khác hơn là ngồi yên lặng theo cách này hay cách khác 

– Bạn tưởng rằng như thế là vô ích sao? Những người Âu Tây chỉ biết có hoạt động, nhưng phải chăng chính vì lẽ đó mà khinh thường sự nghỉ ngơi? Bạn tưởng rằng sự tịnh dưỡng của hệ thần kinh là vô ích sao? Thật ra, chính sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga, nhưng không phải chỉ có chúng tôi mới cần dùng đến nó, mà thế giới Tây phương của các bạn còn cần dùng đến nó nhiều hơn. 

Về điểm này, tôi phải thừa nhận những lời nói của Brama không phải là vô căn cứ. Ông ta nói thêm: 

– Bài học chiều nay như vậy đã đủ. Bây giờ tôi phải đi. 

Tôi cám ơn ông ta về bài học vừa qua và bày tỏ ý muốn được học hỏi thêm. Ông ta nói: 

– Sáng mai, anh hãy đến gặp tôi nơi bờ sông. 

Ông ta choàng lại cái khăn trên vai, và chắp hai bàn tay chào từ giã. 

Tôi đã gặp lại người đạo sĩ ấy nhiều lần. Theo ý muốn của ông ta, tôi đến tìm ông ta trong những lúc ông ta đi dạo mỗi buổi sớm mai trên bờ sông, nhưng khi tôi mời ông ta về nhà thì ông ta chỉ đến chơi với tôi vào những buổi chiều tối. 

Những đêm đó đã giúp ích cho tôi rất nhiều vì người đạo sĩ hình như sẵn sàng chia sẻ những sự hiểu biết cổ kính thâm sâu của ông ta dưới ánh trăng khuya hơn là dưới ánh mặt trời nóng gắt. 

Một ngày nọ, tôi hỏi anh ta về một điểm đã làm tôi thắc mắc từ lâu. Tôi vẫn tưởng rằng người Ấn Độ chỉ có màu da nâu hay đồng bạch, nhưng Brama lại có một màu da sậm gần như người da đen. Brama liền cho tôi biết rằng ông ta thuộc về một chủng tộc thổ dân bản xứ đã cư trú lâu đời nhất tại Ấn Độ. Khi chủng tộcAryen từ trung tâm châu Á vượt qua miền núi non phía tây bắc tràn xuống những vùng đồng bằng Ấn Độ để xâm chiếm xứ này, thì họ gặp những dân tộc bản xứ thuộc chủng tộc Dravidien và đẩy lui những dân tộc này xuống tận miền Nam. Giống dân Dravidien này cho đến nay vẫn là một dân tộc riêng biệt, trừ phi họ hấp thụ tôn giáo của giống dân Aryen đã chinh phục họ. Mặt trời nóng gắt vùng nhiệt đới đã làm cho màu da họ trở thành sậm gần như đen, và điều này kết hợp với một số yếu tố tương đồng khác đã làm cho một số nhà nhân chủng học lầm tưởng rằng họ có xuất xứ từ những chủng tộc ở châu Phi. Cũng như ngày xưa, khi họ còn làm chủ xứ Ấn Độ, người dân Dravidien vẫn còn để tóc dài và cột lại thành búi nhỏ ở phía sau gáy, và họ vẫn còn nói những thổ ngữ địa phương, quan trọng nhất là tiếng Tamoul



Brama quả quyết rằng những giống dân chinh phục thuộc chủng tộc Aryen có màu da đồng bạch đã hấp thụ được đạo pháp Yoga của giống dân Dravidientruyền lại, cũng như nhiều yếu tố văn hóa khác nữa. Nhưng tôi đã hỏi vài nhà trí thức Ấn Độ về vấn đề này thì họ đều cho là không đúng. Tôi xin nhường lại cho các nhà học giả giải quyết vấn đề này. 

Vì không có ý định viết một luận đề về phương pháp thể dục của khoa Yoga Ấn Độ, nên tôi chỉ nói sơ qua ở đây về những nguyên tắc đại cương của khoa này. Những tư thế (asana) mà Brama biểu diễn cho tôi xem, hoặc dưới bóng mát của hàng dừa trên bờ sông, hoặc ở tại nhà tôi, gồm những phép tập luyện rất lạ kỳ và khó khăn đến nỗi theo sự nhận xét của người Âu Tây thì có thể là lố bịch và không thể thực hiện. 

Một vài tư thế đó gồm có những phép tập luyện công phu như chống hai tay xuống đất, ép khuỷu tay vào hai bên hông và nâng đỡ sức nặng của toàn thân trên các đầu ngón tay. Tư thế này gọi là Mayurasana. Hoặc ngồi xếp bằng, tréo hai tay ra sau lưng và cố đưa hai bàn tay ra phía trước để nắm lấy hai ngón chân cái, gọi là Padmasana). Hoặc sắp xếp cả hai tay và hai chân đều tréo lại với nhau, làm thành một cái gút rất là phức tạp; hoặc vắt hai chân lên cổ hay lên vai; hoặc những thế ngồi vặn vẹo thân mình một cách kỳ dị không thể tưởng tượng... 

Nhìn xem Brama biểu diễn những cách tập luyện đó, tôi bắt đầu nhận thấy sự khó khăn của pháp môn Hatha Yoga. Tôi hỏi: 

– Tất cả có bao nhiêu tư thế? 
– Pháp môn Hatha Yoga có tất cả 84 tư thế, nhưng tôi chỉ mới học được 64 tư thế mà thôi. 

Anh ta vừa nói vừa biểu diễn một tư thế mới và giữ vững thế ngồi đó một cách tự nhiên dễ dàng như tôi ngồi trên ghế bành. Hình như đó là một thế ngồi quen thuộc của anh ta. Tôi thấy tư thế này tuy không khó làm, nhưng chắc chắn không phải dễ chịu: Chân trái xếp cong lại, bàn chân đụng vào hông bên mặt đặt dưới thân mình, chân mặt xếp lại chịu hết sức nặng của toàn thân. Tôi hỏi: 

– Tư thế này có ích lợi gì? 

– Kèm với một phép thở đặc biệt, người yogi sẽ cảm thấy khỏe khoắn và trẻ lại như hồi niên thiếu. 

– Vậy phép thở đó như thế nào? 

– Tôi không được phép tiết lộ điều đó. 

– Nhưng làm như vậy có mục đích gì? 

– Vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế nào đó trong thời gian bao lâu không quan trọng. Nhưng chính sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư thế đó một cách đúng phép mới là quan trọng, vì điều đó làm khơi dậy những sức mạnh tiềm tàng trong mỗi con người. Những sức mạnh đó là bí mật của thiên nhiên và chỉ hoàn toàn phát triển khi có kèm theo những phép luyện hơi thở, vì hơi thở có những công năng rất nhiệm mầu. Sự khơi dậy những sức mạnh tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga. Có những tư thế khác giúp cho chúng ta rèn luyện các giác quan và tinh thần, vì ai cũng biết rằng tinh thần con người ảnh hưởng đến thể xác. Trong những giai đoạn cao siêu của pháp môn Yoga, khi người hành giả phải tham thiền nhập định trong nhiều giờ thì tư thế ngồi là một yếu tố rất quan trọng, vì nó giúp cho sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp thêm sức tinh tấn cho người hành giả và tăng cường rất nhiều năng lực ý chí. Như thế, bạn có thể thấy pháp môn Hatha Yoga có ích lợi biết là dường nào! 

– Còn những thế ngồi vặn vẹo thân mình như thế là để làm gì? 

– Bạn nên biết rằng có những trung tâm bí yếu của hệ thần kinh nằm rải rác nhiều nơi trong thân thể. Mỗi tư thế đều có công năng gây ảnh hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ tác động vào các bí huyệt đó mà ta có thể gây ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể, cũng như đến sự hoạt động của trí não. Những thế ngồi vặn vẹo đó là để tác động đến những bí huyệt của hệ thần kinh, vì ngoài ra người ta không thể dùng cách nào khác. 

Tôi bắt đầu nhận định một cách rõ ràng hơn về những nguyên tắc căn bản của môn thể dục Hatha Yoga. Môn thể dục này so với những phương pháp thể dục Âu Mỹ khác nhau thế nào, đó là một điều lý thú mà chúng ta nên biết. Tôi bèn hỏiBrama điều đó, ông ta nói: 

– Tôi không được biết rõ về các phương pháp ở Âu Mỹ, nhưng tôi có nhìn thấy những quân nhân Anh tập luyện ở một doanh trại gần Madras. Nhìn họ luyện tập, tôi nhận ra được mục đích của các huấn luyện viên. Dường như mục đích chính của họ là tăng cường sức mạnh của các bắp thịt, vì người Tây phương các anh luôn luôn hoạt động bằng thể xác. Vì thế, tôi thấy họ vận động tay chân một cách hăng hái, mạnh bạo. Họ tiêu phí sinh lực một cách quá đáng vì muốn làm nở nang các bắp thịt và có được một sức mạnh dồi dào hơn. Điều này dĩ nhiên là thích hợp với khí hậu lạnh lẽo ở những xứ miền Bắc.

– Như vậy, theo ông thì hai phương pháp thể dục Đông và Tây khác nhau thế nào? 

– Cách tập theo pháp môn Yoga thật ra chỉ là những tư thế nghỉ ngơi, không cần vận động tay chân khi đã giữ vững được một tư thế ngồi hay đứng nhất định. Thay vì làm nở nang các bắp thịt để tăng thêm sức mạnh nhờ phát triển thể xác, chúng tôi nhắm đến mục đích tăng thêm sức chịu đựng dẻo dai bền bỉ của cơ thể. Chúng tôi cho rằng, việc làm nở nang các bắp thịt tuy là hữu ích, nhưng chính cái sức mạnh ý chí đã điều khiển và vận động các bắp thịt mới có giá trị nhiều hơn. Nếu tôi chỉ cho bạn một tư thế đặc biệt nào đó, một người Âu như các bạn thường sẽ thực hiện tư thế đó một cách vội vàng, nóng nảy. Như thế, bạn sẽ không thu hoạch được những sự lợi ích bằng cách biết thực hành đúng phép như một ngườiYogi

– Làm thế nào mới gọi là đúng phép? 

– Người Yogi thực hiện một tư thế theo cách chậm rãi, có ý thức, và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Để tôi chỉ cho anh xem một tư thế vận dụng cả toàn thân. 



Brama nằm ngửa xuống đất, duỗi thẳng hai chân và hai tay dọc theo thân mình. Rồi ông ta từ từ đưa hai chân lên, giữ hai đầu gối thẳng, cho đến khi hai chân gần làm thành một góc thẳng đứng so với sàn gạch. Ông ta đặt hai cùi chỏ chống trên sàn gạch, rồi dùng hai tay đỡ lấy thân mình. Sức nặng toàn thân khi ấy được chống đỡ bằng hai vai, gáy và đầu. Sau khi giữ vững tư thế lộn ngược đầu này trong chừng năm phút, người yogi mới từ từ hạ hai chân xuống, ngồi dậy và giải thích sự lợi ích của nó: 

– Tư thế này dồn máu xuống bộ não do trọng lượng của nó trong vài phút. Lúc bình thường, máu được đưa lên đầu do sức vận động của quả tim. Sự khác biệt giữa hai trường hợp là, trong tư thế này máu dồn xuống não tạo ra một ảnh hưởng xoa dịu. Đối với những người làm việc bằng trí não, như các nhà nghiên cứu, học giả, sinh viên, việc thực hành tư thế này sẽ đem lại sự khỏe khoắn cho trí não Nhưng người ta chỉ thu thập những lợi ích đó bằng cách thực hành đúng theo phương pháp chứ không phải làm một cách hấp tấp vội vàng như người Âu Tây các bạn. 

– Nếu tôi không lầm, thì ông muốn nói rằng phương pháp Yoga giữ thân thể trong một trạng thái yên tĩnh và thăng bằng, còn phép tập luyện nghiêng về sự vận động của Tây phương làm cho thân thể bị náo động? 

Brama đồng ý: 

– Đúng là như vậy. 



Brama còn biểu diễn cho tôi xem vài tư thế khác nữa và giải thích những sự ích lợi của mỗi phép tập luyện. Tôi được biết một tư thế có công dụng tăng cường tủy sống, chữa các chứng thần kinh suy yếu và giúp cho máu huyết được lưu thông điều hòa. Trong một tư thế khác, bí huyệt thần kinh ở cổ, vai và chân được kích thích một cách mạnh mẽ và tạo ảnh hưởng rất tốt cho bộ ngực. 
Người phương Tây hiện nay thường xem người Ấn Độ như một dân tộc chậm tiến, di sản của một khí hậu nóng bức và sự nghèo túng. Nhưng họ sẽ phải lấy làm ngạc nhiên khi biết mình đã hoàn toàn nhầm lẫn, vì xứ Ấn Độ từ đời thượng cổ đã từng phát minh ra một phương pháp thể dục tinh vi và huyền diệu đến thế. Chúng ta biết rằng những phương pháp thể dục Âu Tây cũng có giá trị rất lớn, nhưng có ai dám kết luận rằng nó đã được hoàn toàn? Ai dám nói rằng nó không còn gì phải cải tiến thêm nữa về các phương diện phát triển cơ năng, bảo tồn sức khoẻ và ngăn ngừa bệnh tật? Biết đâu rằng nếu Tây phương áp dụng phương pháp khoa học để khảo cứu về môn Hatha Yoga như một phép dưỡng sinh mầu nhiệm để giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về khoa sinh lý học được hoàn bị hơn, và đưa chúng ta tiến thêm một bước trên con đường đi tìm một đời sống lành mạnh? 

Tuy nhiên người ta phải nhìn nhận rằng chỉ có khoảng hơn một chục tư thế Yogalà dành cho việc tập luyện và thực hành một cách phổ biến đối với mọi người. Còn lại hơn bảy mươi tư thế khác đều rất khó khăn, càng tìm hiểu lại càng thấy dị kỳ hơn, chỉ có thể được luyện tập bởi những thanh thiếu niên hăng hái, hãy còn trẻ trung và dẻo dai. Brama cũng nhìn nhận như vậy: 

– Tôi đã khổ công tập luyện mỗi ngày suốt mười hai năm mới có thể nhuần nhuyễn được tất cả 64 tư thế mà tôi biết. Tôi có sự may mắn là bắt đầu tập khi còn trẻ, vì một người đã lớn tuổi mới bắt đầu tập có thể gặp nhiều sự nguy hiểm. Những bắp thịt và gân xương của họ đều đã cứng và không quen vận động nên dễ bị đau đớn. Tuy thế, với sự kiên tâm bền chí người ta cũng có thể thu được những kết quả rất mỹ mãn. 

Brama ngừng một lúc và nói tiếp: 

– Người phương Đông chúng tôi nó thói quen tập ngồi kiết già từ thuở nhỏ. Đó là thế ngồi căn bản, nền tảng cho tất cả những tư thế khác, và có một ảnh hưởng rất tốt. 

Nói xong, ông ta ngồi kiết già hai chân xếp bằng giống như thế ngồi của tượng Phật mà tôi đã thấy. Ông ta giải thích: 

– Thế ngồi này còn được gọi là tư thế hoa sen. Nó rất quan trọng và được chọn làm thế ngồi của các đạo sĩ lúc tham thiền. Nó giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó hành giả không bị té ngã khi đã hoàn toàn xuất thần nhập định. Bạn hãy nhìn xem, trong tư thế hoa sen này, hai chân xếp lại tạo thành một nền tảng vững chắc nâng đỡ cả thân mình. Nếu thân mình không vững thì tâm thần ắt phải xao động và phân tán, còn trong tư thế này thì hành giả cảm thấy an ổn và tự tin. Vì thế, nó giúp ta dễ tập trung tư tưởng, và đó là điều quan trọng nhất trong công phu tập luyện. Chúng tôi thường dùng thế ngồi này để luyện hơi thở, vì sự phối hợp này làm kích thích một luồng nội hỏa tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho hành giả phát triển một vài năng lực đặc biệt.

Câu chuyện của chúng tôi đến đây chấm dứt. Brama đã biểu diễn cho tôi xem một loạt các tư thế khó khăn, những thế ngồi vặn vẹo lạ lùng. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, quả thật anh ta đã hoàn toàn làm chủ được thể xác. Liệu có người Âu Tây nào đủ kiên tâm bền chí để thực hành những phép tập luyện khó khăn và phức tạp đến thế? Liệu có người Âu Tây nào chịu dành đủ thời gian để tập luyện pháp môn này?
---o0o---
CHƯƠNG 04 : PHÁP MÔN YOGA VÀ VẤN ĐỀ SỐNG CHẾT
Brama mời tôi đến nhà chơi. Ông ta sống trong một cái chòi tranh tự mình dựng lên, nằm riêng biệt ở một góc cuối khu vườn nhà của bà lão. Ông ta thích sống như vậy để được tự do thoải mái hơn trong mọi sự sinh hoạt. 

Tôi đến chơi vào một buổi chiều. Nhà ông nằm ở tận cùng của một con đường đầy bụi bặm và có vẻ rất nghèo nàn. Tôi ngừng một lúc trước cửa, nhìn tường nhà cũ kỹ quét vôi trắng với một cái gác bằng cây có cửa sổ. Tôi đẩy cánh cửa lớn, tiếng động làm vang khắp nhà. Một bà già vẻ mặt hiền lành vui vẻ bước ra và nghiêng đầu chào tôi nhiều lần. Bà cụ dắt tôi đi qua một hành lang tối tăm dẫn đến nhà bếp, thông ra sau vườn. 

Trong vườn có một cây cổ thụ cành lá sum suê, che dưới bóng mát của nó là một cái giếng cũ. Phía bên kia giếng có một chòi tranh, một phần ẩn khuất dưới bóng cây mát rượi. Chòi làm bằng vật liệu nhẹ, cột tre và lợp tranh. Bà lão chủ nhà da mặt cũng sạm đen như màu da của Brama, có vẻ bận rộn, nói một tràng dài tiếngTamoul với người trong chòi. Một tiếng nói thanh như chuông mà tôi đã quen tai từ bên trong vọng ra. Cánh cửa chòi từ từ hé mở, người đạo sĩ hiện ra trước cửa và vui vẻ mời tôi bước vào. 

Ông ta vẫn để cửa mở, bà già đứng lại trước cửa độ vài phút, mắt nhìn tôi một cách chăm chú và nét mặt lộ vẻ hân hoan sung sướng. 

Trong chòi không có bàn ghế chi cả, ngoại trừ một chiếc giường thấp không có nệm, đặt sát vào vách phía trong, và một tấm gỗ lớn đặt trong góc, trên đó có bày sách vở và giấy tờ. Một bình đựng nước bằng đồng treo bằng một sợi dây từ trên trần nhà thòng xuống, và một chiếc chiếu lớn trải dưới đất. 

Brama chỉ chiếc chiếu mời tôi ngồi, xin lỗi vì nhà không có ghế. Chúng tôi cả ba người đều ngồi xếp bằng, Brama và tôi với một thanh niên Ấn đi theo tôi để làm thông ngôn. Trong vài phút, bà lão bước ra ngoài và trở lại với một bình trà nóng, đặt lên một tấm khăn trắng trải trên chiếc chiếu cùng với bánh ngọt, cam, chuối đựng trên chiếc mâm nhỏ bằng đồng. 

Trước khi mời tôi dùng trà, người đạo sĩ hai tay cầm một tràng hoa kết thành vòng quàng lên cổ tôi. Tôi tỏ ý muốn từ chối, vì tôi biết rằng phong tục Ấn Độ dành cái danh dự này cho những vị khách quý, mà tôi thì không dám xem mình là hạng khách đặc biệt đó. Brama liền mỉm cười và nói: 


– Bạn ơi! Bạn là người Âu đầu tiên đến nhà tôi và cũng là người Âu đầu tiên làm bạn với tôi. Bà dì tôi và tôi đều lấy làm vui mừng mà đón tiếp cái danh dự này. 

Thế là tôi đành phải nhận lấy vòng hoa trên cổ. Cũng may mà các bạn tôi ở châu Âu không nhìn thấy cách ăn vận dị kỳ của tôi như hôm ấy. Chúng tôi vừa uống trà, ăn bánh và vừa nói chuyện. Brama cho biết rằng chòi tranh và đồ vật dụng bằng gỗ trong nhà đều do tự tay làm lấy. 

Những giấy tờ để trên tấm gỗ phẳng lớn khêu gợi sự tò mò của tôi. Đó là những tờ giấy màu hồng, trên đó có viết chữ bằng mực xanh. Brama như đoán được ý tôi, bèn đưa cho tôi xem vài tờ và giải thích rằng đó là loại chữ Tamoul cổ xưa, thông dụng trong văn chương cách đây đã nhiều thế kỷ nhưng ngày nay rất ít người biết, trừ ra một vài nhà khảo cổ hoặc những người được chân truyền từ các bậc thầy truyền thống. Brama nói thêm: 

– Tôi viết những đoạn văn này tối qua. Đó là những phần cương yếu trong kinh nghiệm của bản thân tôi về pháp môn Yoga, hoặc những bài thơ tôi làm trong những lúc có nguồn cảm hứng tâm linh. Có một số thanh niên thường tự nhận là đệ tử của tôi, thường đến đây để xem những bài thơ đó và rất thích. 

Nói xong, Brama lấy một tập giấy được trình bày trang trí rất nên thơ, gồm có vài tờ giấy màu hồng viết chữ bằng mực đỏ và xanh và được cuốn tròn và buộc lại bằng một sợi dây màu xanh. Anh ta vừa mỉm cười vừa đưa cho tôi và nói: 

– Tôi viết cái này để tặng riêng cho bạn. 

Người thông ngôn cho biết rằng đó là một bài thơ trường thiên dài tám mươi bốn câu, nhưng vì viết bằng cổ tự nên anh ta không thể dịch được. Dầu sao, món quà này cũng làm tôi rất vui, vì nó biểu lộ một cảm tình đặc biệt mà người Yogi chân chính đã dành cho tôi. 

Sau những câu chào hỏi đầu tiên, bà lão lui ra ngoài và chúng tôi chuyển đề tài sang những câu chuyện sâu xa hơn. Tôi trở lại vấn đề khí công, hay phép luyện hơi thở mà những nhà đạo sĩ xem là một điều rất quan trọng. Brama liền ngắt lời tôi và nói rằng ông ta không được phép tiết lộ nhiều hơn những gì đã nói, nhưng có thể nói thêm vài chi tiết thuộc về phần lý thuyết của pháp môn Yoga liên quan đến điểm này. Ông ta nói:

– Theo tự nhiên, con người thở với một nhịp độ khoảng 21.600 lần trong một ngày đêm (tức khoảng 15 lần trong một phút). Một sự hô hấp quá nhanh và hấp tấp làm gia tăng nhịp độ này và thâu ngắn sự sống. Một sự hô hấp chậm rãi, dài và đều đặn sẽ giúp kéo giãn nhịp độ đó ra và kéo dài sự sống. Mỗi hơi thở chậm rãi và thong thả sẽ mang lại hiệu quả nuôi dưỡng cơ thể tốt hơn rất nhiều lần so với một hơi thở gấp gáp và hối hả, và nhờ đó giúp con người có thể kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Vì thế, người yogi thở chậm hơn người thường nhưng có sức khỏe tốt hơn. Về điều này, tôi chỉ có thể nói đến đây thôi. 
Sự dè dặt này làm tôi thất vọng. Nhưng tôi hiểu rằng khi một pháp môn cần phải được giữ bí mật một cách chặt chẽ với những người trần tục thì hẳn là phải có những lý do hợp lý nhất định cho sự ngăn cấm đó. Tôi nhớ lại trường hợp tổn thương của chính Brama khi luyện tập khí công mà không có người truyền dạy, và ý thức ngay được mối nguy hiểm cho những ai chỉ tò mò muốn tìm hiểu pháp môn này chứ không thật lòng muốn luyện tập nó như một cứu cánh của đời sống. Như vậy, ngày nào mà tôi vẫn còn bị xem như một trong những kẻ tò mò kia thì chắc chắn tôi sẽ không thể học hỏi được gì nhiều hơn về pháp môn huyền diệu này. Brama nói tiếp: 

– Những bậc chân sư của chúng tôi luôn nắm được chìa khóa của phép khí công này. Họ biết rằng hai hệ thống hô hấp và tuần hoàn có liên quan chặt chẽ với nhau. Họ cũng biết rằng tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai hệ thống này, và họ nắm được bí quyết làm tăng cường sức mạnh tâm linh bằng cách kiểm soát hơi thở. Ta nên biết rằng, hơi thở chính là sự biểu lộ về mặt vật thể của một sức mạnh vô hình tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là phần cốt yếu điều khiển mọi sinh hoạt của thể xác. Chính cái sức mạnh đó luôn tiềm ẩn vô hình trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi sức mạnh ấy rời khỏi xác thân thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. 

Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp ta làm chủ được phần nào nguồn sinh lực vô hình đó. Và khi sự kiểm soát thể xác được rèn luyện đến mức triệt để, có thể kiểm soát được cả sự vận động của hơi thở và quả tim, thì hành giả sẽ có thể kiểm soát toàn bộ sự sống của mình, kể cả phần tinh thần một cách rất dễ dàng. Vì thế, bạn đừng nên lầm tưởng rằng những nhà hiền triết thời cổ xưa chỉ nghĩ riêng đến phần thể xác mà thôi khi các ngài phát minh ra pháp môn Hatha Yoga này. 

Tôi quả thật không biết các nhà hiền triết thời xưa nghĩ gì và muốn gì, nhưng ngay trong lúc đó tôi chỉ bị cuốn hút ngay bởi câu anh ta vừa nói. Tôi liền hỏi: 

– Phải chăng ông vừa nói rằng người ta có thể kiểm soát được sự vận động của quả tim? 

– Đúng vậy, không những quả tim mà tất cả những cơ quan nội tạng khác trong cơ thể như gan, dạ dày, phổi, thận... đều có thể kiểm soát được tùy theo ý muốn. 

– Bằng cách nào? 

– Bằng sức mạnh của ý chí phối hợp với những phép luyện tập thích nghi. Những phép luyện tập này tự nhiên là thuộc về trình độ cao đẳng của pháp môn Yoga. Những phép luyện tập này rất khó và ít người có thể luyện tập thành công, ngay cả khi được các bậc chân sư chỉ dạy. Tuy nhiên, một khi bạn luyện tập thành công thì kết quả có thể vượt ngoài sức tưởng tượng của những người bình thường. Nhờ những phép luyện tập này mà tôi đã có thể kiểm soát được phần nào hoạt động của quả tim, và nhờ kiểm soát được quả tim nên tôi cũng có thể chế ngự được một số bộ phận khác. 

– Điều ấy thật là lạ lùng và quả là ngoài sức tưởng tượng của tôi. 

– Vậy sao? Vậy thì bạn hãy đặt bàn tay trên ngực tôi, ở ngay chỗ quả tim đây này. 



Brama vừa nói vừa chuyển sang một thế ngồi lạ lùng và nhắm mắt lại. Tôi làm theo và đợi trong vài phút, không thấy có điều gì lạ. Nhưng dần dần tôi nhận thấy quả tim ông ta đập chậm lại, mỗi lúc một chậm hơn, chậm hơn nữa, trong khi sự hồi hộp và kinh ngạc làm cho tim tôi đập mỗi lúc một nhanh hơn. Và cuối cùng tôi bỗng rùng mình kinh hãi khi nhận thấy quả tim ông ta đã ngưng đập hoàn toàn. Tôi bắt đầu đếm: hiện tượng đó kéo dài hơn bảy giây đồng hồ! 

Phải chăng đây là một ảo tưởng? Nhưng không, tôi thử sờ mó, bóp nắn da thịt mình, tôi vẫn tỉnh táo hoàn toàn chứ không mê sảng! Tôi cảm thấy bớt lo lắng khi quả tim ông ta bắt đầu đập trở lại, dường như nó vừa sống lại, nhịp đập mỗi lúc một nhanh hơn và rồi trở lại bình thường. 

Vài phút sau, người yogi mới tỉnh lại và mở mắt ra. Ông ta hỏi: 

– Bạn có nhận thấy gì không? 

– Có, tôi nhận thấy rất rõ. 

Ông ta lại sắp tiết lộ thêm điều kỳ lạ gì nữa chăng? Dường như ông ta đọc được tư tưởng tôi nên chậm rãi nói tiếp: 

– Đó là chưa thấm vào đâu so với những điều mà thầy tôi làm được. Ngài có thể cô lập một huyết quản, và thúc đẩy hoặc ngăn chặn sự lưu thông của máu trong đó. Tôi cũng làm như vậy được một phần nào, nhưng không bằng thầy tôi. 

– Ông có thể chứng tỏ cho tôi thấy điều đó được chăng? 



Brama lặng lẽ đưa tay cho tôi và bảo tôi bắt mạch nơi cổ tay. Tôi nhận thấy mạch máu ông ta đập chậm lại rõ rệt, rồi ngưng hẳn. Tôi hồi hộp chờ đợi. Một phút, hai phút... trôi qua trong khi tôi chăm chú đếm từng giây đồng hồ. Ba phút... rồi đến ba phút rưỡi, tôi cảm thấy mạch máu lại bắt đầu chuyển động, lúc đầu còn hơi chậm, kế đó nhanh dần và trở lại bình thường. Tôi buột miệng nói: 

– Thật lạ quá ! 

Ông ta đáp một cách tự nhiên: 

– Như vậy cũng chưa lấy làm lạ! 

– Ông có thể cho tôi xem điều gì lạ hơn nữa chăng? 

Lần này, Brama có vẻ hơi do dự: 

– Được, nhưng đây là lần cuối cùng và bạn hãy bằng lòng với bấy nhiêu đó. Bây giờ tôi sẽ ngưng hơi thở. 

Tôi hỏi một cách lo lắng: 

– Nhưng ông có thể chết! 

Câu nói của tôi dường như không làm ông ta nản lòng chút nào. Ông ta bảo tôi: 

– Bạn hãy để bàn tay dưới hai lỗ mũi của tôi. 

Tôi làm y theo lời. Bàn tay tôi cảm nhận được một cách rõ rệt hơi thở ấm của ông ta. Brama nhắm mắt lại và ngồi yên không cử động như một pho tượng đá. Ông ta sắp nhập định chăng? Tôi không dám nhúc nhích bàn tay. Dần dần, hơi thở ông ta chậm lại rồi ngưng hẳn. Tôi nhìn kỹ vào hai cánh mũi, cặp môi, hai vai, cho đến bộ ngực của ông ta, nhưng không có gì cử động, không có dấu hiệu nào chứng tỏ rằng có hơi thở. Nhưng đó chưa phải là những bằng chứng tuyệt đối, tôi nghĩ vậy, nên tôi muốn tìm bằng chứng khác. 


Trong nhà không có một tấm gương soi nào, nhưng tôi thấy gần đó có một cái dĩa đựng tro thuốc lá bằng đồng sáng bóng. Tôi bèn cầm lấy và đưa vào phía dưới hai lỗ mũi của người yogi. Hoàn toàn không có dấu hiệu của hơi thở, vì nếu có thì nó phải làm mờ cái mặt dĩa bằng đồng bóng loáng này. 

Thật kỳ lạ! Trong cái chòi tranh này, hiện tôi đang chứng kiến một sự kiện lạ lùng, một hiện tượng mà các nhà bác học Âu Tây nếu biết đến thì nhất định phải bị lôi cuốn vào sự tìm tòi khảo cứu! Sự thật rõ ràng ngay trước mắt tôi, với một bằng chứng hiển nhiên: pháp môn Yoga không phải là một điều huyễn hoặc. 

Khi Brama tỉnh dậy và trở lại trạng thái bình thường, ông ta có vẻ hơi mệt mỏi. Ông ta hỏi với một nụ cười mệt nhọc: 

– Bạn có hài lòng chăng? 

– Rất hài lòng, nhưng tôi không hiểu được gì cả. 

– Rất tiếc là tôi cũng không giải thích được gì cho bạn. Phép ngưng thở này chỉ dành cho những bậc hành giả đã tiến rất xa trên đường tu tập pháp môn Yoga. Đối với một người Âu, đó có thể bị xem là một sự tập luyện điên rồ, nhưng đối với người phương Đông chúng tôi thì nó có một tầm quan trọng rất lớn. 

– Tuy thế, hiện nay ở các trường học người ta vẫn dạy cho học sinh rằng con người không thể sống được nếu không có sự hô hấp. Điều đó không phải là điên rồ chứ? 

Anh ta vừa nói vừa mỉm cười: 

– Không, nhưng nói như thế không hoàn toàn đúng. Chẳng hạn như trường hợp của tôi, tôi có thể ngưng thở suốt hai giờ đồng hồ nếu muốn. Tôi vẫn thường làm như thế, nhưng bạn thấy đấy, tôi vẫn chưa chết. 

– Tôi không muốn hỏi nhiều hơn, vì cho dù ông nói có lẽ tôi cũng không đủ sức để hiểu, nhưng ông có thể cho tôi biết sơ qua đôi điều về phần lý thuyết được chăng? 

– Điều đó thì được. Chúng ta có thể lấy vài thí dụ ngay trong loài cầm thú. Đó là một phương pháp giảng dạy bằng cách so sánh rất đặc biệt của thầy tôi. Con voi thở chậm hơn con khỉ rất nhiều, và nó cũng sống lâu hơn. Hoặc có vài loại bò sát như con trăn chẳng hạn, khi so sánh với con chó bạn sẽ thấy cách thở của hai loài này khác nhau rất xa: con trăn thở chậm hơn và cũng sống lâu hơn. Như vậy, chúng ta thấy được là dường như có một mối tương quan giữa sự hô hấp và tuổi thọ. 

Bây giờ, chúng ta hãy đi xa hơn. Người ta thấy trên dãy Hy Mã Lạp Sơn có những con dơi ngủ suốt mùa đông. Chúng treo mình suốt nhiều tháng trên vách những hang núi và ngưng thở hoàn toàn cho đến khi tỉnh giấc vào mùa xuân. Loài gấu trên dãy Hy Mã Lạp Sơn đôi khi cũng nằm cứng đơ cả thân mình suốt mùa đông giá lạnh, dường như không còn dấu hiệu hoạt động nào cả. Cũng trên dãy Hi Mã Lạp Sơn là nơi khó tìm ra thức ăn vào những tháng mùa đông đầy tuyết phủ, người ta thấy trong những hang hố dưới đất có những con nhím ngủ một giấc dài qua nhiều tháng, mọi sự hô hấp đều ngưng bặt. Như vậy, tại sao con người không thể làm được điều mà loài vật vẫn thường làm một cách tự nhiên? 

Những điều nói trên kể ra cũng thật lạ lùng, nhưng có lẽ vẫn không thuyết phục tôi hoàn toàn bằng những sự biểu diễn của ông ta lúc nãy. Chúng ta vẫn quen cho rằng hơi thở là sự cần thiết tối thiểu cho sự sống, nên không dễ gì loại bỏ được quan niệm đó. Tôi nói: 

– Người Âu Tây chắc sẽ không bao giờ chấp nhận rằng sự sống vẫn có thể tiếp tục nếu người ta ngừng thở. 

– Nhưng sự thật là sự sống vẫn luôn tiếp tục. Sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức chuyển đổi mà thôi. 

– Ông có cho rằng người yogi tu luyện theo pháp môn này có thể kéo dài được sự sống hay chăng? 

– Tất nhiên là như vậy rồi. 

Brama nhìn tôi một cách lạ lùng và nói tiếp: 

– Tôi nhìn thấy nơi bạn có nhiều triển vọng tốt, vì thế nên tôi sẽ tiết lộ với bạn một điều bí mật, nhưng với điều kiện là... 

– Ông nói đi. 

– Bạn hãy hứa sẽ không tự mình tập luyện những gì khác hơn là những điều tôi có thể chỉ dạy cho bạn. 

– Tôi xin hứa. 

– Phải chăng từ trước đến giờ bạn vẫn tin chắc rằng hơi thở gắn liền với sự sống?

– Phải, tôi nghĩ như vậy. 

– Như thế, phải chăng là một điều hợp lý khi nói rằng việc kiểm soát hơi thở cũng chính là kiểm soát được sự sống? 

– Dường như là vậy. 

– Trong pháp môn Yoga, chúng tôi cũng không đưa ra lý thuyết gì khác hơn. Chúng tôi chỉ nói rằng, hành giả nào có thể kiểm soát và duy trì hơi thở hoàn toàn theo ý muốn sẽ có thể duy trì được nguồn sinh lực cần thiết để kéo dài sự sống. Bạn hiểu rõ chăng? 

– Tôi đang cố gắng để có thể hiểu được. 

– Bạn hãy tưởng tượng rằng người yogi có thể làm chủ hoàn toàn hơi thở không chỉ trong vài phút, mà là trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Vì bạn đã nhìn nhận rằng hơi thở gắn liền với sự sống, vậy phải chăng đây là một triển vọng hợp lý để con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn? 

Tôi phản đối:

– Nhưng vấn đề ở đây là tôi nhận thấy ông đã ngưng thở hoàn toàn!

– Đó là do sự “nhận thấy” sai lầm của bạn. Tôi chỉ thực sự ngưng thở trong ý nghĩa của hơi thở được mô tả theo cách thông thường, nghĩa là quá trình cung cấp dưỡng khí cho cơ thể. Nhưng vì sao cơ thể phải cần đến dưỡng khí? Đó là vì còn có những hoạt động về mặt thể chất. Khi toàn bộ cơ thể được kiểm soát và đưa vào một trạng thái ngưng nghỉ hoàn toàn thì dưỡng khí còn cần đến để làm gì? Hành giả yogi khi đạt đến trạng thái này chỉ còn duy trì sự sống trong tâm thức, không còn bất cứ sự trói buộc nào với thể xác. Khi đó, hơi thở của họ trở nên cực kỳ vi tế, đến mức mà những người bình thường không thể nào nhận biết được. Tuy vậy, sự sống không phải là chấm dứt. Vì thế, họ có thể hồi sinh bất cứ lúc nào, nghĩa là ra khỏi trạng thái nhập định đó mà thôi.

Tôi không còn biết nói sao. Làm sao có thể bảo rằng những điều đó là vô lý? Nhưng tất cả những điều đó đều vượt ngoài tầm những kiến thức khoa học cơ bản nhất của tôi, làm sao tôi có thể chấp nhận mà không có sự kiểm chứng lại một cách chặt chẽ? 

Những nhà thuật sĩ của phái luyện kim (Alchimistes) thời Trung cổ cũng đã từng nuôi mộng trường sinh bất tử, nhưng dưới ngọn lưỡi hái của thần chết, họ vẫn gục ngã từng người một ngay bên cạnh những lò luyện kim đơn để tìm thuốc phản lão hoàn đồng? Có lẽ Brama đang tự dối mình, nhưng có điều chắc chắn là anh ta không có ý định lừa dối tôi. Anh ta không hề có ý đến tìm tôi hay tìm kiếm một người đệ tử nào cả. Anh ta điên chăng? Không phải, vì anh ta lý luận mọi sự một cách hoàn toàn sáng suốt. Có một điều gì đó mơ hồ nhưng chắc chắn cho tôi biết là anh ta hoàn toàn không tự dối mình, nhưng tôi cũng không biết phải giải thích thế nào về những sự kiện vừa nhìn thấy. 

Như đọc thấu được sự hoang mang ngờ vực của tôi trong tư tưởng, Brama điềm đạm nói tiếp:

– Bạn không tin à? Bạn có nghe nói về một người thuật sĩ (fakir) đồng ý để cho vua Ranjit Singh chôn sống trong một huyệt xây bằng đá ở Lahore chăng? Khi đem chôn sống, có cả sự hiện diện của những viên sĩ quan Anh và nhà vuaSingh. Ngôi mộ được giao cho quân sĩ canh gác suốt ngày đêm trong sáu tuần lễ. Đúng ngày, người ta mới cạy nắp quan tài thì người thuật sĩ Ấn Độ từ trong chui ra vẫn còn sống khỏe mạnh! Bạn có thể kiểm chứng, vì tôi nghe nói rằng việc này đã được phúc trình cẩn thận và biên bản ghi chép vẫn còn lưu trữ trong văn khố của chính phủ Anh.



tải về 1.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương