ĐẢng cộng sản việt nam lịch sử §¶ng bé Vµ nh¢n d¢n x· T¢n hång 1930 2010


III. THỜI KỲ CHI BỘ TỔ CHỨC CHỐNG CÀN, CÙNG NHÂN DÂN TRONG HUYỆN TIẾN CÔNG ĐỊCH GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (1952-10-1954)



tải về 2.06 Mb.
trang4/16
Chuyển đổi dữ liệu11.08.2016
Kích2.06 Mb.
#17403
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

III. THỜI KỲ CHI BỘ TỔ CHỨC CHỐNG CÀN, CÙNG NHÂN DÂN TRONG HUYỆN TIẾN CÔNG ĐỊCH GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (1952-10-1954).

Đông - Xuân 1951-1952 quân dân ta mở chiến dịch Hoà Bình, thực dân Pháp phải tập trung đối phó. Đồng bằng bị sơ hở. Thực hiện chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng (phá cuộc tấn công Hoà Bình của địch “ngày 21-11-1951”) và lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, phối hợp với chiến trường chính bộ đội chủ lực của ta luồn sâu vào địch hậu, nhằm chỗ sơ hở, quan trọng của địch để tiêu diệt chúng. Mở đầu cho cuộc chiến đấu mới là việc bộ đội chủ lực (một bộ phận của đại đoàn 316) tiêu diệt bốt Đò (Gia Lộc), bốt Hoành Bồ (Thanh Miện) và bốt Đa Lộc (huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) và nhiều đồn bốt quan trọng khác, làm rung chuyển cả hệ thống đồn bốt giặc. Những thắng lợi trên đã có tiếng vang rất lớn cổ vũ tinh thần quân, dân ta.

Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh uỷ Hải Dương về việc “Tranh thủ thời cơ phát động quần chúng mở rộng khu du kích và kiến lập các khu du kích mới” (21-12-1951) và chỉ thị về “một tháng thi đua hoạt động mạnh” (12-2-1952) huyện uỷ và huyện đội Bình Giang đã quyết định phá hệ thống đồn bốt dọc đường 20 để mở rộng khu du kích phía tây bắc huyện.

Nhận được lệnh của cấp trên, dưới sự chỉ đạo của cán bộ huyện uỷ, huyện đội, chi uỷ Tân Hồng đã bàn kế hoạch diệt bốt phá tề trong xã, đồng thời kết hợp bao vây, chia cắt, kìm chân địch ở các bốt trong địa bàn gần xã. Phương án tác chiến của xã đã được rà xét thận trọng, kỹ càng. Phân công cấp uỷ, chính quyền phụ trách từng công việc cụ thể. Phối hợp với chiến thắng vang dội và liên tiếp của quân dân toàn tỉnh, toàn huyện, đêm 3-2-1952 bộ đội, dân quân du kích và hàng ngàn nhân dân trong huyện Bình Giang nổi trống mõ, tù tiến công phá 18 tháp canh, bốt nghĩa dũng trong một đêm. Trong đêm ấy ban chỉ huy xã đội, dân quân du kích cùng nhân dân đã san bằng các đồn bốt tại 3 thôn : Mộ Trạch, Tuyển Cử và My Cầu, thu vũ khí. Thắng lợi về quân sự của quân dân trong huyện cùng trong xã đã tạo ra bước phát triển mới có lợi cho phong trào.

Từ cuối năm 1951 đầu năm 1952 tình hình trong xã tương đối ổn định. Nay nhân đà chiến thắng cổ vũ, đồn bốt trong xã đã bị quét sạch, đây là thời cơ thuận lợi cho việc đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở địa phương lên một bước mới. Việc đầu tiên chi bộ rất quan tâm đến công tác xây dựng Đảng để làm nòng cốt lãnh đạo phong trào trong thời kỳ cách mạng mới. Chi bộ đã căn cứ vào đội ngũ đảng viên trong thời kỳ 1950-1951, mà xem xét, củng cố, nâng cao chất lượng đảng viên lên một bước. Toàn thể đảng viên trong chi bộ đều được học tập chỉ thị số 61 của ban chấp hành Trung ương Đảng. Qua học tập đội ngũ đảng viên được sàng lọc. Những đảng viên không còn đủ tiêu chuẩn được đưa ra khỏi Đảng. Những đảng viên do cầu an, bảo mạng không hoàn thành nhiệm vụ, năng lực kém, hoặc hoàn cảnh gia đình có khó khăn, từ trên cơ sở thực tế của mỗi người mà giáo dục, thuyết phục, giao công tác. Các tổ đảng ở các thôn cũng được chấn chỉnh cho sát hợp. Căn cứ vào tình hình thực tế của chi bộ, chi bộ đã phân công từng cấp uỷ, đảng viên phụ trách hoặc kiêm nhiệm từng nhiệm vụ cụ thể.

Cùng với củng cố chi bộ Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang cũng được củng cố đi vào hoạt động. Cùng với công tác tổ chức, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp, chi bộ chú ý gắn liền việc giáo dục tình hình, nhiệm vụ cách mạng của địa phương trong giai đoạn cách mạng mới. Trong công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng và tổ chức chi bộ đã động viên, cổ vũ những người có công. Đồng thời cũng nhanh thải những cán bộ kém phẩm chất. Qua đó đã xây được niềm tin tưởng phấn khởi trong quần chúng.

Thực hiện chủ trương của huyện uỷ Bình Giang về việc đẩy mạnh mọi hoạt động phối hợp với các chiến trường chính để giam chân và tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện cho chiến trường chính giành thắng lợi. Chi bộ Đảng căn cứ vào tình hình cụ thể của phong trào quần chúng và cơ sở của từng thôn để củng cố phong trào. Chi bộ chủ trương cho các thôn giáp bốt Sặt, bốt Mỹ Trạch vẫn giữ hình thức tề để đấu tranh hợp pháp với địch; các thôn khác cắt tề và chuẩn bị mọi điều kiện chiến đấu. Công tác địch vận cũng được các ban chi uỷ quan tâm để lôi kéo binh lính địch. Công tác quân sự được đặc biệt chú ý. Lực lượng du kích được củng cố và phát triển, trang bị thêm vũ khí, chuẩn bị lương thực đề phòng khi tác chiến; đào khoét, sửa sang hầm bí mật, giao thông hào, làng chiến đấu.

Từ sau thắng lợi chung của quân và dân toàn huyện, lực lượng dân quân du kích đã được củng cố, trưởng thành. Mọi người đều có tinh thần chiến đấu. Các đoàn thể quần chúng bước đầu đi vào hoạt động. Bộ máy chính quyền được tăng cường và hoạt động đều. Đặc biệt lực lượng vũ trang được tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng chí bí thư trực tiếp làm chính trị viên xã Đội.

Do đặc điểm xã Tân Hồng vẫn nằm sát vùng chiếm đóng. Tuy hệ thống đồn bốt trong xã đã bị phá, bọn giặc ở các đồn bốt khác co cụm lại, bớt càn quét nhưng xung quanh đều có các đồn bốt lớn và luôn ở thế bị bao vây tứ phía (các bốt Phủ, Mỹ Trạch, Kẻ Sặt, Nhữ Thị, Hà chợ … ). Trong thời gian phối hợp với chiến trường chính, địch vẫn dùng đủ mọi thủ đoạn để giằng co với ta. Chúng vẫn có những cuộc tập trung quân các đồn bốt mở một số cuộc càn quét vào các thôn xã tạm chiếm, các vùng du kích của ta nhất là các xã dọc đường 20. Sau khi thất bại trên chiến trường Hoà Bình, thực dân Pháp quay về củng cố đồn bốt, tăng cường bố phòng nhất là các vị trí then chốt dọc đường giao thông chiến lược. Chúng hạ thấp lô cốt cao, tăng thêm hầm ngầm, ụ boong ke rào dây thép gai, cài mìn tự động, trang bị thêm vũ khí hiện đại để chống lại sự hoạt động của ta. Đồng thời mở một số cuộc càn quét lớn ra vùng du kích, căn cứ du kích nhằm mục đích: Tiêu diệt lực lượng vũ trang, bán vũ trang của ta. Bắt thanh niên bổ sung cho quân số thiếu hụt. Cướp phá, vơ vét nhân tài, vật lực.

Ngày 22-4-1952 địch tập trung binh hoả lực lớn (tập trung 5 binh đoàn, 3 tiểu đoàn, 2 đại đội có 47 đại bác 105 ly và 37 ly, 500 xe cơ giới (có 30 xe tăng 50 xe lội nước) 4 tàu chiến, 15 cano 39 máy bay … ) mở trận càn Lạc Đà đánh vào khu vực nam Bắc sông Luộc. Chiến dịch trên địa bàn Hải Dương trong đó có hầu hết các xã thuộc huyện Bình Giang. Từ ngày 6 đến hết ngày 25-5-1952 hành quân càn quét đến đâu địch đều dùng hoả lực mạnh, kết hợp với pháo binh xe tăng tàn phá để uy hiếp tinh thần nhân dân ta.

Nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ của huyện uỷ, có sự chuẩn bị về tư tưởng, kế hoạch cụ thể kỹ càng nên khi có chiến sự xẩy ra, lúc đầu giặc xuất kích ta cũng còn hơi lúng túng. Sau đó đã kịp thời đối phó. Trong suốt thời gian chống phá càn của giặc bộ đội chủ lực, bộ đội tỉnh huyện và nhân quân du kích đã phối hợp hoặc độc lập tác chiến ở các vùng căn cứ du kích, vùng du kích mạnh. Địch đi đến đâu cũng bị quân và dân ta đánh trả, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Thực hiện phương châm hoạt động “ba vùng” của Tỉnh uỷ (vùng du kích, căn cứ du kích và tạm chiếm), Tân Hồng là một địa bàn vừa là vùng du kích yếu, vừa là tạm chiếm. Khi địch vào làng lực lượng ta không nổ súng chiến đấu để bảo toàn lực lượng, đẩy mạnh công tác đấu tranh chính trị, kinh tế tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ nhân dân chạy vào lánh giặc, đưa tin chiến thắng của ta, thương vong của địch.

Trước phong trào du kích chiến tranh ngày càng một phát triển và lớn mạnh, buộc địch phải gấp rút tăng cường quân số, tập trung phòng ngự có trọng điểm nhất là các đồn bốt quan trọng đề phòng quân ta tấn công một cách bất ngờ, đưa chi khu quân sự Mỹ Trạch thành quân khu quân sự thuộc khu quân sự Kẻ Sặt tăng cường bố phòng canh gác cẩn thận và mở nhiều cuộc càn quét ra các thôn xã vùng chiếm đóng. Bốt Nhữ Thị và một số đồn bốt khác địch luôn tổ chức hoá trang phục kích, biệt kích, vây càn các thôn xung quanh, các thôn ven đường 20 từ Kẻ Sặt đến xã Nhân Quyền địch tăng cường quân số tuần tiễn đề phòng các cuộc phục kích đánh mìn của ta.

Thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Bình Giang (giữa năm 1952 tại Lôi Trì, Hồng Khê), chi bộ Đảng Tân Hồng đã lãnh đạo việc củng cố và phát triển lực lượng vũ trang địa phương trong đó chú trọng phát triển lực lượng dân quân du kích cả số lượng và chất lượng. Trang bị thêm vũ khí, tiếp tục củng cố làng chiến đấu, đào thêm hầm bí mật, vận động thanh niên tòng quân. Đi đôi với củng cố lực lượng vũ trang, chi bộ chỉ đạo công tác vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất đi đôi với bảo vệ sản xuất. Bởi vậy hầu hết diện tích canh tác được bà con nông dân cấy cầy. Trong quá trình sản xuất lực lượng dân quân du kích các thôn có nhiệm vụ canh phòng cảnh giác, bà con nông dân tin tưởng hăng hái sản xuất, mùa màng được đảm bảo.

Từ giữa đến cuối năm 1952, tình hình nói chung về mọi mặt được ổn định. Bước sang năm 1953, quân dân huyện Bình Giang phát huy thế mạnh liên tiếp tấn công địch. Ngày 22-4-1953 du kích xã Hùng Thắng kết hợp cùng bộ đội diệt bọn địch ở bốt Hồ Liễn khi chúng ra chợ, diệt 2 sĩ quan Pháp, 1 nguỵ, thu 1 tiểu liên.

Ngày 15-8-1953 đại đội 79 (tỉnh) tập kích vào vị trí Bá Đông xã Bình Minh, tiêu diệt và bắt sống một đại đội Commăngdo thu 2 trung liên, 26 tiểu liên và 1 số súng trường.

Đêm 4-9-1953 du kích các xã kết hợp với bộ đội tỉnh tiêu diệt hoàn toàn bốt Hồ Liễn diệt 50 tên thu toàn bộ vũ khí.

Ngày 15-10-1953, phối hợp với bộ đội tỉnh du kích các xã tập kích vào vị trí Hà chợ (Thái Dương) diệt và bắt sống 28 tên địch, thu 1 súng cối 81 mi ni , 1 đại liên, 2 trung liên cùng một số súng trường, cùng với việc tiêu diệt các vị trí địch, quân và dân Bình Giang đã tích cực đánh phá giao thông trên đường 20 diệt nhiều xe tăng, xe vận tải của địch.

Phối hợp với toàn huyện lực lượng vũ trang xã phối hợp cùng bộ đội liên tiếp hoạt động đánh địch. Lực lượng du kích xã đã phối hợp cùng bộ đội liên tiếp hoạt động đánh địch trên đường 20. Lực lượng du kích xã đã phối hợp cùng bộ đội huyện, tỉnh đánh bốt Bá Đông, bốt Nhữ Thị, đánh tụi ba tui trên đường 194 và đánh địch càn vào làng Mộ Trạch.

Trong các trận trên lực lượng vũ trang xã đã tiêu diệt 35 tên địch, làm bị thương 18 tên. Trong các trận chống càn vào các thôn, nhiều phương tiện đánh địch như chông, mìn, cạm bẫy đã phát huy tác dụng làm cho địch nhiều khó khăn thiệt hại.

Trong điều kiện có nhiều thuận lợi, chi bộ lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch cả về chính tri, quân sự, binh địch vận và đạt nhiều kết quả. Các đoàn thể quần chúng hoạt động đều, nhân dân càng phấn khởi tin tưởng.

Đông xuân 1953-1954 thực dân Pháp bị đánh mạnh và lúng túng bị động đối phó trên khắp chiến trường toàn quốc. Điện Biên Phủ bị ta bao vây, chiến trường chính thu hút các binh đoàn cơ động của địch. Đồng bằng bị sơ hở, cùng với quân dân toàn huyện, nhân dân Tân Hồng đã chuyển sang giai đoạn mới – Giai đoạn ta liên tiếp tấn công địch. Dưới sự lãnh đạo của huyện uỷ, trực tiếp là chi bộ Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Hồng thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Biến quyết tâm thành hành động cách mạng, lực lượng vũ trang xã đã phối hợp với các xã bạn bao vây các đồn bốt còn lại (bốt Phủ, bốt Nhữ Thị, bốt Hoà Loan…). Ngăn chặn mọi phương tiện tiếp tế lương thực, thực phẩm cho các đồn bốt. Ta liên tiếp bao vây, đánh địch; từng lúc, từng nơi, từng mặt, góp phần tạo thế mạnh cho chiến trường chính đánh địch giành thắng lợi hoàn toàn. Hàng trăm dân công lên đường phục vụ chiến dịch. Những người ở lại thật trăm công nghìn việc thật phấn khởi, háo hức, náo nức vô cùng.

Ngày 7-5-1954, quân và dân ta đại thắng trên chiến trường Điện Biên Phủ. Tướng Đờ-cát-Tơ-Ri cùng toàn bộ quân lính còn lại kéo cờ trắng ra hàng. Ý đồ xâm lược của thực dân Pháp bị đè bẹp. Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về Đông Dương đã họp, nhưng chiến trường vẫn chưa chấm dứt. Vui mừng phấn khởi trước đại thắng chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta càng xiết chặt vòng vây để tiêu diệt địch. Ngày 17-7-1954 lực lượng du kích xã phối hợp cùng bộ đội khu (trung đoàn 42) bí mật, bất ngờ nổ súng tiêu diệt một tiểu đoàn Âu - Phi bại trận từ chiến trường trung du về đóng tại làng Vạc xã Thái học, diệt 70 tên, bắt sống hầu hết số còn lại, thu 80 súng các loại, đây là trận phối hợp chiến đấu và chiến thắng cuối cùng của lực lượng vũ trang Tân Hồng.

Hoà bình được lập lại trên miền Bắc nước ta, xã Tân Hồng lại nằm sát khu vực tập kết 100 ngày của địch. Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân bước vào cuộc chiến đấu mới để đối phó lại âm mưu phá hoại hiệp định Giơ-ve-vơ của địch. Chi bộ lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang canh gác, theo dõi giặc khi rút qua đường 20. Mặt khác chuẩn bị sẵn sàng lực lượng đấu tranh nếu chúng cố tình cướp phá. Đặc biệt chú trọng công tác vận động nhân dân, chống cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam của giặc. Nhiều hình thức đấu tranh được vận dụng để vận động đồng bào, góp phần nhỏ bé của mình trong công tác “chống di cư” của huyện.

Hoà bình được lập lại, nhân dân toàn xã vui mừng tràn ngập khắp làng trên, xóm dưới. Tiếng reo hò, ca hát rộn ràng. Nhiều gia đình đã tổ chức ăn mừng để đón chào hoà bình lặp lại. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay. Các thôn đều dựng cổng chào, tổ chức vui chơi, ca hát, 8h sáng ngày 30-10-1954 một số cán bộ và lực lượng vũ trang trong xã cùng các xã bạn và các đơn vị bộ đội vào tiếp quản thị trấn Kẻ Sặt. Khoảng 12 giờ trưa ngày 30-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng và bè lũ tay sai bán nước rút khỏi mảnh đất huyện Bình Giang. Từ đây chấm dứt hơn 8 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 2-11-1954 hầu hết cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang cùng đông đảo nhân dân trong xã đi dự cuộc mít tinh lớn do huyện tổ chức để chào mừng hoà bình lặp lại. Trong niềm vui phấn khởi đầy lạc quan, tin tưởng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã ôn lại chặng đường đấu tranh trường kỳ gian khổ nhưng vô cùng anh dũng và đã giành được thắng lợi vẻ vang. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân càng ra sức thi đua để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Nhìn lại chặng đường hơn 8 năm chiến đấu và chiến thắng, chi bộ và nhân dân trong xã đã vượt qua bao khó khăn thử thách, đặc biêt thời kỳ 1950-1951 là thời kỳ đầy đen tối, nhưng có sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân Tân Hồng đã vượt qua. Trong hơn hai năm (1952-1953) cuộc chiến đấu giữa ta và địch đã diễn ra gay go và quyết liệt. Kẻ địch cũng đã dùng mọi âm mưu thủ đoạn thâm độc để bình định xã Tân Hồng, nhằm bảo vệ thế an toàn cho hệ thống chiếm đóng của chúng.

Dưới sự lãnh đạo của huyện uỷ, trực tiếp là chi bộ Đảng, từ sau tháng 3-1952 lực lượng kháng chiến xã dần trưởng thành về mọi mặt. Lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh. Ta đã dũng cảm chiến đấu, giành nhiều thắng lợi. Tuy nằm sát vùng chiếm đóng, có nhiều đồn bốt quan trọng của giặc, từ cuối năm 1953 trở đi ta đã chuyển từ vùng tạm chiếm lên vùng du kích. Đây là thời kỳ chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta trong hơn 8 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong hơn 8 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng vô cùng anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược, xã Tân Hồng là một địa bàn nằm dọc đường 20 bên thị trấn Kẻ Sặt và Phủ Cũ nên có vị trí quan trọng. Kẻ thù đã dùng trăm phương ngàn kế hòng dập tắt tinh thần kháng chiến của toàn đảng toàn dân trong xã, để giữ thế an toàn cho các đồn bốt và đoạn đường giao thông quan trọng này. Chúng đã ra sức tấn công ta trên các mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội. Địch đã không từ một thủ đoạn dã man, tàn bạo, nham hiểm nào như: khủng bố, bắn giết, tàn phá, cướp bóc … đi đôi với dụ dỗ, phỉnh phờ, mua chuộc nhân dân trong xã. Trong xã có 4 thôn thì địch đã dựng lên 3 đồn bốt, đó là chưa kể các đồn bốt quan trọng khác ở các xã xung quanh.

Trong hơn 8 năm kháng chiến là hơn 8 năm tù đầy, gian khổ, hy sinh. Quân thù đã giết 225 người (trong đó có 25 người là cán bộ đảng viên), 9 người rồi mất tích, 312 người (trong đó có 98 người là cán bộ đảng viên) bị bắt cầm tù, đi làm phu. Nhiều cán bộ, đảng viên bị tra tấn dã man, có người bị lao, bị thương tật rồi chết. Có 92 gia đình bị đốt phá, nhiều gia đình bị đốt 2-3 lần, Đình chùa, nơi công cộng bị phá, rỡ. Hàng năm trâu bò, gia súc bị chúng cướp giết…

Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, trực tiếp là chi bộ Đảng, nhân dân Tân Hồng một lòng đi theo kháng chiến, kiên quyết đấu tranh chống lại kẻ thù. Chi bộ luôn không ngừng chăm lo xây dựng củng cố, phát triển Đảng làm hạt nhân lãnh đạo phong trào. Ra sức củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng. Chú ý đặc biệt đến công tác xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang. Trong quá trình kháng chiến có những lúc khó khăn, gian khổ tưởng chừng như không vượt qua nổi, song tuỳ từng lúc, từng nơi, từng hoàn cảnh cụ thể chi bộ đã có những chủ trương, phương pháp đấu tranh thích hợp. Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân trong xã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong hơn 8 năm kháng chiến không bao giờ mất cơ sở trong toàn xã. Cán bộ đảng viên hầu hết tận tuỵ, hy sinh trung thành với cách mạng. Lực lượng vũ trang luôn được duy trì, phát triển và ngày một trưởng thành, chiến đấu bền bỉ, dẻo dai, giành thắng lợi liên tiếp. Đời sống nhân dân được đảm bảo, đã có những đóng góp một phần cho công cuộc kháng chiến. Trong đấu tranh đã có nhiều cán bộ, đảng viên, nhân dân nêu cao tấm gương hy sinh anh dũng, bất khuất.

Hơn 8 năm gian khổ trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nhân dân Tân Hồng cũng đã đóng góp một phần tuy nhỏ bé nhưng rất đáng tự hào. Nhiều đồng chí, đồng bào ngã xuống ngay trên mảnh đất quê hương và trên mọi miền đất nước. Có những trận chiến đấu trước súng đạn của kẻ thù, hay cũng có những chiến công thầm lặng không kém phần oanh liệt. Tuyệt đại bộ phận gia đình trong xã đã góp phần xương máu vào chiến công chung. Nhân dân xã ta đã có vinh dự được Đảng, Chính phủ khen thưởng nhiều lần. Chính những điều đó đã động viên toàn Đảng, toàn dân Tân Hồng hăng hái, phấn khởi bước vào giai đoạn cách mạng mới “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”.

Trong hơn 8 năm kháng chiến, chi bộ Đảng và nhân dân xã ta đã có thành tích:

Đánh địch 10 trận lớn nhỏ kể cả phối hợp với bộ đội chủ lực, tỉnh, huyện.


  • Tiêu diệt : 92 tên

  • Làm bị thương : 48 tên

  • Bắt sống : 3 tên

  • Thu : 1 khẩu súng.

+ Về đóng góp:

  • Số người tham gia bộ đội : 94 đồng chí

  • Số liệt sĩ chống Pháp 31

- Số thóc gạo đóng góp: 18.210kg

+ Đã được khen thưởng: nhiều Huân, Huy chương kháng chiến và Bằng khen.


CHƯƠNG BỐN

CHI Bé §¶NG X· T¢N H¤NG L·NH §¹O NH¢N D¢N

X¢Y DùNG CHñ NGHÜA X· HéI Vµ CHèNG Mü

CøU N¦íC (1955-1975)

I. KHÔI PHỤC KINH TẾ, HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH, HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1955-1965).


1) Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất (1955-1957)

Qua 9 năm kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ, công nhận độc lập chủ quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, vĩnh viễn xoá bỏ chế độ thực dân cũ gần 100 năm đô hộ trên đất nước ta. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và căn bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện giải phóng miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ Quốc.

Thời kỳ đầu sau hoà bình lặp lại, tình hình chưa cho phép miền Bắc bắt tay ngay vào việc thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã giành một thời gian ngắn để tập trung giải quyết những vấn đề tồn tại sau hoà bình. Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ : nhiệm vụ trước mắt của nhân dân miền Bắc là phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và tiến hành cải cách ruộng đất. Đó cũng là nhiệm vụ cơ bản còn lại của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, ổn định đời sống nhân dân, tích cực chuẩn bị thêm những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vào những năm sau này.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, xã Tân Hồng nằm trong vùng địch hậu có đồn bốt. Khi thực dân Pháp và bè lũ tay sai rút đi để lại biết bao khó khăn: xóm làng bị tàn phá xơ xác, điêu tàn, nhiều gia đình bị đốt, phá nhà cửa, 723 mẫu 6 sào ruộng ven đường, ven bốt bị hoang hoá cỏ lút đầu người. Trâu bò bị chúng giết hại. Sức kéo thiếu nghiêm trọng, cầy bừa giống vốn, nông cụ đều thiếu. Cả xã không có một công trình thuỷ lợi, việc tưới tiêu hầu như phụ thuộc vào thiên nhiên, hạn hán bão lụt thường xuyên đe doạ mùa màng. Ruộng đất hầu hết chỉ cấy một vụ, năng suất thấp, bình quân mỗi vụ chỉ thu hoạch được từ 35-40 kg/sào.Tình hình thiếu ăn diễn ra trong toàn dân, có tới 20-30% số gia đình phải ăn khoai, ăn cháo thay cơm, một số gia đình phải chạy ăn từng bữa. Đời sống nhân dân rất khổ cực. Đội ngũ cán bộ rất nhiệt tình, trung thành, tận tuỵ nhưng trình độ còn hạn chế chưa đáp ứng được đòi hỏi của yêu cầu nhiệm vụ mới. Một số đảng viên còn mù chữ.

Trong khi đó tình hình chính trị, xã hội rất phức tạp. Sau hoà bình những hành vi chống phá cách mạng của bọn phản động vẫn chưa hết. Chúng vẫn ngấm ngầm tung tin đồn nhảm, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta, làm cho một bộ phận nhân dân không an tâm sản xuất, sợ chiến tranh trở lại.

Cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung rất phấn khởi trong niềm vui được hưởng hoà bình. Song những gia đình có người thân bị hy sinh trong chiến tranh thì buồn rầu, thương tiếc, một số cán bộ, đảng viên có tư tưởng nghỉ ngơi hưởng lạc sau hoà bình không muốn tham gia công tác...

Sau hoà bình, ta tuy có nhiều khó khăn, nhưng cũng có nhiều thuận lợi cơ bản. Đó là: chi bộ và chính quyền xã được tôi luyện, thử thách và trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến thực dân Pháp, được quần chúng tin yêu. Nhất là những cán bộ đảng viên đã từng bám đất, bám dân, lăn lộn sống chết với phong trào. Nay bước sang nhiệm vụ mới, tất nhiên còn bỡ ngỡ, nhưng có đường lối đúng đắn của Đảng, sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Huyện uỷ, lại được quần chúng ủng hộ. Lực lượng dân quân du kích, công an vững mạnh. Các tổ chức quần chúng như: Mặt trận Tổ quốc, Thanh niên, Phụ nữ, Thiếu nhi do Đảng tổ chức… là lực lượng xung kích thực hiện mọi nhiệm vụ do Đảng, Chính phủ đề ra.

Nhân dân Tân Hồng vốn có truyền thống kiên cường bất khuất, có lòng yêu nước nồng nàn, yêu quê hương, cần cù lao động, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Chiến tranh chấm dứt, nhân dân rất phấn khởi sẵn sàng vượt mọi khó khăn để xây dựng cuộc sống mới.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của huyện uỷ Bình Giang, chi bộ Đảng và nhân dân xã Tân Hồng phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn để hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành Cải cách ruộng đất, phục hồi kinh tế góp phần cùng miền Bắc chuyển lên giai đoạn cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Đứng trước tình hình nhiệm vụ cấp bách của những ngày đầu quê hương mới được giải phóng, tháng 8-1954 chi bộ Đảng đã tổ chức một cuộc họp nhằm quán triệt nghị quyết của Huyện uỷ (hội nghị Huyện uỷ mở rộng gồm các ngành các giới huyện, bí thư chủ tịch các xã). Chi bộ đã đi sâu phân tích tình hình đặc điểm, những khó khăn thuận lợi của địa phương sau hoà bình lặp lại, thông qua những chủ trương, biện pháp kế hoạch cụ thể. Về tình hình nhiệm vụ hội nghị chỉ rõ: Trước đây, trong chiến tranh, mọi cố gắng của Đảng và nhân dân ta đều nhằm giành thắng lợi cho công cuộc giải phóng dân tộc. Đến nay, hoà bình được lặp lại, chúng ta có điều kiện công tác trong hoà bình. Từ chiến tranh chuyển sang hoà bình đó là một biến đổi rất lớn của tình hình, đòi hỏi chúng ta phải có sự biến đổi trong chủ trương chính sách, nhiệm vụ, tổ chức và lề lối làm việc cho phù hợp với tình hình mới. Hội nghị đã nhấn mạnh nhiệm vụ trước mắt phải giải quyết trong năm 1954 và một số nhiệm vụ cơ bản cho các năm tới.

+ Mở một đợt tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân để mọi người nhận rõ ý nghĩa của thắng lợi trọng đại. Trên cơ sở ấy mà động viên tinh thần phấn khởi, tin tưởng, hăng hái tiến quân vào cuộc cách mạng mới đầy khó khăn và thử thách.

+ Vận động nhân dân khắc phục khó khăn, vỡ hoang, phục hoá, nhất là ruộng ở những nơi gần đồn bốt bỏ hoang trong chiến tranh vào sản xuất. Vận động nhân dân đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục hậu quả chiến tranh, nhanh chóng dựng lại cửa nhà sửa sang lại xóm làng. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trước mắt là trồng rau mầu ngắn ngày để nhanh chóng ổn định đời sống. Vận động nhân dân tiết kiệm nhất là lương thực, khơi mương, đào giếng chống hạn kịp thời.

+ Củng cố bộ máy chính quyền, các đoàn thể; Củng cố lực lượng vũ trang để thường xuyên tuần tra canh gác bảo vệ xóm làng, đồng thời củng cố tổ chức lực lượng an ninh từ xã xuống các thôn xóm để sẵn sàng trấn áp bọn phản cách mạng và tay chân của kẻ địch cài lại.

+ Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để khuếch trương chiến thắng, cổ vũ nhân dân tin tưởng vào chế độ mới. Nhanh chóng xoá bỏ tàn dư của nền văn hoá cũ và các hủ tục mê tín, dị đoan.

+ Trưng vay thóc dư thừa của một số người dư dật cho dân nghèo vay- Phá hầm trú ẩn, hoặc lấy gỗ của một số nhà giầu làm guồng chống hạn ..

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của huyện uỷ Bình Giang, nhờ có chủ trương đúng đắn kịp thời của chi bộ sát với tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Với sự nỗ lực cố gắng của cán bộ đảng viên, cùng với niềm tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân nên phong trào trong xã khá sôi nổi.

Ngay sau khi có nghị quyết của chi bộ, nhân dân đã ra sức trồng khoai, rau màu ngắn ngày khác. Chính quyền và nông hội đã vận động nhân dân khai mương, đào giếng thực hiện khẩu hiệu “Vắt đất ra nước thay trời làm mưa” để chống hạn cứu lúa mầu. Các đồng chí cán bộ, đảng viên được phân công phụ trách từng đoàn thể, từng khu vực và từng công việc để đôn đốc kịp thời. Nhờ có chủ trương đúng, biện pháp sát thực của chi bộ, cộng với tinh thần khắc phục khó khăn phấn đấu liên tục, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau của nhân dân, mặt khác lại được tỉnh huyện giúp đỡ, đến cuối năm 1954 đã có 100% số hộ bị giặc đốt phá trong chiến tranh nay đã có nhà ở. Những gia đình không có ruộng hoặc thiếu ruộng cày cấy, xã đã tạm giao tạm cấp cho mỗi gia đình từ 2-3 sào ruộng để sản xuất.

Về giống vốn, trâu bò, nông cụ để phát triển sản xuất, vật liệu làm nhà nhân dân đã đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Người có nhiều thì giúp nhiều, có ít thì giúp ít, người không có thì giúp công. Đến tết dương lịch (1954) nhà nào cũng cấy được 2-3 sào lúa. Nhiều gia đình còn trồng thêm khoai nhất là phong trào trồng khoai lang ụ. Hàng trăm mẫu ruộng bị bỏ hoang trong chiến tranh đã được khai hoang, dọn cỏ, phát bụi để cày cấy. Diện tích tăng lên rất nhanh. Cây rau mầu (chủ yếu là cây khoai lang) được chú ý, đưa diện tích lên tới hàng trăm mẫu. Năng suất lúa bình quân tới 50kg/sào. Năng suất và tổng sản lượng vụ mùa 1954 và chiêm 1955 cao hơn những năm trước. Hầu hết các gia đình đều đảm bảo lương thực và để giống vốn cho vụ sau. Vụ mùa 1954 xã Tân Hồng đã đóng thuế lương thực cho nhà nước hàng chục tấn thóc. Nạn đói đã được đẩy lùi, sản xuất bắt đầu phát triển.



Cải cách ruộng đất

Cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta có hai nhiệm vụ cơ bản là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giải phóng dân tộc, dành ruộng đất cho dân cầy. Ở miền Bắc nhiệm vụ đánh đế quốc đã hoàn thành (khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc) còn nhiệm vụ đánh phong kiến chưa làm xong, cần phải tiếp tục tiến hành. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân đã có những biện pháp tích cực đánh phong kiến như giảm tô tức, thuế nông nghiệp … Song những biện pháp đó cũng chưa xoá bỏ được giai cấp địa chủ, phong kiến, và chưa xoá bỏ được uy thế chính trị và quyền chiếm hữu ruộng đất của chúng. Cải cách ruộng đất là nội dung cơ bản, là vấn đề quyết định của nhiệm vụ đánh phong kiến. Do vậy, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, việc tiếp tục cải cách ruộng đất nhằm hoàn thành tốt và triệt để những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta. Nghị quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1955 đã chỉ rõ: “Để củng cố miền Bắc trước hết cần phải hoàn thành cải cách ruộng đất và chia ruộng đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phải là chính sách bất di bất dịch của Đảng ta”.

Nhận rõ ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của công tác vận động cải cách ruộng đất, trong hội nghị Tỉnh uỷ Hải Dương (tháng 5-1955) đã phát động quần chúng trong toàn tỉnh đấu tranh triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất. Coi đó là nhiệm vụ trọng tâm trong những năm 1955-1956.

Tỉnh uỷ, Huyện uỷ đã cử đội cán bộ về thực hiện nhiệm vụ giảm tô đợt 8 và cải cách ruộng đất (đợt 5) về xã Tân Hồng vào cuối năm 1955. Đội cải cách ruộng đất về các thôn xóm cùng ăn, cùng ở, cùng làm (thực hiện 3 cùng) với nông dân nghèo, tìm cốt cán, thực hiện phương pháp “bắt rễ, sâu chuỗi” để phát động quần chúng đấu tranh với giai cấp địa chủ. Đội đã phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ cho quần chúng nhân dân. Qua học tập nhân dân mới hiểu được cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mới hoàn thành được nhiệm vụ đánh đuổi thực dân đế quốc, còn giai cấp địa chủ phong kiến là chỗ dựa của đế quốc phải tiếp tục đánh đổ thì ruộng đất, trâu cày, mọi tư liệu sản xuất mới thuộc về nhân dân lao động. Đội đã tổ chức cho nông dân ôn nghèo, kể khổ bồi dưỡng cho nông dân (chủ yếu là bần cố nông) thấy được nguồn gốc của sự nghèo khổ sự áp bức bóc lột và tội ác của giai cấp địa chủ phong kiến. Trong cuộc đấu tranh giai cấp này nông dân lao động càng hiểu sâu nguyên nhân trực tiếp làm cho họ đau khổ chính là sự đàn áp bóc lột của đế quốc và phong kiến. Họ càng thêm tin tưởng rằng đoàn kết và đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng chẳng những hoàn toàn được giải phóng khỏi ách đế quốc phong kiến và đời sống được ấm no, hạnh phúc. Quần chúng nông dân được phát động tư tưởng đã tạo nên một khí thế sôi nổi khắp thôn, xã.

Qua phát động tư tưởng và đấu tranh nhân dân đã giúp cho Đội cải cách xác định được đối tượng, thành phần giai cấp ở thôn xã. Nhiều cuộc tố khổ, nhiều buổi đấu trường được tổ chức tại các xóm, thôn và địa điểm tập trung của xã. Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp “Long trời lở đất” ở nông thôn. Cũng qua xác định thành phần để có chính sách đối xử thích đáng với từng loại địa chủ (địa chủ kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào gian ác) và các thành phần khác. Mùa thu 1956 đội đã quy định xong thành phần ở toàn xã.

Từ phân định thành phần toàn xã đã tịch thu, trưng thu, trưng mua gần 400 mẫu ruộng, 76 con trâu, hàng chục tấn thóc cùng nhiều tư liệu sản xuất khác đem chia cho 158 hộ bần cố nông.



Thống kê thành phần giai cấp trong cải cách ruộng đất

Thành phần giai cấp

Hộ

Khẩu

Ruộng đất

- Địa chủ thường

- Địa chủ kháng chiến

- Phú nông

-Trung nông

- Bần nông

- Cố nông



26
2

12

78



106

52


112
11

62


343 mẫu 0 sào


tải về 2.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương