gì?
Mỗi nước phải thông báo cho WTO tên các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt
động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các loại hàng hoá mà các doanh nghiệp này kinh
doanh và các thông tin khác (ở dạng điền vào mẫu cho sẵn).
- -
59
Các nước cũng phải thường xuyên rà soát để cung cấp thông tin cập nhật về hoạt động
của các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
doanh nghiệp thương mại nhà nước
: state trading enterprise (STE)
đấu thầu
: tendering
Hiệp định về Mua sắm chính phủ
: Agreement on Government Procurement
mua sắm chính phủ
: government procurement
***
9
ĐẦU TƯ
203. Đầu tư là gì? Đầu tư trực tiếp khác đầu tư gián tiếp như thế nào?
Đầu tư là từ để chỉ việc đem công sức, trí tuệ, tiền bạc làm một việc gì nhằm đem lại
kết quả, lợi ích nhất định. Trong những bối cảnh hẹp như phạm vi quyển sách này, đầu
tư được nói đến chính là đầu tư nước ngoài, có nghĩa là việc đem tiền từ một nước
sang một nước khác để sinh lãi.
Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ, buôn bán tại nước
nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập một pháp nhân riêng
như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, chi nhánh công ty nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển
giao công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải
quyết vấn đề việc làm tại nước nhận đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu và các giấy tờ có giá
trị, gọi chung là chứng khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn đến việc thành lập
pháp nhân riêng. Hình thức này mang tính đầu cơ nên có thể thu lãi rất lớn thông qua
sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan đến nhiều yếu tố khác như tình
hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều hành vĩ mô, v.v...), nhưng cũng chính
vì thế mà có thể phải chịu những rủi ro khó lường trước. Đối với nước nhận đầu tư,
hình thức đầu tư góp phần giải quyết sự khan hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư
đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên
thị trường tiền tệ, ảnh hưởng tới nền kinh tế.
204. Tại sao lại có vấn đề đầu tư trong WTO?
Thương mại và đầu tư có mối quan hệ với nhau. Chính sách thu hút hoặc hạn chế đầu
tư có thể là khởi nguồn cho những biện pháp gây tác động đến thương mại quốc tế.
Vì vậy, WTO đã đưa đầu tư vào phạm vi điều chỉnh của mình, nhưng chỉ với một mức
độ nhất định ở những khía cạnh liên quan đến thương mại. Nội dung điều chỉnh này
thể hiện trong Hiệp định về Các biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIM).
205. Hiệp định TRIM đặt ra yêu cầu gì?
- -
60
Hiệp định TRIM đặt ra yêu cầu các nước phải xóa bỏ các biện pháp đầu tư gây cản trở
thương mại. Hiệp định này chỉ áp dụng đối với thương mại hàng hóa của doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
206. Những biện pháp đầu tư nào được coi là TRIM?
Dưới đây là một số biện pháp đầu tư điển hình được coi là TRIM:
Yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải mua hoặc
sử dụng một tỷ lệ nhất định các sản phẩm sản xuất trong nước hoặc do các doanh
nghiệp trong nước cung cấp. Ví dụ trong các lĩnh vực lắp ráp ô-tô, xe máy, máy
thu hình, tủ lạnh...
Yêu cầu cân đối xuất/nhập khẩu. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ
được nhập khẩu một số lượng hoặc giá trị hàng hóa tương ứng với số lượng, giá
trị mà doanh nghiệp đó xuất khẩu. Như vậy, nếu doanh nghiệp này xuất khẩu ít thì
cũng chỉ được nhập khẩu ít. Nếu doanh nghiệp chỉ sản xuất hàng hóa để tiêu thụ
trong nước thì có thể bị gây khó khăn khi nhập khẩu.
Yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Khi đầu tư, doanh nghiệp phải
đảm bảo phát triển nguồn nguyên liệu tại chỗ thay vì nhập khẩu. Ví dụ xây nhà
máy sữa phải đảm bảo phát triển đàn bò ở địa phương đặt nhà máy, xây nhà máy
đường phải đảm bảo giúp địa phương trồng mía.
Yêu cầu tự cân đối ngoại tệ. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị khống chế
giá trị ngoại tệ sử dụng cho việc nhập khẩu.
207. Có nguyên tắc nào để xác định một biện pháp đầu tư có phải là TRIM hay
không?
Nhìn chung, biện pháp đầu tư được coi là TRIM nếu biện pháp đó trái với nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (Ðiều III của GATT) hoặc hạn chế số lượng (Ðiều XI của GATT).
208. Thời gian dành cho việc xóa bỏ các TRIM là như thế nào?
Các nước phát triển phải xóa bỏ các TRIM trong vòng 2 năm sau khi WTO được thành
lập (tức là vào năm 1997), các nước đang phát triển phải xóa bỏ TRIM trong vòng 5
năm (năm 2000). Thời gian dành cho các nước chậm phát triển để xóa bỏ TRIM là 7
năm (năm 2002).
Nếu gặp khó khăn khi xóa bỏ TRIM thì các nước có thể được WTO xem xét dành cho
một thời kỳ quá độ dài hơn.
209. Các biện pháp như tỷ lệ nội địa hóa, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đều
góp phần phát triển công nghiệp, nông nghiệp của nước nhận đầu tư, tại sao các
nước này lại chấp nhận bãi bỏ?
Tựu trung, các biện pháp về đầu tư được đề ra với hai mục đích chính:
Bảo hộ sản xuất trong nước.
Tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tạo công ăn việc làm.
- -
61
Cũng giống như các biện pháp bảo hộ thương mại khác, bảo hộ thông qua đầu tư có
thể đem lại một số tác dụng trước mắt, nhưng xét về dài dạn, các biện pháp bảo hộ đều
làm biến dạng môi trường kinh doanh, triệt tiêu cạnh tranh, ngành kinh tế được bảo hộ
được phát triển không dựa trên cạnh tranh bình đẳng nên không đem lại sản phẩm tốt,
giá rẻ. Và cuối cùng, người tiêu dùng phải chấp nhận mua sản phẩm kém chất lượng
hoặc với giá cao hơn.
Các biện pháp bảo hộ cũng là những trở ngại đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài vì
chúng làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhiều nước cũng đang xem xét
loại bỏ các biện pháp này để cải thiện môi trường đầu tư.
Mặt khác, nhận thấy những lợi ích nhất định của các biện pháp này nên các nước đang
phát triển cũng không bãi bỏ ngay mà thường đưa ra một lộ trình chuyển tiếp để dần
dần xóa bỏ.
Ngoài ra, các biện pháp đầu tư không ảnh hưởng đến việc xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì cũng không có nghĩa vụ phải loại bỏ.
210. Gần đây, tôi nghe nói nhiều đến các vụ sáp nhập và mua lại và được biết đây là
một loại hình đầu tư. Vậy đây là đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, và tại sao?
Sáp nhập và mua lại (M&A) là một hiện tượng đã có từ lâu trong nền kinh tế thị
trường. Gần đây, với sự liên quan của nhiều công ty, tập đoàn lớn, báo chí mới bắt đầu
đưa tin rầm rộ về những sự kiện này.
M&A được coi là loại hình đầu tư trực tiếp, mặc dù thoạt nhìn chúng có vẻ giống với
đầu tư gián tiếp hơn. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước đang phát triển khác, nói đến
đầu tư trực tiếp (nước ngoài) là người ta nghĩ đến việc nhà đầu tư đem tiền của đến để
xây nên một cơ sở kinh doanh mới như nhà máy, khách sạn, … Đây mới chỉ là một
trong các loại hình của đầu tư trực tiếp và được gọi là đầu tư mới hoặc đầu tư từ đầu.
M&A chính là loại hình còn lại của đầu tư trực tiếp, khi nhà đầu tư đem tiền đến mua
lại, hoặc sáp nhập với, cơ sở kinh doanh đã có sẵn. Nhiều vụ M&A còn có giá trị lớn
hơn đầu tư mới gấp nhiều lần. Từ hai loại hình trên, ta rút ra đặc điểm chung của đầu
tư trực tiếp là nhà đầu tư muốn chủ động tham gia trực tiếp vào quá trình kinh doanh,
sinh lợi của doanh nghiệp mà họ đầu tư. Trong khi đó, ở đầu tư gián tiếp (mua bán
chứng khoán), nhà đầu tư chỉ mang tính thụ động, trông chờ chia lãi cổ tức hoặc ăn lãi
từ những biến động trên thị trường mà không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của
doanh nghiệp.
Do có thể dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nên M&A cũng là đối
tượng điều chỉnh của những quy định về cạnh tranh và chống độc quyền.
các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại
: trade-related investment measures (TRIM)
đầu tư
: investment
đầu tư gián tiếp
: porfolio investment
đầu tư trực tiếp
: direct investment
đầu tư từ đầu
: greenfield investment
Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại
: Agreement on Trade-Related Investment
Measures
sáp nhập và mua lại
: merger and acquisition (M&A)
- -
62
***
10
DỊCH VỤ
211. Dịch vụ là gì?
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thống về dịch vụ. Đây là một loại hình
hoạt động kinh tế, không đem lại một sản phẩm cụ thể như hàng hoá. Vì là một loại
hình hoạt động kinh tế nên cũng có người bán (người cung cấp dịch vụ) và người mua
(khách hàng sử dụng dịch vụ). Những dịch vụ dễ gặp trong đời thường là cắt tóc, điện
thoại, taxi, karaoke.
Bản thân GATS cũng không đưa ra định nghĩa rõ ràng về dịch vụ mà chỉ đề cập gián
tiếp thông qua 4 phương thức cung cấp dịch vụ.
212. Thế nào là thương mại dịch vụ?
Đó chính là sự cung cấp dịch vụ thông qua các phương thức khác nhau để đổi lấy tiền
công trả cho sự cung cấp dịch vụ đó. Điều này tương tự như mua bán hàng hoá, nhưng
đối tượng mua bán ở đây thường là vô hình, không lưu giữ được.
Năm 1997, Singapore xuất khẩu lượng dịch vụ trị giá 30,1 tỷ USD và cũng trong năm
đó nhập khẩu lượng dịch vụ trị giá 18,9 tỷ USD.
213. Thương mại dịch vụ giống và khác thương mại hàng hoá ở điểm nào?
Sự giống nhau thì khá rõ. Nói đến thương mại tức là có sự mua bán, trao đổi giữa hai
chủ thể đối với một đối tượng nào đó. Sự khác nhau giữa hai hình thức thương mại
này nằm ở đối tượng mua bán, cụ thể một đằng là hàng hoá, một đằng là dịch vụ.
Nói theo nghĩa rộng, dịch vụ cũng là một loại hàng hoá. Vì thế, khái niệm "hàng hoá"
ở đây có một nghĩa hẹp hơn, đó chỉ là những hàng hoá vật chất, ví như sắt thép, gạo,
phân bón, hàng điện tử, quần áo, máy móc, v.v... Đó cũng là những hàng hoá truyền
thống trong quan hệ buôn bán giữa các nước từ trước đến nay.
Còn dịch vụ, đối tượng của thương mại dịch vụ, là những loại hàng hoá vô hình.
Không ai có thể nhìn thấy những lời nói được truyền qua đường dây điện thoại như thế
nào, nhưng kết quả cuối cùng là hai người ở xa hàng ngàn cây số vẫn nói chuyện được
với nhau, và người ta sẵn sàng trả tiền cho việc này. Như vậy là một dịch vụ đã được
mua bán.
214. Dịch vụ được cung cấp cho khách hàng như thế nào?
Theo định nghĩa chung về thương mại dịch vụ, dịch vụ được cung cấp thông qua 4
hình thức sau:
- -
63
a) cung cấp qua biên giới: người cung cấp dịch vụ và khách hàng vẫn ở tại nước
mình, chỉ có dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ nước này sang lãnh thổ nước kia.
Ví dụ như dịch vụ phát chuyển nhanh, dịch vụ vận tải đường ống.
b) tiêu thụ ngoài biên giới: khách hàng đến tận nước của người cung cấp để mua
dịch vụ. Ví dụ dịch vụ sửa chữa tàu biển, dịch vụ du học.
c) hiện diện thương mại: người cung cấp dịch vụ thiết lập sự có mặt của mình tại
nước khách hàng thông qua các pháp nhân như chi nhánh, văn phòng đại diện,
công ty con. Ví dụ dịch vụ tư vấn luật, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bán lẻ - phân
phối.
d) hiện diện thể nhân: người cung cấp dịch vụ cử đại diện tới tận nước khách hàng
để cung cấp dịch vụ. Ví dụ dịch vụ chuyên gia, dịch vụ nghiên cứu thị trường.
215. GATS quy định về những vấn đề gì?
GATS là một hiệp định khá dài, bao gồm 29 điều, 8 phụ lục kèm theo danh mục cam
kết của các nước thành viên được coi là một phần của hiệp định.
GATS quy định những nghĩa vụ và nguyên tắc chính trong thương mại dịch vụ như
đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, minh bạch chính sách, ngoại lệ, v.v... và yêu
cầu các nước thành viên đưa ra cam kết mở cửa thị trường và dành đãi ngộ quốc gia
trong từng ngành dịch vụ cụ thể.
216. Cơ quan nào giám sát việc thi hành GATS?
Hội đồng Thương mại Dịch vụ được thành lập theo Điều 24 của GATS là cơ quan
giám sát việc thi hành GATS.
217. Tại sao trong thương mại dịch vụ, đãi ngộ quốc gia lại có vẻ được nhấn mạnh
hơn đãi ngộ tối huệ quốc?
Đúng như vậy. Và lý do là ở tính đặc thù của việc cung cấp dịch vụ.
Trong thương mại hàng hoá, hàng hoá được vận chuyển từ người bán đến người mua
luôn phải đi qua biên giới, do vậy nếu muốn hạn chế hàng hoá từ nước ngoài, người ta
có thể áp dụng các biện pháp tại cửa khẩu như thu thuế quan hoặc chỉ cho nhập khẩu
theo giấy phép.
Còn trong thương mại dịch vụ, như chúng ta đã biết, không phải lúc nào cũng có sự di
chuyển của dịch vụ qua biên giới, hay đúng hơn là bên cạnh sự di chuyển của dịch vụ
còn có sự di chuyển của nhà cung cấp dịch vụ qua biên giới. Do đó các nước thường
tìm cách hạn chế sự cạnh tranh của dịch vụ nước ngoài bằng cách phân biệt đối xử
giữa nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài với nhà cung cấp dịch vụ trong nước. Sự phân
biệt này thể hiện dưới nhiều chính sách khác nhau, ví dụ không cho người nước ngoài
đầu tư mở nhà hàng, hạn chế số lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cấm luật gia
nước ngoài tư vấn về luật trong nước, v.v...
Chính vì vậy, để tăng cường trao đổi dịch vụ, người ta thường quan tâm đến việc xoá
bỏ hoặc thu hẹp khoảng cách phân biệt đối xử nói trên - đó chính là đòi hỏi áp dụng
đãi ngộ quốc gia.
- -
64
218. Các ngoại lệ MFN trong lĩnh vực dịch vụ phải chịu những quy định gì?
GATS cho phép các thành viên được duy trì những ngoại lệ về đãi ngộ tối huệ quốc,
tức là được dành cho một số thành viên khác những ưu đãi về dịch vụ lớn hơn ưu đãi
dành cho các thành viên còn lại.
Những ngoại lệ này phải đưa ra trước khi WTO có hiệu lực và chỉ được kéo dài không
quá 10 năm. Những ngoại lệ đưa ra sau khi WTO có hiệu lực thì phải được 3/4 số
thành viên đồng ý. Những ngoại lệ kéo dài hơn 5 năm sẽ được Hội đồng Thương mại
Dịch vụ rà soát.
Danh mục ngoại lệ MFN do các thành viên đệ trình phải chỉ rõ ngoại lệ dành cho
thành viên nào, trong thời gian bao lâu và áp dụng đối với những biện pháp gì.
219. Các dịch vụ do các cơ quan chính phủ cung cấp có thuộc phạm vi điều chỉnh của
GATS hay không?
Không. Các dịch vụ do các cơ quan chính phủ cung cấp và nói chung là những dịch vụ
không mang tính thương mại, không có sự cạnh tranh đều không thuộc phạm vi điều
chỉnh của GATS.
220. WTO phân loại các ngành dịch vụ như thế nào?
WTO phân loại dịch vụ thành 12 ngành, trong mỗi ngành lại chia thành một số phân
ngành:
1. Dịch vụ kinh doanh
Các dịch vụ nghề nghiệp: các dịch vụ pháp lý, kế toán, kiểm toán, kiến trúc, bất
động sản, thiết kế, y tế, nha khoa, thú y và các dịch nghề nghiệp khác.
Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan.
Dịch vụ nghiên cứu và phát triển.
Dịch vụ bất động sản, cho thuê.
Các dịch vụ kinh doanh khác: tư vấn quản lý, quảng cáo, thử nghiệm kỹ thuật, bảo
dưỡng sửa chữa, đóng gói in ấn, tổ chức hội nghị, vệ sinh.
2. Dịch vụ liên lạc:
Dịch vụ bưu chính và chuyển phát.
Tất cả các dạng dịch vụ viễn thông cơ bản và gia tăng giá trị kể cả thông tin trực
tuyến và xử lý dữ liệu.
Dịch vụ nghe nhìn: dịch vụ phát thanh, phát hình, dịch vụ sản xuất và phân phối
băng hình, liên lạc vệ tinh.
3. Dịch vụ xây dựng và thi công.
- -
65
4. Dịch vụ phân phối: đại lý hoa hồng, bán lẻ, bán buôn và đại lý mượn danh.
5. Dịch vụ giáo dục.
6. Dịch vụ môi trường: dịch vụ thoát nước, vệ sinh và xử lý chất thải.
7. Dịch vụ tài chính:
Bảo hiểm trực tiếp, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ bảo hiểm hỗ
trợ khác,
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, kể cả các dịch vụ liên quan đến
chứng khoán, cung cấp thông tin tài chính và quản lý tài sản.
8. Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và dịch vụ xã hội.
9. Dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành.
10. Dịch vụ giải trí, văn hoá và thể thao.
11. Dịch vụ vận tải: dịch vụ vận tải đường biển, đường sông, đường bộ, vận tải đường
ống, vận tải đa phương thức, các dịch vụ hỗ trợ cho tất cả các phương thức vận tải.
12. Các dịch vụ khác: gồm bất kỳ các loại hình dịch vụ nào chưa được nêu ở trên.
221. Trong Hiệp định GATS có áp dụng những ngoại lệ nào?
GATS có ngoại lệ đối với một số trường hợp sau đây:
Các tổ chức kinh tế khu vực: các thành viên của các tổ chức này được phép tự do
hoá dịch vụ ở mức cao hơn mức cam kết trong WTO
Hạn chế cán cân thanh toán: các nước được phép hạn chế chuyển tiền cho các
dịch vụ đã cam kết trong trường hợp gặp khó khăn về cán cân thanh toán
Tham gia thị trường lao động: cho phép các nước dỡ bỏ mạnh mẽ hơn nữa các rào
cản đối với việc di chuyển của người lao động
Ngoại lệ chung: cho phép các nước áp dụng các biện pháp để đảm bảo đạo đức xã
hội, sức khoẻ con người và động - thực vật
Ngoại lệ vì lý do an ninh.
222. Bản cam kết dịch vụ có cấu trúc như thế nào?
Bản cam kết về dịch vụ của mỗi nước dành cho các nước thành viên WTO khác
thường có dạng như sau:
Ngành dịch
vụ
Phương thức cung cấp
Hạn chế về
mở cửa thị trường
Hạn chế về
đãi ngộ quốc gia
CÁC CAM KẾT CHUNG
1. Cung cấp qua biên giới
2. Tiêu thụ ở nước ngoài
3. Hiện diện thương mại Được phép thành
- -
66
lập văn phòng đại
diện, liên doanh,
không được phép
lập chi nhánh. Việc
lập hợp đồng hợp
tác kinh doanh tuỳ
theo cam kết ở từng
ngành dịch vụ cụ
thể
4. Hiện diện thể nhân
CÁC CAM KẾT CỤ THỂ (theo từng ngành dịch vụ)
Dịch vụ kế
toán,
kiểm
toán
1. Cung cấp qua biên giới Không hạn chế
Không hạn chế
2. Tiêu thụ ở nước ngoài Không hạn chế
Không hạn chế
3. Hiện diện thương mại Chỉ
được phép
cung cấp dịch vụ
cho doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước
ngoài
Không hạn chế
4. Hiện diện thể nhân
Chưa cam kết
Chưa cam kết
Như ta thấy, bảng cam kết có 4 cột chính là ngành dịch vụ, phương thức cung cấp, hạn
chế về mở cửa thị trường và hạn chế về đãi ngộ quốc gia. Đôi khi, cột thứ hai được bỏ
đi và mỗi phương thức cung cấp dịch vụ được thể hiện bằng các con số (1), (2), (3),
(4) đặt ngay trong hai cột về các hạn chế.
223. Các cam kết chung là các cam kết như thế nào?
Các cam kết chung (hay còn gọi là cam kết sàn, cam kết nền) là những cam kết được
áp dụng cho tất cả hoặc hầu hết các ngành dịch vụ sẽ được liệt kê ở phần các cam kết
cụ thể. Đây cũng có thể hiểu là các cam kết tối thiểu, nghĩa là nếu ở phần các cam kết
cụ thể không nêu yêu cầu gì thêm thì ít nhất nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cũng sẽ
được hưởng đãi ngộ như đã nêu ở phần cam kết chung.
Ví dụ ở bảng trên, phần cam kết chung đối với phương thức hiện diện thương mại ghi
là: “Được phép thành lập văn phòng đại diện, liên doanh, không được phép lập chi
nhánh. Việc lập hợp đồng hợp tác kinh doanh tuỳ theo cam kết ở từng ngành dịch vụ
cụ thể”. Điều này có nghĩa là:
Ở bất kỳ ngành dịch vụ nào (trong số các ngành dịch vụ được liệt kê ở phần cam
kết cụ thể), nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cũng có thể được đặt văn phòng đại
diện hoặc lập liên doanh với một nhà cung cấp dịch vụ của nước sở tại. Tuy nhiên,
những điều kiện khác như tỷ lệ vốn trong liên doanh, vốn pháp định tối thiểu, …
không thấy được nêu ở đây, nhưng có thể sẽ được nêu ở phần cam kết cụ thể.
Không một nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài nào được phép lập chi nhánh tại
nước sở tại.
Về cơ bản, hạn chế việc lập hợp đồng hợp tác kinh doanh. Muốn biết ngành dịch
vụ nào được phép lập hợp đồng hợp tác kinh doanh thì phải xem ở phần các cam
kết cụ thể.
- -
67
224. Các cam kết cụ thể khác các cam kết chung như thế nào?
Các cam kết cụ thể là những cam kết chỉ áp dụng riêng cho từng ngành dịch vụ. Tại
mỗi ngành dịch vụ, các cam kết này cũng thể hiện qua 4 phương thức cung cấp dịch
vụ. Do đặc thù của từng ngành dịch vụ nên nội dung cam kết ở mỗi ngành có thể rất
khác nhau.
So với phần cam kết chung, các cam kết cụ thể có thể là sự chi tiết hoá của cam kết
chung, nêu lên những hạn chế hoặc điều kiện cụ thể hơn đối với từng ngành dịch vụ.
Ví dụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài muốn thành lập liên doanh trong ngành dịch
vụ khách sạn phải có tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không quá 70%, nhưng nếu lập
liên doanh trong ngành dịch vụ đại lý lữ hành thì tỷ lệ vốn nước ngoài không được quá
40%. Một ví dụ khác, trong ngành dịch vụ quảng cáo, bên nước ngoài chỉ được lập
liên doanh với đối tác thuộc danh sách do nước chủ nhà đưa ra.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |