285. Uỷ ban về Thương mại và Môi trường (CTE) có nhiệm vụ gì?
Đây là một uỷ ban được thành lập từ năm 1994 và đi vào hoạt động cùng với WTO.
Uỷ ban này không có chức năng giám sát điều hành các hiệp định WTO như các uỷ
ban khác mà chỉ nhằm nghiên cứu sâu hơn về các khía cạnh tác động qua lại và liên hệ
giữa thương mại với môi trường.
286. Phương pháp chế biến và sản xuất có liên quan đến môi trường ở điểm nào?
Khác với tiêu chuẩn của bản thân hàng hoá, tiêu chuẩn về phương pháp chế biến và
sản xuất (PPM) được thể hiện ở giai đoạn sản xuất, trước khi sản phẩm hàng hoá hình
thành.
Phương pháp chế biến và sản xuất có mối liên hệ đối với tình trạng môi trường, đặc
biệt là trong việc sản xuất những hàng hoá sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên.
Một số ví dụ:
Dùng chất nổ để đánh bắt cá sẽ làm huỷ diệt hàng loạt cá con và nhiều loài sinh
vật biển khác;
- -
84
Sản xuất giấy phải sử dụng một lượng lớn hoá chất để xử lý gỗ, và nếu không xử
lý tốt thì chất thải từ nhà máy giấy có thể gây ô nhiễm xung quanh.
Tuy nhiên, WTO, mà cụ thể là các Hiệp định TBT và Hiệp định SPS, không cho phép
các nước coi PPM là một cơ sở để hạn chế thương mại. Lý do là trình độ phát triển của
các nước khác nhau nên mức độ đánh giá tác động đối với môi trường cũng có thể
khác nhau. Điều đó có nghĩa là quá trình sản xuất một loại hàng hoá có thể gây ô
nhiễm tại nước sản xuất, nhưng nước nhập khẩu không được coi đó là một lý do để
cấm nhập khẩu.
Trên thực tế, một số tổ chức môi trường và tổ chức phi chính phủ vẫn thúc ép các
nước coi hạn chế thương mại như một biện pháp để đạt được mục đích bảo vệ môi
trường. Một số nước phát triển lợi dụng điều này để thiết lập những tiêu chuẩn khắt
khe đối với hàng hoá từ các nước đang phát triển, mà thực chất đó chính là một hàng
rào bảo hộ trá hình.
287. Yêu cầu về bao bì có phải là một vấn đề liên quan đến môi trường không?
Bao bì được hiểu như là những vật liệu đi kèm với hàng hoá nhằm chứa đựng, bảo
quản hàng hoá ở bên trong.
Yêu cầu về bao bì là một vấn đề liên quan đến môi trường vì cùng với sự gia tăng hàng
hoá về số lượng và chủng loại thì nhu cầu bao bì cũng tăng lên đáng kể, mà sau khi
hàng hoá đến tay người tiêu dùng thì bao bì đều bị xé bỏ, vứt đi, tạo thành một lượng
lớn rác thải. Người ta đã tính rằng trung bình 25-30% rác thải của một gia đình châu
Âu là các loại bao bì. Nếu bao bì làm bằng loại vật liệu khó phân huỷ thì sẽ làm môi
trường bị ô nhiễm, chưa kể đến sự lãng phí khi bao bì chỉ dùng được một lần.
Do đó, một số nước yêu cầu các nhà sản xuất phải dùng loại bao bì có thể tái sử dụng
nhiều lần, hoặc có thể tái chế được, hoặc có thể phân huỷ dễ dàng thành những chất
không độc hại. Yêu cầu này sẽ làm tăng chi phí bao bì và qua đó, tất nhiên, sẽ làm
tăng giá thành của hàng hoá.
288. Nhãn sinh thái là gì? Nhãn sinh thái và nhãn môi trường có phải là một không?
Nhãn sinh thái là một loại nhãn được cấp cho những sản phẩm thoả mãn một số tiêu
chí nhất định do một cơ quan chính phủ hoặc một tổ chức được chính phủ uỷ nhiệm đề
ra. Các tiêu chí này tương đối toàn diện nhằm đánh giá tác động đối với môi trường
trong những giai đoạn khác nhau của chu kỳ sản phẩm: từ giai đoạn sơ chế, chế biến,
gia công, đóng gói, phân phối, sử dụng cho đến khi bị vứt bỏ. Cũng có trường hợp
người ta chỉ quan tâm đến một tiêu chí nhất định đặc trưng cho sản phẩm, ví dụ mức
độ khí thải phát sinh, khả năng tái chế, v.v…
Về mặt hình thức, nhãn sinh thái có thể mang tên gọi khác nhau ở từng nước. Ví dụ
các nước Bắc Âu có nhãn Thiên nga trắng, Đức có nhãn Thiên thần xanh, trong khi ở
Singapore lại gọi là Nhãn xanh.
Ngoài nhãn sinh thái do một cơ quan đứng ra cấp, còn có một loại nhãn khác do nhà
sản xuất tự gắn lên sản phẩm của mình như một hình thức quảng cáo với người dùng.
Ta thấy có tủ lạnh dán nhãn "Không có CFC" (CFC là một loại hợp chất gây phá huỷ
tầng ozone) hoặc có loại pin ghi "Không có thuỷ ngân".
- -
85
Cả hai loại nhãn trên, nhãn sinh thái và nhãn do nhà sản xuất tự dán, đều gọi chung là
nhãn môi trường. Thông thường, nhãn môi trường được khuyến khích để các nhà sản
xuất tự nguyện áp dụng nhằm tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường, đồng
thời nhắc nhở người tiêu dùng về ý thức bảo vệ môi trường bằng cách chọn mua
những sản phẩm đã được dán nhãn. Nhưng gần đây có xu hướng thể chế hoá việc dán
nhãn này như một yêu cầu bắt buộc đối với một số chủng loại hàng hoá. Trong trường
hợp như vậy, để được dán nhãn, tức là để thoả mãn những tiêu chí nhất định thì nhiều
nhà sản xuất, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, sẽ phải đầu tư thêm chi phí để
nâng cấp, cải tạo hoặc thay thế toàn bộ dây chuyền sản xuất cũ và đương nhiên giá
thành hàng hoá sẽ bị ảnh hưởng. Còn nếu không thì hàng hoá của họ sẽ không thể
thâm nhập được vào thị trường nước yêu cầu dán nhãn.
289. Các hiệp định môi trường đa phương là gì, và chúng có tác động thế nào đến
thương mại?
Tương tự như trong lĩnh vực thương mại, trong lĩnh vực môi trường cũng có nhiều văn
kiện pháp lý ký kết giữa các quốc gia, được gọi chung là các hiệp định môi trường đa
phương (MEA). Để đảm bảo hiệu lực thực thi, một số MEA đưa ra chế tài bằng cách
cho một nước thành viên hạn chế nhập khẩu từ một nước thành viên khác vi phạm quy
định của hiệp định ấy.
Nhìn chung, các MEA có thể chia thành 3 nhóm:
Bảo vệ các tài nguyên toàn cầu: thuộc nhóm này có Công ước Vienna về Bảo vệ
tầng Ozone, Hiệp định về Thay đổi Khí hậu;
Kiểm soát các chất độc hại: Công ước Basel về Kiểm soát việc Vận chuyển Chất
độc hại qua Biên giới;
Bảo vệ các loài động - thực vật quý hiếm: Công ước về Buôn bán Quốc tế các loài
Động Thực vật Hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, Công ước Quốc tế về Quản lý
Cá voi.
Từ quan điểm bảo vệ môi trường, các chế tài bằng cách hạn chế thương mại là một
điều bình thường đối với các nước tham gia MEA. Nhưng vấn đề đặt ra là có những
nước thành viên WTO không tham gia các MEA. Như vậy, nếu nước đó có vi phạm
những nội dung quy định của MEA thì cũng không thể dùng chế tài của MEA để trừng
phạt nước đó được. Để buộc những nước chưa tham gia phải tham gia MEA, một số
MEA yêu cầu những nước thành viên MEA phải chấm dứt buôn bán loại chất gây độc
hại với nước chưa phải là thành viên MEA. Việc này có thể phù hợp với Điều XX của
GATT về ngoại lệ chung (cho phép hạn chế thương mại đối với những sản phẩm gây
nguy hại tới an ninh, đạo đức xã hội, môi trường, …) nhưng lại không tuân theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Chính vì vậy, MEA vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.
290. Thế nào là chính sách cạnh tranh?
Cạnh tranh được coi là một động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, làm tăng
hiệu quả xã hội của quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ thực sự
có tác dụng tích cực nếu đó là sự cạnh tranh lành mạnh, trong khuôn khổ điều tiết nhất
- -
86
định. Nếu không, cạnh tranh vô tổ chức sẽ làm biến dạng quan hệ cung - cầu trên thị
trường, gây rối loạn sản xuất và cuối cùng đem lại thiệt hại cho người tiêu dùng.
Chính sách cạnh tranh là những chính sách, luật lệ của Nhà nước nhằm đảm bảo cạnh
tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, chống lại các hành động phản cạnh tranh.
Hình thức thể hiện của chính sách này có thể là luật cạnh tranh, luật chống độc quyền
hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác có chứa nội dung liên quan đến cạnh tranh.
291. Những hình thức cạnh tranh thế nào được coi là không lành mạnh?
Tựu trung, người ta phân loại các hành động cạnh tranh không lành mạnh thành 4
nhóm như sau:
Cartel: Các doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm giống nhau cùng thoả thuận
những biện pháp chung nhằm giành và phân chia thị trường, ví dụ như cùng tẩy
chay sản phẩm của doanh nghiệp khác, ghìm giá, hạn chế sản lượng. Cartel có thể
hình thành giữa các doanh nghiệp trong một nước với nhau hoặc giữa doanh
nghiệp nhiều nước.
Cartel ngành dọc: Các doanh nghiệp trong nước liên quan đến các công đoạn sản
xuất một sản phẩm cùng thoả thuận liên kết nhằm ngăn cản doanh nghiệp nước
ngoài thâm nhập quá trình sản xuất đó.
Lạm dụng vị thế độc quyền để nâng giá, hạ thấp chất lượng, bắt chẹt người mua
hoặc người bán.
Sáp nhập nhằm tiến tới độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh.
292. Tại sao WTO lại đưa chính sách cạnh tranh vào phạm vi xem xét của mình?
Thật ra, từ rất lâu trước khi WTO ra đời, vấn đề cạnh tranh đã được đề cập đến trong
dự thảo Hiến chương Havana năm 1947 nhằm thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế
(ITO). Nhưng ITO không ra đời, và GATT hình thành chỉ kế thừa phần chính sách
thương mại của Hiến chương Havana mà thôi. Vì thế, vấn đề chính sách cạnh tranh
vẫn được tiếp tục thảo luận từ đó đến nay.
Để hiểu thêm tại sao WTO lại quan tâm đến chính sách cạnh tranh, cũng cần tìm hiểu
thêm về mối quan hệ qua lại giữa chính sách thương mại và chính sách cạnh tranh.
293. Thuận lợi hoá thương mại là gì, và khác xúc tiến thương mại ở điểm nào?
Thuận lợi hoá thương mại là việc cải tiến các thủ tục, điều kiện, giấy tờ liên quan đến
quá trình xuất khẩu, quá cảnh hàng hoá nhằm giúp hàng hoá lưu thông nhanh chóng
hơn với ít chi phí hơn. Trong khi đó, xúc tiến thương mại lại là hoạt động nhằm tăng
doanh số bán ra cho doanh nghiệp (ở cấp độ quốc gia, đôi khi xúc tiến thương mại chỉ
được hiểu là tăng doanh số xuất khẩu).
Thuận lợi hoá thương mại thể hiện rõ nhất ở những khâu như cải cách thủ tục hải
quan, hài hoà tiêu chuẩn, đơn giản hoá các hình thức giấy tờ, áp dụng các hình thức
giao dịch phi giấy tờ, v.v… Xúc tiến thương mại thể hiện ở những hoạt động như hội
chợ, triển lãm, quảng cáo.
- -
87
294. Một số điều khoản của các hiệp định WTO đã chứa đựng nội dung về thuận lợi
hoá thương mại, vậy vị trí của vấn đề này trong WTO giờ đây thế nào?
Đúng là một số hiệp định của WTO như Hiệp định ACV, Hiệp định PSI, Hiệp định
ROO, Hiệp định ILP, Hiệp định TBT, Hiệp định SPS đã có những điều khoản mang
tính thuận lợi hoá thương mại, nhưng người ta cho rằng những nội dung này còn chưa
đủ, mà chỉ dừng ở mức độ giảm bớt tác động của các hàng rào phi thuế quan. Vì thế,
để thể hiện ý chí chính trị cũng như tăng cường hiệu lực của các biện pháp thuận lợi
hoá thương mại, người ta muốn WTO thể chế hoá vấn đề này bằng một văn kiện có
tính ràng buộc đối với tất cả các nước thành viên. Mặt khác, sự xuất hiện của những
vấn đề như thương mại điện tử - một phương thức giúp thuận lợi hoá thương mại rất
nhiều - cũng đòi hỏi WTO phải có sự quan tâm điều chỉnh.
295. Thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử là một phương thức giao dịch thương mại thông qua các phương
tiện điện tử. Tuỳ theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ được buôn bán mà một phần
hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình giao dịch thương mại đều có thể thực hiện
bằng các phương tiện điện tử: quảng cáo, chào hàng, mặc cả, đặt hàng, hợp đồng,
thanh toán, giao hàng.
Những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin và viễn thông, đặc biệt là sự lan
truyền mạnh mẽ của Internet, là yếu tố thúc đẩy thương mại điện tử tăng trưởng không
ngừng.
296. WTO dự kiến xử lý thế nào với vấn đề thương mại điện tử?
Thương mại điện tử đem lại những lợi ích rõ rệt trong thuận lợi hoá thương mại, cắt
giảm chi phí, tiết kiệm thời gian giao dịch giữa người bán và người mua. Tuy nhiên,
thương mại điện tử cũng đặt ra hàng loạt vấn đề ở tầm cấp quốc gia và quốc tế: thu
thuế các sản phẩm, dịch vụ chuyển tải qua mạng như thế nào, bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ và quyền lợi người tiêu dùng ra sao, có công nhận hình thức hợp pháp của một hợp
đồng không phải ở dạng văn bản (giấy) hay không, v.v…
Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ II (5/1998) đã ra một Tuyên bố về Thương mại Điện
tử Toàn cầu, trong đó yêu cầu Đại Hội đồng có một chương trình công tác nhằm
nghiên cứu toàn diện về thương mại điện tử và những vấn đề liên quan.
chính sách cạnh tranh
: competition policy
hiệp định môi trường đa phương
: multilateral environmental agreement (MEA)
nhãn môi trường
: environmental label
nhãn sinh thái
: eco-label
thuận lợi hoá thương mại
: trade facilitation
thương mại điện tử
: electronic commerce; e-commerce
thương mại và môi trường
: trade and environment
xúc tiến thương mại
: trade promotion
yêu cầu về bao bì
: packaging requirements
***
- -
88
14
GIA NHẬP WTO
297. Quá trình gia nhập WTO diễn ra như thế nào?
Khi có một nước nộp đơn xin gia nhập, WTO sẽ thành lập ra một ban công tác về việc
gia nhập của nước đó. Tất cả các nước thành viên WTO đều có thể cử đại diện tham
gia ban công tác này.
Chính phủ nước gia nhập sẽ phải trình bày toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế và
thương mại của mình liên quan đến việc thực hiện các hiệp định của WTO sau này.
Tập hợp các thông tin đó được nêu trong một văn bản gọi là bị vong lục.
Sau khi nhận được bị vong lục của nước gia nhập, ban công tác sẽ gửi bị vong lục đó
đến tất cả các nước thành viên WTO để các nước này có thể đặt ra những câu hỏi yêu
cầu làm rõ thêm về những vấn đề mình quan tâm. Nước gia nhập có nghĩa vụ trả lời
toàn bộ các câu hỏi đó. Việc trả lời câu hỏi cũng có ý nghĩa cập nhật lại những thông
tin nêu trong bị vong lục đã bị lạc hậu.
Sau khi hoàn thành việc trả lời câu hỏi, nước gia nhập sẽ bước vào đàm phán chính
thức với các nước thành viên WTO thông qua các cuộc họp của ban công tác. Số
lượng các cuộc họp này không ấn định trước nên quá trình gia nhập nhanh hay chậm
là tuỳ thuộc vào giai đoạn này. Có những nước chỉ mất một vài năm để trở thành thành
viên WTO, trong khi có những nước phải mất nhiều thời gian hơn mà vẫn chưa vượt
qua giai đoạn này. Điển hình là trường hợp của Trung Quốc, bắt đầu đàm phán từ năm
1987, đến cuối năm 2001 mới trở thành thành viên chính thức của WTO.
Ngoài các cuộc họp của ban công tác, nước gia nhập còn phải tiến hành các cuộc đàm
phán song phương với các đối tác thương mại chính. Cần phải có các cuộc đàm phán
song phương này vì mỗi nước lại có những mối quan tâm khác nhau đối với nước gia
nhập. Tuy nhiên, những kết quả đàm phán song phương này một khi đã trở thành cam
kết thì lại được áp dụng cho tất cả các nước thành viên WTO.
298. Bản chào ban đầu là gì?
Bản chào ban đầu là danh mục những cam kết, nghĩa vụ mà nước gia nhập dự kiến sẽ
chấp hành khi trở thành thành viên của WTO. Bản chào này thường bao quát hầu hết
các lĩnh vực (thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, trợ cấp,
v.v…), có tính đến yêu cầu của các nước thành viên Ban Công tác gia nhập.
Bản chào ban đầu được nước gia nhập đưa ra trước khi bắt đầu các cuộc đàm phán về
mở cửa thị trường và là cơ sở để tiến hành các cuộc đàm phán về mở cửa thị trường.
Trải qua quá trình đàm phán, những cam kết, nghĩa vụ trong bản chào này sẽ được sửa
đổi dần để trở thành cam kết chính thức khi kết thúc đàm phán và nước gia nhập trở
thành thành viên của WTO.
299. Việc các nước thành viên Ban Công tác gia nhập nêu yêu cầu khác gì với việc các
nước này đặt câu hỏi trước đó?
Các câu hỏi được nêu ra trong quá trình minh bạch hoá chính sách nhằm làm rõ hiện
trạng thương mại của nước gia nhập. Các câu hỏi có thể được nêu ra theo thứ tự bất
kỳ, không cần mang tính hệ thống nào cả.
- -
89
Còn yêu cầu được các nước thành viên Ban Công tác gia nhập đưa ra vào cuối giai
đoạn minh bạch hoá chính sách. Đây không phải là nhằm làm rõ chính sách nữa mà là
những đòi hỏi về mở cửa thị trường mà nước gia nhập cần đáp ứng. Những đòi hỏi này
nhiều hay ít, mức độ như thế nào tuỳ thuộc vào sự quan tâm của nước thành viên Ban
Công tác đối với thị trường tại nước gia nhập.
300. Thế nào là điều khoản "bảo lưu"?
Nghị định thư áp dụng tạm thời GATT 1947 cho phép các nước duy trì các văn bản
pháp luật trái với quy định của GATT vốn đã tồn tại từ trước khi các nước đó tham gia
GATT. Đến Vòng Uruguay, điều khoản này đã được bãi bỏ. Mọi luật lệ, biện pháp
vốn được bảo lưu trước đây sẽ phải tuân theo các quy định của WTO. Với các nước
mới gia nhập, họ có thể được phép có một khoảng thời gian quá độ để loại bỏ dần các
luật lệ, biện pháp không phù hợp.
301. Thế nào là điều khoản "không áp dụng"?
Điều XXXV của GATT 1947 quy định điều khoản "không áp dụng". Theo đó, khi một
nước xin gia nhập, các thành viên của GATT có thể từ chối không cho nước đó hưởng
những ưu đãi mà mình dành cho các nước thành viên GATT khác. Điều khoản này nảy
sinh từ việc Ấn Độ từ chối dành ưu đãi trong GATT cho Nam Phi do chế độ phân biệt
chủng tộc ở nước này.
Với WTO, điều khoản không áp dụng được nêu ở Điều XIII của Hiệp định thành lập
WTO. Tuy nhiên, có điểm khác nhau trong điều khoản không áp dụng ở WTO so với
GATT. Trong GATT, điều khoản này chỉ được sử dụng trước khi nước gia nhập bước
vào giai đoạn đàm phán thuế quan. Trong WTO, điều khoản này có thể được nêu ra
ngay cả khi nước gia nhập đã bắt đầu đàm phán thuế quan hoặc đã có những ưu đãi cụ
thể. Như vậy, nước gia nhập ở vào thế bất lợi hơn vì bị đe doạ rút mất ưu đãi bất cứ
lúc nào. Trong trường hợp của Mông Cổ, mặc dù Hoa Kỳ đã đàm phán và đạt được
một số ưu đãi thuế quan của Mông Cổ, nhưng cuối cùng Hoa Kỳ vẫn thi hành điều
khoản "không áp dụng" đối với nước này.
302. Lợi ích của việc tham gia WTO là gì?
Tham gia hệ thống thương mại đa phương, cụ thể là WTO, đem lại những lợi ích sau:
mở rộng cơ hội thương mại với các nước thành viên WTO trên cơ sở được hưởng
những ưu đãi do kết quả 50 năm đàm phán từ khi thành lập GATT đến nay;
tạo ra môi trường kinh doanh ổn định hơn thông qua quan hệ thương mại ràng
buộc chặt chẽ, các quy định rõ ràng và có nhiều khả năng dự báo trước;
thông qua một cơ chế giải quyết tranh chấp để bảo vệ các quyền và quyền lợi của
mình;
thoát khỏi thế cô lập, hội nhập với nền kinh tế thế giới, qua đó nâng cao lợi ích
kinh tế và lợi ích các mặt khác;
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước thông qua việc đặt các doanh nghiệp vào
môi trường cạnh tranh, tiếp cận với công nghệ, trình độ, chất lượng quốc tế, đổi
mới hệ thống luật pháp, tăng cường thu hút vốn đầu tư dưới các hình thức khác
nhau.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |