Một số kịch bản cho chính sách thương mại của Việt Nam



tải về 371.62 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu09.06.2018
Kích371.62 Kb.
#39743
1   2   3

Số liệu


Mô phỏng được thực hiện bằng việc sử dụng mô hình GTAP cơ sở dữ liệu phiên bản 6 (GTAP 2005). Cơ sở dữ liệu có 87 nước/khu vực và 57 ngành được tổng hợp lại ở bảng A1 trong phần phụ lục. Nghiên cứu đã chủ đích phân tổ các nước theo hướng cố gắng tách càng chi tiết càng tốt đối với thành viên các nước ASEAN nhưng lại ghép các nước thành Châu Phi và Châu Mỹ la tinh vì những nước này ít có quan hệ thương mại với Việt Nam. Việc phân tổ theo ngành nhằm mục tiêu tách các ngành bảo hộ đáng kể như dệt may, xe có động cơ và điện tử. Cơ sở dữ liệu bao gồm cả thuế suất, trợ cấp và thuế xuất khẩu, trợ cấp đầu ra và đầu vào như vốn, lao động và đất đai. Các chính sách biên mậu được xác định song phương vì vậy có thể xác định được tác động của thuế suất ưu đãi. Số liệu của năm 2001. Thuế suất ưu đãi được đưa vào cơ sở dữ liệu ban đầu. Giá trị này đặt bằng 0 trong thương mại giữa các nước thành viên AFTA. Tuy nhiên, một số nhóm thương mại ưu đãi khác như NAFTA và Mercosur không áp dụng phương pháp này. Thu từ hạn ngạch dệt may được coi như thuế xuất khẩu, nghĩa là khoản này sẽ vào túi chính phủ nước xuất khẩu. So với phiên bản trước, thuế xuất trong cơ sở dữ liệu hiện hành được điều chỉnh giảm xuống bởi vì thuế suất trong hạn ngạch được áp đặt khi hạn ngạch được dùng dưới 90%.6 Rất nhiều trong số 1400 thuế suất hạn ngạch không được dùng hết vì lý do hành chính. Điều này cho thấy thuế suất ngoài hạn ngạch có trọng số bằng 0 và làm cho mọi người lầm tưởng rằng lợi ích đạt được từ tự do hóa rất nhỏ.
Mô hình

GTAP là mô hình cân bằng tổng thể bao gồm sự liên kết giữa các nền kinh tế và giữa các ngành trong các nền kinh tế. Các ngành được giả định là cạnh tranh hoàn hảo và được mô tả dưới dạng lợi nhuận cố định theo quy mô. Có sự phân biệt giữa các mặt hàng nhập khẩu với các mặt hàng sản xuất trong nước cũng như nhập khẩu từ các nguồn khác nhau. Các yếu tố sơ cấp như (đất, lao động không có kỹ năng, lao động có kỹ năng, vốn và tài nguyên thiên nhiên) có thể thay thế được nhưng yếu tố sơ cấp gộp được dụng theo tỷ lệ cố định đối với đầu vào trung gian. Quy tắc đóng mô hình chuẩn của GTAP được thay đổi theo hai cách: (i) cán cân thương mại cố định cho tất cả các khu vực trừ Mỹ.7 Điều này ngăn không cho thặng dư cán cân dư thương mại tăng một cách đột ngột; và (ii) lương cho lao động không có kỹ năng ở các nước đang phát triển là cố định. Điều này cho phép những lao động thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp có thể làm thêm một khi các ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ sử dụng nhiều lao động không có kỹ năng có nhu cầu tăng lao động. Thay đổi đầu tiên tác động tới sự phân bổ phúc lợi toàn cầu nhưng không ảnh hưởng đến mức phúc lợi ích trong khi thay đổi thứ hai có xu hướng gia tăng phúc lợi của các nước đang phát triển.



4. Kết quả


Những nhà đàm phán thương mại nhìn chung quan tâm tới ảnh hưởng của tự do hóa thương mại đối với xuất khẩu và muốn tránh tình trạng hàng nhập khẩu tràn lan, đặc biệt là hàng hóa từ Trung quốc. Những nhà hoạch định chính sách cũng muốn duy trì nguồn thu thuế, đặc biệt là khi nó chiếm tỷ trọng lớn trong thu ngân sách. Các nhà kinh tế lại có xu hướng tập trung vào phúc lợi xã hội, được đo bằng chỉ số chênh lệch phúc lợi quy đổi (equivalent variation) trong mô hình GTAP. Đây là chỉ số phản ánh tiêu dùng, thể hiện mức sử dụng đầu vào cần thiết để mở rộng xuất khẩu. Cuối cùng, các nhà hoạch định chính sách quan tâm đến chi phí liên quan đến điều chỉnh cơ cấu. Đây là những chi phí chỉ xảy ra một lần, không thể hiện trong những chỉ số phúc lợi hàng năm nhưng lại rất được quan tâm vì nề kinh tế sẽ phải trả các chi phí này trước khi bắt đầu thu được lợi ích. Để đáp ứng mối quan tâm trên, chúng tôi trình bày kết quả về xuất khẩu, nhập khẩu, thu thuế, phúc lợi và một chỉ số điều chỉnh cơ cấu cho mỗi kịch bản mô phỏng.
Xuất khẩu

Tất cả các kịch bản, không kể kịch bản hài hòa hóa, đều dẫn đến gia tăng xuất khẩu. Tăng trưởng xuất khẩu trong kịch bản tự do hóa thương mại đơn phương có thể đáng ngạc nhiên bởi vì kịch bản này không dẫn đến cải thiện thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Điều này có thể giải thích là do tăng nhập khẩu nhờ giảm thuế xuất dẫn đến gia tăng xuất khẩu để đảm bảo cán cân thương mại được giữ cố định. Tuy nhiên, nếu không có giả định này thì xuất khẩu cũng sẽ có thể tăng lên vì chi phí nhập khẩu thấp hơn làm giảm chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở những ngành mà nhập khẩu được dùng làm đầu vào trung gian. Hơn nữa, nhập khẩu toàn cầu trong mỗi ngành phải bằng xuất khẩu, do đó làm tăng nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.


Kịch bản hài hòa thuế suất không có ảnh hưởng lớn tới tổng giá trị xuất khẩu nhưng những thay đổi xuất khẩu theo ngành là đáng kể, cho thấy rằng tỷ lệ thuế suất hiện hành không đồng đều. Tác động chủ yếu là việc tăng xuất khẩu hàng may nhưng lại làm giảm xuất khẩu ở một số ngành công nghiệp chế biến. Giảm thuế suất hàng dệt làm cho chi phí sản xuất hàng may thấp hơn, tạo ra sức cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Thỏa thuận song phương với Liên minh Châu Âu ảnh hưởng không nhiều tới xuất khẩu, mặc dù có sự gia tăng chút ít trong dệt may. Thỏa thuận khu vực, mở rộng AFTA ra Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc mang lại lợi ích nhiều hơn, xuất khẩu tăng 27%. Có lợi nhất là xuất khẩu một số ngành gồm hóa chất, cao su và nhựa xuất sang Trung Quốc được thêm 1330 triệu USD, hàng dệt may xuất sang Liên minh Châu Âu thêm 1.469 triệu USD và sang Nhật Bản thêm 997 triệu USD. Có sự đổi hướng thương mại của xuất khẩu hàng chế tạo Thái Lan sang hàng các nước khác. Kịch bản thương mại đa phương trong đó thuế xuất giảm 50%, hầu như đều đem lại lợi ích gần như trong kịch bản khu vực, với tổng giá trị xuất khẩu tăng 21%, nhưng lợi ích tập trung nhiều vào quan hệ với liên minh Châu Âu từ việc tăng nhập khẩu hàng dệt từ Việt Nam. Cuối cùng, như dự đoán, những cơ hội xuất khẩu lớn sẽ bị bỏ lỡ nếu không tự do hóa đầy đủ. Lợi ích từ xuất khẩu trong kịch bản thương mại tự do là 56%, tương đương với kịch bản tự do hóa đơn phương.
Lĩnh vực ảnh hưởng lớn nhất là dệt may. Hàng may có xu hướng bị đánh thuế cao hơn hàng dệt bởi nó mang hàm lượng chế biến nhiều hơn vì thế nên cắt thuế suất cũng làm thay đổi mức giá tương đối. Hơn nữa, hàng dệt là đầu vào cho may mặc vì vậy giảm thuế ở Việt Nam ảnh hưởng đến chi phí sản xuất hàng may mặc. Việt Nam nhập khẩu 1,7 tỷ USD hàng dệt nhưng chỉ 109 triệu USD hàng may. Điều này dẫn đến những tác động khác nhau giữa kịch bản tự do hóa khu vực và tự do hóa đa phương, với mức tăng cao trong xuất khẩu hàng may ở kịch bản thứ nhất và mức tăng cao trong xuất khẩu hàng dệt ở kịch bản thứ hai. Ở một số ngành khác như hoá chất cũng cho thấy phần trăm lợi ích lớn vì có xuất phát điểm tương đối thấp. Tăng trưởng của những ngành này kéo các nguồn lực khỏi những ngành nông nghiệp, do đó xuất khẩu giảm ở một số ngành nông nghiệp. Việt Nam là một nước xuất khẩu gạo lớn, nhưng không xuất được nhiều vào các thị trường bảo hộ cao như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Bảng 4: Số liệu năm gốc và những thay đổi về xuất khẩu của Việt Nam trong các kịch bản


Ngành

Số liệu năm gốc


Đơn phương


Hài hoà hóa


Song phương


Khu vực


Đa phương

Thương mại tự do




triệu USD

%

%

%

%

%

%

























Gạo

418

0

-5

1

17

16

31

Rau, quả và hạt

256

-8

-1

0

26

10

29

Chăn nuôi

64

-19

-2

-1

-7

-7

-13

Cây trồng khác

839

-7

-3

0

-4

-8

-12

Thủy hải sản

49

-9

0

-1

-2

0

2

Khai thác tài nguyên

2315

0

-5

0

0

-2

-4

Thịt

33

4

-14

-2

-23

6

8

Đường

14

-10

-5

-1

-6

3

-1

Đồ uống & thuốc lá

23

16

-3

5

12

2

4

Hàng nông sản chế biến khác

1390

-6

-8

0

-7

-10

-21

Dệt

2868

196

7

8

43

75

187

May

1579

138

28

6

86

44

115

Hoá chất

497

7

-21

-1

269

41

207

Luyện kim

152

0

-22

-1

-5

-7

-15

Sản phẩm gỗ& giấy

563

100

-13

-1

7

39

88

Công nghiệp chế tạo khác

1551

16

-14

0

10

3

4

Điện tử

447

13

-31

-1

8

14

25

Vận tải và & thông tin liên lạc

534

19

-4

0

6

10

21

Dịch vụ kinh doanh

975

-20

-8

-1

-9

-18

-36

Dịch vụ và các hoạt động khác

576

-19

-7

-1

-7

-13

-27

























Tổng cộng

15143

57

-2

2

27

21

56

Nguồn: Mô phỏng từ GTAP

Nhập khẩu

Giảm thuế suất làm tăng nhập khẩu. Kịch bản tự do hóa thương mại đơn phương và toàn cầu là mô phỏng bãi bỏ hoàn toàn các loại thuế của Việt Nam. Trong cả hai kịch bản này, nhập khẩu tăng lên trên 1/3. Hài hoà hóa thuế suất nhìn chung ảnh hưởng không nhiều tới nhập khẩu nói chung mặc dù có sự thay đổi đáng kể ở một số ngành. Hội nhập khu vực cho thấy gia tăng nhập khẩu từ một số thành viên mới, đặc biệt là hàng công nghiệp chế biến từ Trung Quốc (tổng cộng 3,6 tỷ USD) và nhập khẩu ít hơn từ thành viên hiện tại. Kịch bản đa phương cho thấy Trung Quốc, Đài Loan và Liên minh Châu Âu là những nước cung cấp mới.


Bảng 5: Thay đổi của nhập khẩu Việt Nam theo các kịch bản


Ngành


Số liệu năm gốc


Đơn ơhương


Hài hoà hóa


Song phương


Khu vực


Đa phương


Thương mại tự do




triệu USD

%

%

%

%

%

%

























Gạo

16

51

4

1

62

19

46

Rau, quả và hạt

71

74

15

1

40

30

89

Chăn nuôi

39

37

-15

2

16

25

58

Cây trồng khác

191

21

-5

1

7

9

24

Thủy hải sản

6

32

-4

1

12

15

35

Khai thác tài nguyên

1635

33

-2

1

19

14

34

Thịt

27

43

-1

5

17

17

52

Đường

39

33

-2

3

3

14

36

Đồ uống & thuốc lá

594

7

0

2

8

-2

4

Hàng nông sản chế biến khác

684

38

12

5

11

17

41

Dệt

1741

176

19

3

68

57

160

May

109

82

34

5

59

26

77

Hoá chất

2747

39

-5

1

23

15

45

Luyện kim

1448

13

-8

1

4

5

11

Sản phẩm gỗ& giấy

483

56

0

2

17

20

54

Công nghiệp chế tạo khác

4698

26

7

2

18

8

24

Điện tử

985

12

-4

1

7

5

13

Vận tải và & thông tin liên lạc

2457

23

-9

0

8

7

20

Dịch vụ kinh doanh

4268

21

-5

1

8

8

19

Dịch vụ và các hoạt động khác

2358

27

-15

1

11

13

32

























Tổng cộng

24595

37

-1

1

17

13

36

Nguồn: Mô phỏng GTAP


Nguồn thu Chính phủ


Cắt giảm thuế suất có thể dẫn tới tăng nguồn thu thuế nếu tăng về lượng của nhập khẩu lớn hơn mức cắt giảm thuế. Nguồn thu dường như tăng lên nếu giảm nhẹ thuế suất, mặc dù rõ ràng là thuế suất bị bãi bỏ thì nguồn thu tiến dần tới 0. Thu từ thuế trong năm gốc và trong các kịch bản được nêu ra ở bảng 6. Kịch bản thương mại tự do và tự do hóa đơn phương không tạo ra nguồn thu, còn kịch bản tự do hóa khu vực còn làm giảm đáng kể thu thuế. Kịch bản đa phương với việc cắt giảm giảm 50% thuế suất dẫn tới giảm 26% nguồn thu của Việt Nam, nó phản ánh mức độ bù đắp giữa giảm thuế và tăng nhập khẩu. Kịch bản hài hoà hóa thuế suất làm tăng nguồn thu đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch từ thuế suất cao và giá trị thương mại thấp sang thuế thấp và giá thương mại cao.
Bảng 6 Thu thuế của Việt Nam theo các kịch bản



Số liệu năm gốc


Đơn phương


Hài hoà hóa

Song phương


Khu vực


Đa phương


Thương mại tự do

triệu USD

%

%

%

%

%

%






















1846

-100

56

-8

-78

-26

-100


Phúc lợi

Việt Nam có thể đạt được hầu như toàn bộ lợi ích tiềm năng do cải cách thương mại theo kịch bản tự do hoá đơn phương (bảng 7). Lợi ích 3.496 triệu USD chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi ích tiềm năng ở mức 4.705 triệu USD nếu các nước khác cũng tự do hoá. Điều này cho thấy rằng hầu hết lợi ích có được là do cải cách trong nước hơn là lợi ích từ cải thiện khả năng gia nhập thị trường. Trong kịch bản đơn phương việc phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn đem lại 1.585 triệu USD cho phúc lợi trong khi đó việc sử dụng lao động thất nghiệp kỹ năng thấp vào sản xuất tạo ra phúc lợi 3.298 USD. Ảnh hưởng tiêu cực của việc giảm tỷ giá thương mại ước tính khoảng 1.596 triệu USD, chủ yếu do giảm giá xuất khẩu hàng dệt may.


So sánh các kịch bản cho thấy Việt Nam có lợi nhiều hơn từ tự do hoá đa phương (2.328 triệu USD) hơn là tự do hoá khu vực (1.481 triệu USD), mặc dù xuất nhập khẩu đều tăng nhiều trong kịch bản sau. Điều này chứng tỏ rằng nếu tập trung quá nhiều vào giá trị thương mại có thể dẫn đến sự nhầm tưởng.
Xét từ góc độ của người đàm phán, cũng nên xem xét những tác động đối với các nước khác. Hầu hết các nước được lợi do cải thiện gia nhập thị trường khi Việt Nam thực hiện tự do hoá đơn phương nhưng một số nước không được hưởng lợi, bao gồm các nước thành viên của AFTA, bởi vì thuế suất đối với những nước này đã gần như bằng 0 (ít nhất là theo số liệu). Hài hoà hóa thuế suất tạo ra người được kẻ mất giữa các đối tác thương mại, phụ thuộc vào việc cắt bỏ thuế suất song phương xảy ra ở đâu. Thoả thuận khu vực có xu hướng tạo bất lợi cho các nước không phải là thành viên. Tất cả các khu vực đều được lợi từ kịch bản tự do hoá đa phương, mặc dù một số nước trong từng khu vực có thể bị thiệt.
Sử dụng lao động rõ ràng là rất quan trọng. Giả sử mức lương cố định thì tổng số lao động không có tay nghề được sử dụng ở Việt Nam tăng lên khoảng 38%. Con số này dường như cao đến mức phi lý. Sử dụng lao động tăng đáng kể vào các ngành dệt (251%), may (185%), sản phẩm gỗ (71%) và viễn thông là (70%). Theo cách đóng mô hình chuẩn về lao động (số lượng lao động ngoại sinh/cố định), phúc lợi của Việt Nam theo kịch bản tự do hoá đa phương sẽ giảm xuống còn 972 triệu USD, giảm 2.382 triệu USD.8 2/3 nguồn lợi có được từ việc sử dụng lao động sẵn có. Cách đóng thực tế hơn là có sự đánh đổi giữa số lượng lao động sử dụng và tiền lương, nhưng quan hệ này không dễ xác định và vượt quá phạm vi nghiên cứu.
Bảng 7: Thay đổi phúc lợi của Việt Nam theo những kịch bản

Khu vực


Đơn phương


Hài hoà

Song phương


Khu vực


Đa phương


Thương mại tự do




triệu USD

triệu USD

triệu USD

triệu USD

triệu USD

triệu USD






















25 nước trong LM Châu Âu

1188

-85

-175

-1321

16216

27416

Mỹ

241

-84

-5

-1906

6921

14362

Nhật Bản

330

-12

-7

27919

16904

36121

Trung Quốc

48

314

-11

7187

85237

159787

Hàn Quốc

441

141

-1

26998

26115

58264

Ấn Độ

-128

-8

-2

-580

8040

14495

Indonesia

-89

-34

-1

720

2295

4670

Malaysia

-37

-53

-1

3083

2802

6117

Philippines

-21

-20

-1

51

2498

3855

Singapore

-132

-221

1

487

2210

4976

Thái Lan

-130

-127

0

2665

4071

8117

Việt Nam

3459

666

248

1481

2382

4705

Các nước còn lại trong Đông Nam Á

-13

0

0

45

1418

2527

Đài Loan

403

61

-1

-2110

6848

13709

Úc

37

-8

0

-490

1111

2601

Mỹ la tinh

-33

-5

-1

-730

25541

53132

Châu Phi bán Saharan

-17

-4

0

-525

5368

11289

Trung Đông châu Phi

-60

-10

-1

-54

2274

4277

Các nước phát triển khác

105

-6

0

-177

2102

4112

Các nước còn lại trên thế giới

-200

-54

-4

-182

50386

97916






















Tòan bộ thế giới

5392

451

38

62561

270739

532448

Nguồn: Mô phỏng GTAP
Điều chỉnh cơ cấu

Có lẽ phản đối thường thấy nhất đối với tự do hoá thương mại là các vấn đề nảy sinh do dịch chuyển các nguồn lực - đất, lao động và vốn - từ mục đích sử dụng này sang sử dụng khác. Đây là chi phí xảy ra một lần, trong khi những lợi ích thu được hoặc những thiệt hại xảy ra hàng năm. Nhưng chi phí điều chỉnh cơ cấu sẽ phải trả trước, có thể trong một vài năm, trước khi lợi ích hiện hữu. Hơn nữa, lợi ích là không chắc chắn và có thể không xảy ra mặc dù có những dự báo tốt nhất của những nhà mô hình kinh tế.


Thay đổi trong sản lượng đầu ra của Việt Nam theo từng ngành được nêu ra ở bảng 8 ứng với các kịch bản. Những thay đổi này rất giống với những thay đổi trong sử dụng lao động vì giả thuyết là có sự dịch chuyển lao động giữa các ngành.
Khó có thể ước tính được lượng chi phí. Sẽ không quá khó đối với nông dân khi chuyển từ trồng lúa sang trồng ngô hoặc từ nuôi lợn sang nuôi gà vịt, nhưng sẽ khó khăn hơn nhiều khi họ chuyển sang các ngành dệt may hay hàng quần áo hay ngân hàng hoặc bảo hiểm. Chi tiết là rất quan trọng. Tuy nhiên, có thể so sánh những yêu cầu về điều chỉnh cơ cấu của những kịch bản khác nhau bằng cách sử dụng chỉ số biến đổi cơ cấu.
Bảng 8: Thay đổi giá trị sản lượng của Việt Nam theo các kịch bản

Ngành


Số liệu gốc


Đơn phương


Hài hoà

Song phương


Khu vực


Đa phương


Thương mại tự do




$m

%

%

%

%

%

%

























Gạo

4560

1

-2

0

2

3

5

Rau, quả và hạt

946

1

-2

0

6

4

8

Chăn nuôi

1028

10

3

1

3

7

13

Cây trồng khác

934

-5

-2

-1

-5

-6

-10

Thủy hải sản

821

4

-1

0

2

3

5

Khai thác tài nguyên

4234

-1

-5

0

-3

0

-1

Thịt

137

4

-3

0

-6

6

6

Đường

217

-6

-2

0

1

-1

-6

Đồ uống & thuốc lá

651

6

-6

0

-5

4

2

Hàng nông sản chế biến khác

2594

-9

-9

-1

-5

-7

-17

Dệt

3538

216

2

2

41

80

215

May

1690

159

29

1

96

51

143

Hoá chất

1596

23

-5

0

96

22

91

Luyện kim

870

-5

-2

-1

-4

-4

-11

Sản phẩm gỗ& giấy

1972

51

-9

0

3

21

48

Công nghiệp chế tạo khác

5363

-6

-17

0

-12

-3

-10

Điện tử

1118

3

-14

-1

1

6

9

Vận tải và & thông tin liên lạc

2409

40

2

0

12

18

43

Dịch vụ kinh doanh

3132

-6

4

0

-3

-7

-14

Dịch vụ và các hoạt động khác

25743

7

1

0

4

5

10

Tổng cộng

63554

13

4

1

5

7

15

























Lao động không tay nghề




38

0

0

13

17

42

Nguồn: Mô phỏng GTAP. Tổng cộng là giá trị GDP.

Chỉ số thường sử dụng về thay đổi cơ cấu được tính theo công thức:


SCI=0,5∑│xi,t xi,t-1
Trong đó, xi,t và xi,t-1 là tỷ trọng trong giá trị sản lượng của từng ngành x, trước và sau sốc (kịch bản). Chỉ số bằng 0 chỉ sự không thay đổi, trong khi đó chỉ số bằng 100 có nghĩa thay đổi hoàn toàn phân bổ nguồn lực (theo Productivity Commission 1998, tr.69). Chỉ số bằng 10 nghĩa là 10% nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ lại giữa các ngành nhất định. Giá trị tuyệt đối nhằm tránh hiện tượng thay đổi theo hướng tích cực và tiêu cực triệt tiêu lẫn nhau. Chỉ số chủ yếu dùng để xem xét phần trăm thay đổi của giá trị sản lượng bởi vì giá trị năm gốc đã được tính đến. Với ứng dụng như vậy, mức độ phân tổ ở đây là quan trọng bởi vì chỉ số thay đổi theo số ngành. Nếu chúng ta đã dùng 3 thay vì 20 ngành, chỉ số cho thấy sự thay đổi ít hơn, bởi vì nguồn lực sẽ dịch chuyển giữa các tiều ngành hơn là giữa các ngành được xem xét. Chỉ số đã được tính toán cho Việt Nam theo các kịch bản và các kết quả được nêu ra ở bảng 9. Có những thay đổi đáng kể (13) trong 2 kịch bản mậu dịch tự do, ít thay đổi hơn trong kịch bản tự do hóa khu vực và tự do hóa đa phương, thay đổi tối thiểu ở kịch bản hài hoà hóa và tự do hóa song phương.
Những biến đổi trong các kịch bản hầu hết là ở ngành dệt và dịch vụ. Dệt - đóng góp khỏang 6% sản lượng ban đầu - có tăng trưởng cao, trong khi đó ngành dịch vụ - chiếm khoảng 40% giá trị của toàn nền kinh tế - gia tăng vừa phải (ở mức 7%). Ngành nông nghiệp, từ gạo đến các mặt hàng nông sản chế biến khác, đóng góp 25% giá trị sản lượng đầu ra ban đầu nhưng tỷ trọng lao động thì cao hơn nhiều.9
Bảng 9: Chỉ số điều chỉnh cơ cấu ở Việt Nam theo các kịch bản

Đơn phương

Hài hoà hóa

Song phương

Khu vực

Đa phương

Thương mại tự do



















13.2

2.6

0.2

6.1

5.6

13.8

Nguồn: Mô phỏng GTAP

5. Hàm ý và kết luận
Những kết quả mô phỏng cho thấy tự do hóa thương mại toàn cầu sẽ là kịch bản tốt nhất cho Việt Nam. Kịch bản này tối đa hóa phúc lợi hàng năm (4,7 tỷ USD) và tăng xuất khẩu (8,6 tỷ USD) gần tương đương với bất kỳ kịch bản nào khác. Việc đạt được tự do hóa thương mại toàn cầu nằm ngoài sự kiểm soát của bất kỳ một nước nào và điều này có thể không xảy ra trong tương lai gần. Tuy nhiên, Việt Nam có thể thực hiện tự do hoá đơn phương bằng việc bãi bỏ tất cả các loại thuế quan. Trog trường hợp đó, phúc lợi cũng như xuất khẩu sẽ đạt được tương tự như kịch bản trên. Bất lợi trong kịch bản này là việc tăng đáng kể nhập khẩu (37%) (mặc dù ngưòi tiêu dùng có thể cho đây là một lợi thế), giảm nguồn thu thuế và chi phí đáng kể cho điều chỉnh cơ cấu do 13% nguồn lực trong nền kinh tế được dịch chuyển từ ngành này sang ngành khác. Việt Nam cũng sẽ mất đi khả năng thương lượng, ngoài việc cảnh báo tăng thuế suất.
Kịch bản tự do hóa mậu dịch toàn cầu và tự do hóa đơn phương có thể không xảy ra trong một tương lai gần. Hài hoà hóa thuế suất tạo ra phúc lợi mà không có sự chuyển dịch đáng kể trong nền kinh tế. Nó cũng tăng thu thuế khoảng trên 50%. Nếu duy trì nguồn thu chính phủ được coi là mục tiêu chủ chốt, thuế suất có thể giảm hơn nữa, và do đó tạo ra nhiều phúc lợi hơn. Trong khi đó, trong phúc lợi có được là nhờ phân bổ tốt hơn các nguồn lực, tác động chủ yếu là chuyển dịch từ người đóng thuế sang người tiêu dùng. Thứ tự ưu tiên sẽ quyết định lựa chọn chính sách tốt nhất.
Kịch bản tự do hóa song phương bao gồm tự do hoá với liên minh châu Âu đáng ngạc nhiên là tạo ra lợi ích không đáng kể, với xuất khẩu tăng chỉ có 2%. Vấn đề rắc rối hơn là liên minh Châu Âu dường như chịu thiệt hại từ kịch bản này và có thể sẽ không tham gia vào hiệp định gây thiệt hại như vậy. Tuy nhiên, lợi ích từ việc cải thiện đầu tư và từ cải cách các ngành dịch vụ không được xem xét ở đây.
Thực tế hơn vẫn là kịch bản tự do hóa khu vực và tự do hóa đa phương. Kịch bản tự do hóa khu vực cho lợi ích xuất khẩu lớn hơn nhưng kịch bản tự do hóa đa phương cho lợi ích phúc lợi lớn hơn. Hai kịch bản này không nên coi là các phương án loại trừ nhau. Cả hai hình thức tự do hoá khu vực và đa phương này có thể xảy ra cùng nhau, và quả thực kịch bản thứ hai hầu như nằm ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam khi gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Là một thành viên của ASEAN, Việt Nam có ảnh hưởng tương đối ít tới việc mở rộng Khu vực Mậu dịch Tự do AFTA ra với Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Nhìn chung, trong bối cảnh kịch bản tự do hóa thương mại đa phương chắc chắn sẽ xảy ra thì có lẽ tốt hơn hết là Việt Nam nên thúc đẩy hợp tác trong khu vực càng nhiều càng tốt. Hài hòa hóa thuế suất dường như là phương án nhạy cảm, còn kịch bản tự do hóa đơn phương mang lại lợi ích nhiều mà không cần đàm phán với các nước khác.
Có một vài hạn chế trong nghiên cứu này. Một số kết quả có thể thấp hơn so với thực tế bởi không tính đến lợi ích động, tác động đến năng suất từ đầu tư, cạnh tranh, chuyển giao công nghệ và các yếu tố khác liên quan đến tự do hoá thương mại. Những nhân tố này có thể quan trọngkhông kém những tác động tĩnh nhưng khó có thể ước tính được. Hơn nữa, vào thời điểm các chính sách được thực hiện, ví dụ năm 2010, kích cỡ một nền kinh tế tăng trưởng ở mức 7% sẽ tăng gấp đôi so với năm 2001. Điều này có nghĩa là lợi ích hay thiệt hại sẽ cao hơn nhiều so với ước tính ở đây. Tuy nhiên, một số ngành có thể thu hẹp sản xuất trong phân tích tĩnh, như là ngành luyện kim có thể vẫn tiếp tục phát triển mở rộng sản xuất khi nền kinh tế tăng trưởng cao, mặc dù tăng với mức thấp hơn. Điều này giải tỏa đáng kể những vấn đề nảy sinh do điều chỉnh cơ cấu. Điều chỉnh để đối phó lại tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn vẫn dễ hơn so với điều chỉnh trong trường hợp giảm mức tuyệt đối trong giá trị đầu ra. Một hạn chế khác là không có số liệu về bảo hộ của ngành dịch vụ. Ngành này chiếm khoảng ½ giá trị đầu ra toàn quốc và tiềm vọng tăng trưởng trong nền kinh tế là ở ngành này. Xóa bỏ các cản trở đối với thương mại dịch vụ sẽ tác động lớn tới nền kinh tế.
Một hạn chế rõ ràng của mô hình là chất lượng của số liệu, dù đó là biến số (dòng thương mại), tham số (quan hệ hành vi như hệ số co giãn) hoặc biến số chính sách (thuế suất). Ví dụ, các méo mó thương mại được xem xét trong nghiên cứu này thông qua thuế suất. Việc thuế quan hóa hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch hay trợ cấp và việc giảm các loại thuế này đã được thực hiện nhằm làm nổi bật tác động của hàng rào phi thuế quan còn lại. Các hàng rào phi thuế quan này bao gồm yêu cầu về vệ sinh dịch tễ và rào cản kỹ thuật đối với thương mại, đang trở nên ngày càng quan trọng, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp. Hầu hết những rào cản này được giải quyết bên ngoài các vòng đàm phán về nông nghiệp, nhưng dù sao cũng vẫn phù hợp. Xuất khẩu có thể bị giới hạn do bên cung (cảng và đường) hay sự ưu tiên và cách tiến hành kinh doanh của các công ty marketing lớn. Một vấn đề khác là chất lượng của bảng đầu vào – đầu ra của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu GTAP. Đây không phải là số liệu mới nhất (năm 2000), mà là bản cập nhật của bảng vào - ra 1996. Trong thời gian 1996-2000, cấu trúc của nền kinh tế và thương mại đã thay đổi đáng kế. Nền kinh tế chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và xây dựng, với phần đóng góp của công nghiệp và xây dựng tăng từ 30 đến 37%, trong khi xuất khẩu chuyển từ các sản phẩm thô sang sản phẩm chế biến ở mức 11 điểm phần trăm. Xuất khẩu tăng nhanh từ 26-47% của GDP. Do đó, có thể bảng vào-ra cũ đánh giá thấp tác động tích cực của tự do hóa thương mại.
Mô hình GTAP chuẩn được sử dụng ở đây giả định các thị trường cạnh tranh hoàn hảo và lợi nhuận cố định theo qui mô. Một số mô hình hiện nay có thể biến đổi thành lợi nhuận tăng theo qui mô và độc quyền. Những mô hình này có xu hướng làm tăng lợi ích và thiệt hại nhưng đòi hỏi nhiều dữ liệu hơn, ví dụ số liệu về số doanh nghiệp, để đảm bảo kết quả không bị sai lệch.
Một vấn đề quan tâm khác là quy định về nguồn gốc xuất xứ. Vấn đề này thường được xem xét trong các hiệp định thương mại ưu đãi, nơi hàng hóa được miễn thuế từ nước này nhưng không áp dụng cho nước khác. Các nước không phải thành viên không thể xuất khẩu sang nước thứ hai qua một nước thứ ba trừ phi nước thứ ba có làm tăng giá trị hàng hóa hoặc chế biến hàng hóa. Quy định về nguồn gốc xuất xứ là phức tạp, nhưng được giả định là không xảy ra ở mô hình hiện tại. Về mặt này, chúng tôi đánh giá quá cao lợi ích từ hiệp định khu vực.
Một vấn đề liên quan đến hạn chế cuối cùng là hoàn thuế. Chính phủ Việt Nam cho phép các nhà sản xuất hàng xuất khẩu được nhận lại phần thuế quan đánh vào đầu vào nhập khẩu trung gian, mặc dù không rõ quy định này trên thực tế đã triển khai đến đâu (Athukorala 2006). Những vấn đề này chưa được xem xét trong bài nghiên cứu.
Một nghiên cứu sâu hơn có thể giải quyết một số những hạn chế nói trên. Phương pháp để giải quyết vấn đề số liệu bảo hộ dịch vụ đã được Dee (năm 2005) đưa ra. UNCTAD có một cơ sở dữ liệu về hàng rào phi thuế quan (UNCTAD 2005). Còn chưa có nhiều nghiên cứu CGE được thực hiện liên quan đến quy định về nguồn gốc xuất xứ, mặc dù Fetzer và Rivera (2005) đã chỉ ra làm thế nào để lồng quy định này vào mô hình cân bằng từng phần. Tăng lợi nhuận theo qui mô và cạnh tranh không hoàn toàn có thể được lồng vào phân tích CGE, mặc dù liệu nó có cung cấp thêm ý tưởng cho các nhà hoạch định chính sách còn đang được tranh luận. Cuối cùng, tác động chủ yếu của cải cách thương mại tập trung vào một số ngành công nghiệp (ngành dệt và quần áo). Do vậy nên có sự quan tâm sâu đến các ngành này.
Cuối cùng, những nhà hoạch định chính sách nên lưu ý đây là một phân tích kinh tế, không thể chú ý giải quyết những vấn đề xã hội, môi trường, chính trị và các mối quan tâm khác mà chính phủ cần xem xét. Đóng góp của nghiên cứu này là đưa ra những lựa chọn khác nhau và những cái được-mất, với một số gợi ý rõ ràng.

Каталог: Portals
Portals -> Phan Chau Trinh High School one period test no 2 Name: English : 11- time : 45 minutes Class: 11/ Code: 211 Chọn từ hoặc cụm từ thích hợp A, B, C, d để điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau
Portals -> PHẦn I: thông tin cơ BẢn về ĐẠi hàn dân quốc và quan hệ việt nam-hàn quốc I- các vấN ĐỀ chung
Portals -> Năng suất lao động trong nông nghiệp: Vấn đề và giải pháp Giới thiệu
Portals -> LẤy ngưỜi học làm trung tâM
Portals -> BÀi tậP Ôn lưu huỳnh hợp chất lưu huỳnh khí sunfurơ so
Portals -> TỜ trình về việc ban hành mức thu phí tham gia đấu giá quyền sử dụng đất
Portals -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Portals -> GIẤY Ủy quyền tham dự Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2016

tải về 371.62 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương