Quyền lực của số ít được lựa chọn60
Vì chúng ta nên chống lại việc chấp nhận lời kêu gọi quyền lực của một chuyên gia hoặc của một nhóm chuyên gia, chúng ta cũng phải có khả năng nhận ra những lời kêu gọi quyền lực của số ít được lựa chọn. Thỉnh thoảng cái được gọi là sự hấp dẫn đua đòi61 -- kiểu nguỵ biện kêu gọi quyền lực này lợi dụng tình cảm của chúng ta rằng chúng ta là những người quý tộc có lương tâm, rằng chúng ta không thuộc về số đông mà thuộc về số
ít được lựa chọn. Việc sử dụng những tính cách tuyệt vời để quảng cáo sản phẩm dựa vào lời kêu gọi sự hấp dẫn đua đòi, như những lời quảng cáo dưới đây:
j. Đầu lọc Camen. Chúng không phải dành cho tất cả mọi người.(Có lẽ bởi vì phần lớn mọi người đều không thích chúng chăng?)
k. Chúng tôi sản xuất loại rượu đắt nhất tại Mỹ. (Nhưng không phải là tốt nhất và ngon nhất?)
l. Chỉ một trong 50 quả nho được chọn để sản xuất loại rượu Sâmpanh tốt nhất. (Nếu chỉ 2% nho được trồng trong những ruộng nho làm rượu Sâmpanh và số còn lại được trồng để sản xuất rượu hoặc nước hoa quả thì những loại nho này có
kém uy tín hay không?)
m. Guerlain rất hài lòng thông báo rằng chỉ có một người duy nhất trong 10000
người mới được mặc hàng Imperiale. (Việc kinh doanh đang đi xuống chăng?)
n. Hình ảnh phiêu lưu mạo hiểm của Amstrong. Nếu bạn can đảm thì bạn sẽ dành được tấm thảm vinh quang! (Có mạo hiểm không khi đặt hàng một sản phẩm chưa qua thử thách?)
o. Người phụ nữ có khiếu thẩm mỹ. Eve. Bình thường và có tinh dầu bạc hà. (Không biết cô ta có thẩm mỹ tốt hay tồi?)
p. Giới thiệu The Date Walnut Double Decker. Đó không phải là loại bánh bạn ăn hàng ngày. (Bởi vì có những loại khác mà bạn thích hơn nhiều?)
Quyền lực được kêu gọi trong những lý lẽ như vậy là quyền lực của uy tín hoặc quyền lực của sự loại trừ. Những giá trị này sẽ không xác đáng nếu mục đích của những quảng cáo này là để chứng tỏ rằng những sản phẩm đang được nói đến là có uy tín, nhưng không phải như thế. Thay vào đó mục đích thực sự của những lời quảng cáo như trên khiến chúng ta tin rằng việc mua những mặt hàng trên sẽ tự động ban tặng cho chúng ta sự quyến rũ và thanh thế đang chờ trước mắt chúng ta. Giá như nó chỉ đơn giản như vậy!
Có thể khó khăn khi phân biệt sự kêu gọi số ít được lựa chọn với sự kêu gọi quần chúng. Nhìn chung sự kêu gọi quần chúng là hướng tới một đám đông lớn dựa chủ yếu vào nỗi sợ rằng điều sắp sảy ra có thể vượt ra khỏi quan điểm của nhóm, và lợi dụng càng
nhiều tình cảm của chúng ta càng tốt để đạt được sự thuyết phục. Trong khi đó sự kêu gọi
số ít được lựa chọn hướng nhiều hơn vào cá nhân, và lời kêu gọi trực tiếp đơn giản tới sự
60 The authority of the Selected Few
61 Snob appeal
hư ảo, sự mong muốn của chúng ta được nhìn thấy mình như những đối tượng đặc biệt hoặc theo cách nào đó chúng ta là tốt hơn các "đám đông", thông qua sự tham gia vào tầng lớp cao hơn, hoặc đòi hỏi một sự sở hữu hoặc phụ thuộc đáng thèm muốn nào đó.
Quyền lực của truyền thống62
Sự kêu gọi quyền lực có thể có một hình thức khác -- sự kêu gọi phong tục tập quán và truyền thống như trong lý lẽ dưới đây:
a. Vấn đề hôn nhân cũng xa xưa như lịch sử loài người, bởi thế nó phải được coi như thánh thần.
Chúng ta có thể đáp lại kiểu lý luận này rằng, tình trạng đĩ điếm, đi cầu, ăn uống, v.v... cũng có từ xa xưa như lịch sử loài người vậy! Nó có đáng phải được coi là thánh thần hay không?
Lời kêu gọi phong tục tập quán hoặc truyền thống cũng được các nhà quảng cáo lưu ý tới. Ví dụ lời quảng cáo một loại rượu bắt đầu như sau:
b. Hãy uống rượu của Ailen, một loại rượu truyền thuyết của đất nước Ailen.
Thực chất đó cũng là một lời kêu gọi tương tự như các nhà quảng cáo đã làm để
chào hàng sản phẩm của họ như kiểu "mốt cũ" và " như bà của chúng ta thường làm."
• Sự nguỵ biện về việc kêu gọi quyền lực là vấn đề hướng ai đó vào việc chứng minh một luận điểm mà người đó không phải là chuyên gia của vấn đề đó.
• Chúng ta cần nhớ rằng, thậm trí những người có quyền lực cũng không mong đợi được gánh vác thế giới. Không phải những điều họ nói là làm cho sự việc đúng như vậy mà chỉ vì có bằng chứng mới là quan trọng.
• Loại nguỵ biện này thể hiện dưới nhiều hình thức: lời kêu gọi số ít (quyền lực nổi bật); lời kêu gọi quyền lực của đám đông (có khi còn được gọi là lý lẽ của sự
đồng lòng); sự kêu gọi số ít được lựa chọn (hấp dẫn đua đòi -- hình thức này vẫn thường được gọi như vậy); và thỉnh thoảng nó có hình thức của lời kêu gọi truyền thống.
5. Đánh Vào Sự Không Biết63
Lối sai lầm đánh vào sự không biết là lý lẽ trong đó việc sử dụng sự thiếu khả năng phản chứng của đối phương để làm một bằng chứng cho sự đúng đắn của kết luận đó.
Bằng cách chuyển nghĩa vụ phải chứng minh điều mình nói là đúng sự thật ra khỏi lý lẽ
sang người nghe, lý lẽ đó trở thành thiếu xác đáng.
62 The authority of tradition
63 Fallacy Of Appeal To Ignorance
Hai lý lẽ dưới đây nhằm cố gắng chuyển nghĩa vụ phải chứng minh điều mình nói là đúng sự thật:
a. Có một cuộc sống văn minh ngoài không gian bởi vì chưa ai có thể chứng tỏ
rằng ở đó không có.
b. Tôi biết mọi hoạt động chúng ta thực hiện là thiên định bởi vì không ai có thể
chứng minh được rằng chúng ta có sự tự chủ.
Những lý lẽ sai lầm như vậy liên quan đến sự kêu gọi tình cảm, trong đó người ta hy vọng đặt đối phương vào thế phòng ngự, làm cho họ phải tin rằng kết luận đưa ra đơn thuần là phải đúng bởi họ không thế chứng minh khác được. Niềm tin đó là vô lý và có từ cảm giác bị hăm doạ. Trong lý lẽ lo-gíc, trách nhiệm chứng minh thuộc về người đưa ra kết luận.
Nếu sự thiếu bằng chứng đi ngược lại yêu sách có thể được coi là bằng chứng cho kết luận thì chúng ta có thể chứng minh bất cứ điều gí chúng ta muốn -- kể cả phép mầu nhiệm, như là truyền thuyết thời Trung Cổ minh hoạ cho những bức tượng khóc lóc. Vào ngày thứ Sáu tốt (Good Friday) của mỗi năm, khi giáo đoàn cúi đầu để cầu nguyện, người ta nói rằng bức tượng trên bàn thờ của nhà thờ sẽ quì xuống và rơi lệ. Nhưng nếu thậm chí một người nào đó từ những người cầu nguyện nhìn lên để nhìn những giọt nước mắt thì điều kỳ diệu sẽ không xảy ra nữa. Bức tượng chỉ khóc khi tất cả các thành viên giáo đoàn thể hiện một niềm tin tuyệt đối. (TQ hiệu đính: nếu mọi người đều cuối đầu cầu nguyện, thì không ai sẽ thấy bức tượng khóc. Nếu có 1 người ngó lên xem bức tượng, thì không phải mọi người đều cầu nguyện, và vì thế bức tượng sẽ không khóc. Ai trong đám tín đồ dám đứng lên nói rằng tôi đã không cuối đầu cầu nguyện, mà chỉ nhìn xem bức tượng có khóc không?).
Truyền thuyết có vẻ như là thú vị, có tính ngụ ngôn vô hại, nhưng sai lầm đánh vào sự không biết có thể dẫn đến những kết luận mơ hồ hơn.
c. Những người chữa bệnh bằng cách xoa bóp đã hoàn toàn thất bại khi cố gắng thiết lập một cơ sở khoa học cho những khái niệm của họ. Vấn đề này do vậy có thể được giải quyết một lần và cho tất cả. Việc chữa bệnh bằng phương pháp xoa bóp là không có cơ sở khoa học.
Việc những người chữa bệnh bằng phương pháp xoa bóp đến tận giờ vẫn không chứng tỏ được rằng những khái niệm của họ có cơ sở khoa học là không phải để chứng tỏ họ thiếu cơ sở đó -- điều có thể được thiết lập.
d. Không có bằng chứng cho việc khoa trưởng làm rò rỉ thông tin cho báo chí, do vậy tôi chắc chắn rằng bà ấy không thế làm viêc đó được.
Mặc dù hiện tại chúng ta đang không có bằng chứng cho thấy bà ta làm việc đó, thì
điều này cũng không tạo nên bằng chứng cho việc bà khoa trưởng là vô tội.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng kiểu lý luận này không mang tính sai lầm tại toà án, nơi mà sự bào chữa có thể là hợp pháp khi bên nguyên tố thiếu bằng chứng kết tội; Sau đó sự
tuyên án vô tội sẽ được bảo đảm, vì trách nhiệm chứng minh thuộc về bên nguyên tố. Mặc dù sự tuyên bố này có vẻ liên quan đến sai lầm đánh vào sự không biết, thực sự thì không phải như vậy. Nguyên tắc xác đáng hợp pháp trong trường hợp này là một người được “coi là vô tội cho đến khi chứng minh có tội”.64 Chúng ta không nói rằng bên bị là vô tội cho
đến khi chứng minh được tội, nhưng chỉ có điều là họ được coi là như vậy. Rõ ràng, không phải bất cứ ai mà tội lỗi của họ không được chứng minh đều được coi là vô tội; thực tế cho thấy là sau đó một vài người bị chứng minh là có tội. Nhưng theo pháp luật họ được coi là vô tội cho đến khi điều này được thực hiện, bất kể họ thực sự có tội hay không. Thực tập trong toà án, bởi vậy, không phải là ngọai lệ đối với luật lệ của chúng ta.
Ai đó khi sử dụng sai lầm đánh vào sự không biết sẽ thường cố gắng làm vững chắc thêm việc kiện tụng của mình với những luận đề không liên quan.
e. Tôi chưa một lần nghe thấy lý lẽ cho việc điều chỉnh giá -- điều mà bất cứ người nhạy cảm nào cũng chấp thuận được. Do vậy, việc điều chỉnh giá rõ ràng là một ý kiến không tốt.
Lý lẽ này là có thể được phủ nhận không phải chỉ vì nó thiếu bằng chứng mà còn bởi vì việc sử dụng tính từ nhạy cảm chỉ trích bất cứ một lý lẽ nào cho việc điều chỉnh giá; điều chúng ta sẵn sàng đề nghị. Hãy chú ý đến những luận đề không liên quan trong những sai lầm sau.
f. Không một nhà khoa học có trách nhiệm nào chứng tỏ được rằng strontium 90 trong bụi phóng xạ nguyên tử gây nên bệnh bạch cầu. Bởi thế chúng ta có thể thông qua những người gây hoang mang và tiếp tục thử vũ khí hạt nhân với một lương tâm trong sáng.
g. Nếu có bằng chứng rõ ràng nào về những cái gọi là đĩa bay, nó có thể được đưa tin trong những tạp chí khoa học uy tín của chúng ta. Không một báo cáo nào được thực hiện, do vậy không có bằng chứng thực sự nào cho vấn đề đó.
Thuật ngữ nhà khoa học có trách nhiệm và người gây hoang mang trong lý lẽ (f) và bằng chứng rõ ràng và có uy tín trong lý lẽ (g) làm cho chúng ta hầu như là không có khả năng phản bác nếu như không muốn được liệt vào loại người gieo hoang mang hay không có uy tín. Bất cứ ai đưa ra lý lẽ dưới hình thức sai lầm này đều không muốn tranh luận một cách lo-gic và không được chuẩn bị để tranh luận một cách lý trí.
Khi nghiên cứu về sai lầm đánh vào sự không biết, thỉnh thoảng nó chỉ ra rằng ngôn ngữ của một số đám cưới có vẻ như sử dụng loại sai lầm này khi người hành lễ hỏi bất kỳ ai có mặt tại đây cho biết nguyên nhân tại sao cô dâu và chú rể không nên cưới nhau. Khi tuyên bố ai đó có thể cho thấy nguyên nhân như vậy, mọi người sẽ im lặng. Đây không phải là tranh luận mà đơn giản là lời yêu cầu. Nhưng lời yêu cầu đó không phản chứng rằng, tuy không ai có thể đưa ra lý do, đâu có đồng nghĩa rằng lý do như vậy không tồn tại. Điều đó chỉ nói lên rằng nếu không có ai phản đối thì đám cưới sẽ tiếp tục được
tiến hành.
64 presumed innocent until proved guilty
• Sai lầm đánh vào sự không biết là sai lầm trong đó chúng ta cố gắng tránh phủ nhận một luận điểm của đối phương như là bằng chứng của vịêc công nhận. (Anh không thể chứng tỏ tôi sai, thì tôi phải đúng.)
• Tuy nhiên người đưa ra một luận điểm để cung cấp bằng chứng cho nó phải có trách nhiệm; nghĩa vụ này không thể chuyển sang đối phương được.
6. Kêu Gọi Sự Sợ Hãi65
Kiểu sai lầm kêu gọi sự sợ hãi dùng sự đe doạ tổn hại để đưa ra một kết luận của một người nào đó. Đó là loại lý lẽ mà con người và các quốc gia phải dùng đến khi họ không quan tâm đến việc đưa ra những lý do xác đáng cho quan điểm của mình. Còn được biết đến như là đung đưa câu gậy lớn66, lý lẽ này hiếm khi giải quyết được mối bất hoà.
Lý lẽ này nên được phân biệt với kiểu đe doạ thật sự. Nếu có người dí súng vào lưng bạn và nói, "Đưa tiền đây hoặc là mất mạng," thì bạn sẽ không đáp lại như, " Ah! Thật là ngụy biện!" Nó không phải là ngụy biện bởi nó không phải là lý lẽ. Mặc dù tên trộm đang kêu gọi nỗi sợ hãi trong bạn và thậm chí đưa ra một lý do tại sao bạn nên làm
những điều hắn ta yêu cầu thì hắn ta cũng không đưa ra một bằng chứng để chứng minh sự
thật của lời tuyên bố. Tên trộm không phải là đang tranh cãi với bạn mà đơn giản là yêu cầu bạn. Tương tự, đây là những lời đe doạ "Nếu anh không đưa chó ra khỏi vườn cau của tôi thì tôi sẽ bắn nó," hoặc " Nếu không đi ngủ thì con sẽ ăn đòn!"
thẩm:
Hãy so sánh các ví dụ trên với ví dụ dưới đây, trong đó một luật sư nói với ban hội
a. Nếu các ông không tuyên án kẻ giết người này thì một trong số các ông sẽ có
thể trở thành nạn nhân của hắn.
Đây là một lý luận, và nó là một là sai lầm. Lý do chúng ta sợ mình sẽ là "nạn nhân tiếp theo" là không xác đáng để kết án. Vấn đề sợ hãi đó là không xác đáng. Được diễn tả đầy đủ thì lý lẽ này có thể được đọc như sau:
b. Các ông phải tin rằng người đàn bà này là có tội và vì thế bà ta phải bị kết án bởi nếu các ông không kết tội bà ta, bà ta sẽ được thả và cuối cùng các ông có thể trở thành nạn nhân của bà ta.
Nói rõ ràng, lý lẽ trên là sai lầm bởi điều bị cáo sẽ làm trong tương lai có thể không như vậy, và tương lai không có gì chứng minh người đó vô tội hoặc đã từng phạm tội trong quá khứ. Người bào chữa đã khơi dậy nỗi sợ hãi. Điều đó đã lừa chúng ta nghĩ rằng lý lẽ
đó là xác đáng.
Sự kêu gọi nỗi sợ hãi do vậy là một lý luận sai l ầm. Trong một vài trư ờng hợp, bằng chứng có thể ngắn gọn và ẩn tàn, như trong ví dụ (a) và (b) ở trên; ở những trư ờng
65 Fallacy Of Appeal To Fear
66 Vì t iếng Latin c ho từ cây gậy là bac ulum, lý lẽ này được b iết đến t rong t iếng Latin là arg ume nt um ad bacu lum
hợp khác bằng chứng có thể dài hàng trang hoặc thậm chí hàng quyển. Sự giải thích dưới đây cho lời kêu gọi của người Athenian để khiến những người đại diện của đảo Melo liên kết với họ được lấy từ lịch sử Hi-lạp là một ví dụ kinh điển về sự kêu gọi sức mạnh.
c. Các anh cũng biết rõ như chúng tôi rằng, trong luật về sự tự nhiên của con người, lẽ phải chỉ trở thành vấn đề ở chỗ có sự cân bằng về quyền lực, trong khi nó có thể quyết định sức mạnh cổ vũ cái gì và cái yếu thừa nhận thừa nhận cái gì?. Vũ khí mạnh nhất của các anh là sự hy vọng thì vẫn chưa được nhận ra trong khi vũ khí trong tay các anh là cái gì đó không tương xứng để chống đối lại những sức mạnh vừa được thiết lập nhằm chống lại các anh … suy nghĩ kỹ đi … rằng các anh đang quyết định cho đất nước của mình … một đất nước mà vận mệnh phụ thuộc vào một quyết định đúng hoặc sai. (Trích từ Lịch Sử Cuộc Chiến Tranh Của Người Pelôpnnesian, chương 5)
Không phải tất cả các mối đe doạ đều được diễn đạt một cách nhẹ nhàng như vậy. Chứng ta có thể bắt gặp sự kêu gọi nỗi sợ hãi bằng thứ ngôn ngữ như dưới đây:
d. Đừng tranh cãi với tôi. Hãy nhớ ai trả lương cho anh.
e. Anh không muốn là người bị xã hội ruồng bỏ đúng không? Thế thì tốt hơn hết là ngày mai anh gặp chúng tôi.
f. Trường đại học này không cần nghiệp đoàn cho giảng viên, và các thành viên trong khoa -- những ai nghĩ rằng cần có nó thì sẽ phát hiện ra lỗi của mình vào việc xem xét lại nhiệm kỳ tới.
Những lý lẽ này là những hình thức sai lầm thô thiển. Chúng nói thẳng ra rằng mối đe doạ đang được đưa ra. Lối sai lầm trên cũng thích hợp với những mối đe doạ được che đậy.
g. Thưa ông chủ bút, tôi hy vọng rằng trò dại dột không đáng kể này của con trai tôi không có giá trị thực sự với báo chí. Tôi biết rằng các ông sẽ đồng ý rằng công ty chúng tôi bỏ ra hàng nghìn đô la để quảng cáo trên báo của các ông hàng năm.
h. Những người tị nạn đến đất nước này từ Nam Á không có quyền cố gắng giữ gìn phong tục tập quán và ngôn ngữ của họ trong khi bác bỏ những cách thức của người Mỹ. Nếu không vì những phong tục tập quán tốt đẹp của người Mỹ thì những người đó sẽ thất cơ lỡ vận.
Mặc dù những lý lẽ này không đưa ra một lời đe doạ rõ ràng, trong đó cũng có nghi ngờ nhỏ về sự tự nhiên của những lý do được đưa ra.
Sự kêu gọi nỗi sợ hãi có chiều hướng nhân lên trong những giai đoạn bị áp lực hoặc xung đột trong cả các quốc gia và cá nhân. Khi các nước sản xuất dầu ở Trung Đông giả bộ đe doạ việc cung cấp dầu đối với phương Tây vào năm 1974, ví dụ như họ phải soạn thảo một danh sách các công ty Mỹ mà họ chỉ trích để ưu tiên Israel. Điều này được hiểu như là sự đe doạ nỗi sợ hãi trực tiếp tới các công ty Mỹ. Việc đó có thể ưu tiên Israel trong mối
bất hoà Arập-Israel. Tương tự, trong giai đoạn mạnh mẽ chống lại các hoạt động của Cộng
Sản của hội John Birch, hội đó đã ban hành một lời tuyên bố đứng trước một danh sách các nhà quảng cáo như sau:
i. Danh sách các nhà quảng cáo được biên soạn để các thành viên của phong trào Bảo Thủ Chống Cộng có cách xác định những công ty đứng lên quan tâm đến cuộc chiến bảo vệ di sản của ngưòi Mỹ.
Mặc dù lời tuyên bố không hề có ý định nói rằng những công ty không được nhắc đến sẽ ủng hộ Cộng Sản, nhưng sự ám chỉ tới ý định đó thì thật rõ ràng. Trong tất cả các kiểu sai lầm về sự thiếu xác đáng, mục đích của lý lẽ là kêu gọi tình cảm hơn là lý trí.
• Sự kêu gọi nỗi sợ hãi là một lý lẽ sai lầm sử dụng sự đe doạ thiệt hại để đưa ra kết luận của một ai đó.
• Nó hiệu quả bởi bằng cách khuấy động đủ nỗi sợ hãi trong một người, nó có thể làm cho người ta tin vào những việc mà trong những thời điểm bình tĩnh người ta sẽ phủ nhận nó.
• Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt lý lẽ trong đó sự đe doạ được lợi dụng với sự đe doạ thật sự.
7. Tóm Tắt
Chương này trình bày sáu kiểu sai lầm về sự xác đáng. Những sai lầm đó được thể hiện như là những lý lẽ trong đó sự kêu gọi tình cảm lừa chúng ta tin rằng những gì được nói đến là xác đáng đối với kết luận đang được nêu ra khi mục đích chính của lời kêu gọi là tranh thủ sự ủng hộ đối với kết luận đó thông qua phản ứng tình cảm hơn là lô-gíc. Sự đe doạ đó được sử dụng để ép buộc lòng tin (chứ không phải cách cư xử). Do vậy chúng ta có trường hợp nguỵ biện về sự kêu gọi nỗi sợ hãi -- nếu không đơn giản đó chỉ là sự đe doạ.
Sự công kích cá nhân được cho thấy như là một lý lẽ công kích một hay nhiều người có liên quan đến vấn đề đặt ra hơn là với chính vấn đề. Một ví dụ đã được đưa ra nói đến lý lẽ để phản bác một cách chữa trị bệnh ung thư bởi vì người biểu đã nổi tiếng vì sự ủng hộ của bà ta với chủ nghĩa Mác-xít. Chúng ta thấy rằng sự nguỵ biện này -- lợi dụng sự nghi ngờ và định kiến, có thể có nhiều dạng khác nhau: nguỵ biện căn nguyên, nơi mà một người bôi nhọ nguồn gốc của lý lẽ; sai lầm lạm dụng và suy diễn, nơi mà người ta dùng đến để lăng mạ nói bóng gió; tu quoque và phá hoại điều tốt là hai cách sai lầm mà người ta gây nghi ngờ về tính kiên định và sự tín nhiệm của đối thủ.
Sự kêu gọi quần chúng được coi như là kết quả của các kỹ thuật truyền bá khác nhau được sử dụng kết hợp để khuấy động tình cảm của mọi người và hướng sự chú ý ra khỏi vấn đề có thực. Bài điếu văn của Mark Antony được khai thác như là một ví dụ ấn tượng nhất.
Sự kêu gọi lòng thương được miêu tả như là một cố gắng giành được điểm của một người nào đó bằng cách lợi dụng lòng thông cảm của họ. Lời quảng cáo bắt đầu bằng "Có một số điều mà con cái bạn sẽ không nói cho bạn biết đâu!" được coi như là một ví dụ minh hoạ.
Sự kêu gọi quyền lực được xem như là một cố gắng nhằm đe doạ chúng ta chấp nhận một kết luận bởi ai đó được giới thiệu như là một chuyên gia đã xác nhận điều đó, mặc dù người đó không phải là chuyên gia về lĩnh vực đó; bởi vì đa số mọi người đã xác nhận vấn đề đó; hoặc bởi vì nó được công nhận là tuyệt diệu; hoặc bởi truyền thống. Khẩu hiệu "Ơ Philadelphia hầu hết mọi người đều đọc cuốn Bulletin" cũng là một ví dụ.
Đánh vào sự không biết được cho thấy như là một lý lẽ cố gắng đe dọa chúng ta phải tin vào một điều rằng cái gì đó phải như vậy chỉ đơn giản bởi vì chúng ta không thể chứng minh nó khác được. Ví dụ, nếu chúng ta không thể chứng minh được rằng vị trưởng khoa rò rỉ thông tin cho báo giới thì chúng ta phải coi rằng bà ta không làm điều đó.
Cuối cùng, sự kêu gọi nỗi sợ hãi, cũng được coi như là sai lầm. Nó nảy sinh khi một kết luận đạt được sự ủng hộ không phải bằng cách thiết lập kết luận đó thông qua sự suy luận lo-gíc mà bởi do sự sử dụng sự đe doạ sức mạnh hoặc mối thiệt hại. Lý lẽ "nếu các ông không tuyên án mụ giết người này thì một trong số các ông có thể sẽ trở thành nạn nhân kế tiếp của bà ta" được coi là một ví dụ cho sự sai lầm
này.
Tất cả đều đạt được mục đích của mình bằng cách đưa ra những thứ không chân thực nhằm gợi lên một tình cảm cụ thể nào đó khiến chúng ta chấp nhận sự quyết định cuối cùng mà không hề dựa vào những tiền đề trước đó.
Phần III
Chương 6
Viết Rõ Ràng và Chặt Chẽ67
Một bài luận, về bản chất là một luận điểm được mở rộng; trong đó người viết khẳng định lại về chủ đề (khẳng định này thường được gọi là kết luận) bằng cách lý giải thông qua những ví dụ cụ thể (cơ sở để minh chứng cho kết luận). Nhiệm vụ của các bạn là thực hành và kiểm tra những lý giải của các tác giả khác. Khi bạn hiểu được làm thế nào
tác giả mà bạn đọc đi đến một kết luận nhất định, bạn có thể đồng ý, phản đối, hoặc sửa
chữa những luận điểm với cách thức cho phép. Nếu bạn trình bày quan điểm của bạn dưới dạng một bài luận bạn có thể đưa ra dưới dạng một cử chỉ đáng tin, một tín hiệu mà bạn có thể lý giải từ những cơ sở đến kết luận. Bạn không chỉ đơn giản là tổng kết lại những điều mà bạn đọc; bạn phải chứng minh rằng bạn đã suy nghĩ về vấn đề mà bạn nghiên cứu và đọc.
Nhận lấy những ý kiến của bạn theo cách này là một thử thách; tuy nhiên viết một bài luận một cách mạch lạc, chín chắn là một thủ thuật. Giống như những thủ thuật khác, điều đó có thể, với thực tế, nó cần được kiểm soát. Khi bạn phát triển kỹ năng viết của mình, bạn nên áp dụng những điều đã đọc trong sự lý giải hợp lý, nghiên cứu các cách mà các sai lầm đã xuất hiện trong các luận điểm mà bạn đã đọc và viết về. Tuy nhiên bạn cũng nên nhớ rằng viết một bài luận liên quan nhiều hơn là hiểu về sự lý giải hợp lý hay không hợp lý. Để viết một bài luận một cách hiệu quả, bạn phải phân tích và hiểu chủ đề, dự định và xắp xếp những từ và phong cách mà bạn sử dụng để viết, và suy nghĩ một cách thận trọng về người đọc của bạn, họ là ai và làm sao bạn có thể thuyết phục họ chấp nhận những luận điểm của bạn một cách nghiêm túc.
Một cách chính xác hơn, những bộ phận của một bài luận phải lo-gic, đúng ngữ pháp, và tu từ. Lo-gic là quá trình lý giải bạn đã áp dụng trong suốt quyển sách này; trình bày cho những đọc giả của bạn với những luận cứ (Mọi người đều phải chết. Socrates là một con người.) Và một kết luận xuất phát từ những cơ sở đó (Socrates cũng sẽ chết). Ngữ pháp là nói đến cấu trúc của các câu. Ví dụ như trong câu sau:
Socrates (chủ ngữ của câu)
là (động từ, liên từ)
một con người (là bổ ngữ, để bổ sung, mô tả chủ ngữ)
Tu từ là các cách mà chúng ta sử dụng ngữ pháp và lo-gic để khơi dậy, thu hút và thuyết phục người đọc. Ví dụ như kết luận rằng Socrates cũng sẽ chết là đúng và ngữ pháp của nó là minh bạch. Tuy nhiên một người viết luận có thể sử dụng lo-gic và cú pháp của thuyết tam đoạn luận của Socrates để đạt được một kết luận có liên quan nhưng thiếu tính chứng minh hơn:
Chúng ta biết rằng mọi người đều phải chết, và Socrates không phải là một ngoại lệ. Socrates đã không còn đối với chúng ta; chúng ta chỉ biết những lời giải thích của Plato về lời nói của Socrates. Không có gì trên đời này là tồn tại mãi mãi. Chúng ta chết đi, mặc dù những suy nghĩ của chúng ta vẫn sống trong những quyển sách, mặc dù tiểu sử của chúng ta vẫn được ghi chép nhưng chúng ta không thể tự nói cho chính mình. Cái chết của chúng ta có nghĩa là những người khác đã nói hộ cho chúng ta; khi mất đi cơ thể của mình cũng có nghĩa là mất đi tiếng nói.
Chú ý trong đoạn trên đã sử dụng lo-gic và ngữ pháp để đạt đến một kết luận mới, một kết luận dựa trên tài hùng biện và phong cách cũng như những câu đúng ngữ pháp và lý giải hợp lý. Trong trường hợp này, những câu nói ngắn và súc tích được thay đổi bằng câu dài và chi tiết hơn, như trong luận điểm liên hệ giữa Socrates và mọi người để đạt đến một sự khẳng định về cái chết. Nếu người viết đoạn trên quan tâm đến việc thuyết phục
một người đọc nào đó; có một mục tiêu trong suy nghĩ, người viết sẽ mở rộng những quyết
định rõ ràng mạch lạc và hợp lý để giảm đi những nhận định không rõ ràng và khó diễn đạt, và thay đổi cú pháp để đạt đến một giọng điệu thuyết phục. Kết quả tạo ra một tâm trạng và giọng điệu có thể gây ảnh hưởng đến người đọc. Từ ví dụ này, bạn có thể thấy rằng lo-gic, cấu trúc câu và kỹ năng thuyết phục gắn bó với nhau trong quá trình viết một bài luận.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |