11. Luận Điểm Không Phù Hợp 37
Một luận điểm là một quan điểm cụ thể về một chủ đề được hỗ trợ bằng các chứng cứ. Trong lo-gic, một luận điểm có thể tương đương với một kết luận. Sai lầm do luận điểm không phù hợp và một lập luận nhằm chứng minh một kết luận không nằm trong
phạm vi được bàn đến. Sai lầm này sử dụng một dạng của lập luận, trong khi có vẻ như bác bỏ lập luận của người khác, thực tế thì đưa ra một kết luận khác với vấn đề mà lập luận của
người khác đề cập đến.
Trong loại lập luận sai lầm đã nghiên cứu thì không loại nào lừa gạt và thú vị như luận điểm không phù hợp. Có nhiều tên dùng để chỉ loại sai lầm này: kết luận không phù hợp, bỏ qua vấn đề, làm mờ nhạt vấn đề, đánh lạc hướng, và “cá trích đỏ”. Cá trích đỏ38 có vẻ là một khái niệm nghe rắc rối. Nó xuất phát từ việc những người trốn tù thường làm bẩn mình bằng cá trích (loại cá này chuyển sang màu nâu hoặc đỏ khi thối rữa) để chó nghiệp vụ không thể đánh hơi được. Đánh lạc hướng là luận điểm dẫn dắt người đọc, người nghe
đến những vấn đề không phù hợp với vấn đề được nói đến.
Sai lầm do lập luận không phù hợp có được sức thuyết phục vì nó thường chứng minh một kết luận, một luận điểm (mặc dù không hề có liên quan). Ví dụ sau đây sẽ làm rõ điều này.
a. Những người ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên nói rằng nếu chúng ta ban hành những quy tắc bảo vệ sẽ tốt hơn việc chúng ta không ban hành. Họ đã nhầm bởi vì, chúng ta dễ dàng nhận thấy là việc bảo tồn tự nhiên không tạo ra được một thiên đường trên trái đất.
Hai vấn đề hoàn toàn khác nhau đã được đề cập trong vấn đề trên: (1) Liệu bảo tồn tự nhiên có cải thiện tình trạng hiện nay của chúng ta hay không; (2) Liệu bảo tồn tự nhiên có tạo ra được vườn địa đàng trên trái đất hay không? Bằng cách bác bỏ lập luận thứ hai thay vì lập luận thứ nhất, lập luận trên đây đã mắc sai lầm luận điểm không phù hợp. Luận điểm có vẻ thuyết phục, thứ nhất bởi vì điều nó nêu ra chúng ta cảm thấy đúng: không biện pháp bảo tồn tự nhiên nào có thể bảo đảm một vườn địa đàng. Chúng ta sẽ bị thúc đẩy bỏ qua ý nghĩ rằng bảo tồn là công việc đáng làm. Điều này là sai lầm, vì vấn đề ở đây là liệu bảo tồn tự nhiên có phải là lựa chọn tốt nhất của chúng ta hay không.
Ví dụ này minh hoạ rất tốt chủ ý thường thấy trong các lập luận. Ví dụ trên là điển hình của lý luận “người rơm”39 bằng cách bóp méo quan điểm theo cách này hay cách
37 Fallacy of Irrelevant Thesis
38 red herring
39 strawman argument
khác, làm cho nó trở nên lố bịch, buồn cười và dễ dàng bị phủ nhận. Nếu luận điểm đối lập nhằm bảo vệ một quan điểm cực đoan hơn quan điểm ban đầu, chắc chắn những luận điểm ấy sẽ thất bại. Mặc dù đây là thủ thuật phổ biến trong tranh luận, nhưng đó là một điều dối trá.
Không phải tất cả mọi sai lầm do lập luận không phù hợp đều xuất phát từ ý định muốn bóp méo vấn đề. Có thể bị áp lực về thời gian, thiếu sự suy xét độc lập chúng ta có thể xem một yếu tố nhất định là phù hợp, nhưng trong hoàn cảnh khác chúng ta lại không nghĩ như thế. Trong ví dụ sau đây, sự thật bị bóp méo lại là một việc không có chủ ý:
b. Tôi không hiểu tại sao đi săn lại được xem là độc ác khi mà chúng mang lại thú vui cho nhiều người và thậm chí mang lại việc làm cho một số người khác.
Chỉ cần xem xét qua chúng ta có thể thấy rằng việc đi săn mang lại thú vui và công việc cho ai đó không phù hợp với vấn đề đi săn là độc ác đối với loài thú. Nếu là không
phù hợp thì luận điểm đi săn là độc ác chưa hề được bàn luận. Nếu không bàn luận đến tức là bóp méo vấn đề. Như trong nhiều ví dụ mà chúng ta đã xem xét, luận điểm này đã tránh đưa ra những phản chứng (rằng đi săn là độc ác đối với loài thú) và chứng minh điều
không được bàn đến (đi săn là có ích cho mọi người). Giống như một người gặp phải rắc rối sẽ đứng dậy và bỏ chạy, trong lập luận một người gặp khó khăn hoặc điều gì không thoải mái thì cách lý giải vấn đề của họ là che dấu vấn đề bằng một vài điều không phù hợp. Điển hình nhất là vị công tố viên cố gắng thuyết phục ban hội thẩm rằng hành vi của bị cáo là có tội bằng cách lập luận rằng giết người là tội phạm khủng khiếp.
Bởi vì không có gì có tác động thư giãn con người bằng tiếng cười, nên chúng ta không ngạc nhiên khi sai lầm do nguyên nhân không phù hợp lại được sử dụng như một tác nhân gây cười, hãy xem xét ví dụ sau, câu truyện cổ về vụ ăn trộm một con lợn:
c. "Nào, Patrick," quan toà nói. "khi anh mặt đối mặt với goá phụ Maloney và con lợn của bà ta vào ngày phán xử, anh sẽ nói gì để biện hộ cho mình khi bà ta đã buộc tội anh đã ăn trộm con vật bé nhỏ đó?" "Ngài nói rằng con lợn sẽ ở đó phải không?" Patrick nói. "Nếu thế tôi sẽ nói: thưa bà Maloney, con lợn của bà đây!"
Lập luận kiểu này nghe thật buồn cười, nhưng sai lầm tương tự lại có thể nguy hiểm chết người, như Susan Stebbling đã làm trong phân tích của cô về việc cuộc tranh luận ở nghị viện Anh với vấn đề xuất khẩu súng, được so sánh với việc xuất khẩu kẹo giòn cho trẻ con:
d. Ngài PHILIP: Ngài không nghĩ rằng hàng hoá của ngài là rất nguy hiểm, độc hại không giống như những thanh sô cô la hay kẹo ngọt sao?
Ngài CHARLES: Không, hoặc đó chỉ là chuyện trong tiểu thuyết thôi.
Ngài PHILIP: Ngài không nghĩ rằng xuất khẩu những hàng hoá này là nguy hiểm hơn việc xuất khẩu những thanh kẹo sao?
Ngài CHARLES: Ồ, tôi gần như quên mất kẹo trong ngày Giáng Sinh, nhưng tôi không bao giờ làm thế đối với một khẩu súng cả.
Như Stebling chỉ ra, cách trả lời của Ngài Charles đã chuyển hướng khỏi vấn đề bằng cách gây cười. "Người nghe có thể vui lòng đồng ý rằng có ai đó 'hầu như đã quên kẹo Giáng sinh' mặc dù anh ta chưa bao giờ nguy hiểm với một khẩu súng. Nhưng kẹo không được làm ra với mục đích này, trong khi đó vũ khí được làm ra chỉ với mục đích
giết người, sát thương, phá huỷ. Và đó chính là những vũ khí được bàn đến" (Nghĩ Về Mục
Đích, Harmondsworth: Penguin Books, 1939, trang 196).
Những cách làm mờ nhạt vấn đề như vậy có thể bị bác bỏ bằng câu nói đơn giả sau: "có lẽ đúng, nhưng không phù hợp." Câu phản biện đơn giản, sắc bén sẽ đem người nghe trở lại vấn đề đang bàn đến và có thể gạt bỏ được những lời bóp méo sự thật kia.
• Luận điểm không phù hợp là luận điểm nhằm chứng minh hoặc bác bỏ một "giả thuyết", "kết luận", đôi khi thành công, mà không phù hợp với vấn đề đang nói đến.
• Để phản biện lại những luận điểm như vậy, cách tốt nhất là nói câu đơn giản sau:
đúng, nhưng không phù hợp.
• Thủ thuật thường được sử dụng ở đây là gán cho những ý kiến đối lập một thái
độ cực đoan hơn những ý kiến mà họ đưa ra để bảo vệ. Biến thể này đôi khi được gọi là "lập luận người rơm,” một lập luận mà những người phản đối đã xây dựng lại theo cách làm cho nó dễ dàng bị bác bỏ.
12. Tóm Tắt
Chương này đã trình bày ba loại giả thuyết sai lầm, những lập luận cho những giả thuyết chưa được tìm ra hoặc chứng minh được trình bày dưới chiêu bài những lập luận hợp lý.
Trong loại sai lầm giả thuyết đầu tiên, như chúng ta đã thấy, lỗi nằm trong việc bỏ
qua những yếu tố cơ bản của sự việc. Ba dạng sai lầm thuộc loại này đã được xem xét:
Tổng quát hoá: là việc áp dụng cái đã được khái quát vào một trường hợp cụ thể hoàn toàn nằm ngoài phạm vi điều được khái quát. Ví dụ như: cưỡi ngựa là việc nên làm đối với người có bệnh về tim.
Kết luận vội vàng lại trái ngược hẳn với sự khái quát hóa. Ở đây một sự kiện riêng biệt, mang tính
ngoại lệ, được sử dụng một cách sai lầm nhằm chứng minh cho một kết luận chung. Ví dụ như: nêu ra quá khứ không tốt với người chồng cũ để chứng minh rằng mọi người đàn ông đều không tốt.
Bifurcation, dạng thứ ba, lại bỏ qua rất nhiều khả năng khác nằm giữa hai cực của khả năng lựa
chọn. Ví dụ như khẳng định rằng: Nếu bạn biết về xe BMW thì hoặc là bạn sở hữu một chiếc hoặc là bạn muốn có một chiếc.
Trong loại giả thuyết sai lầm kế: lỗi nằm trong việc lảng tránh sự thật. Ở đây chúng ta đã xem xét bốn dạng khác nhau:
Lặp lại vấn đề: dùng những lời lẽ tương tự đã được đưa ra để chưng minh cho một luận điểm. Ví dụ như khẳng định rằng tự do thương mại là tốt cho quốc gia này vì tự do thương mại là tốt cho quốc gia này.
Lảng tránh vấn đề theo kiểu epithet: là việc nói quá, cường điệu lên một vấn đề mà không hề chứng
minh. Loại sai lầm này đã sử dụng phương tiện ngôn ngữ để thể hiện thái độ cá nhân của mình. Ví
dụ như trong cụm từ sau: dùng những từ sau "những kẻ bất lực, kiêu căng…. " để chỉ những người không theo nhà thờ.
Câu hỏi phức hợp: là việc dùng câu trả lời nhất định cho một câu hỏi trước đó mà chưa được đưa ra.
Ví dụ: John đã từ bỏ thói quen xấu của anh ta chưa?
Sự biện hộ đặc biệt: là việc áp dụng tiêu chuẩn kép (hai tiêu chuẩn khác nhau): tiêu chuẩn đặc biệt
để đánh giá bản thân, và tiêu chuẩn còn lại để đánh giá những người khác. Loại sai lầm này lảng tránh sự thật bằng cách có thái độ thiên vị đối với một bên. Ví dụ như: dùng từ hy sinh, cống hiến để chỉ quân đội phe mình, còn dùng những từ như cuồng tín, ác độc để chỉ quân địch.
Loại sai lầm cuối cùng là bóp méo sự thật, nó gồm có các dạng sau:
Tương đồng giả tạo: là việc bóp méo sự thật bằng cách so sánh vấn đề đang được bàn luận tương đương với một vấn đề khác, nhưng sự thực lại không phải như vậy. Ví dụ như so sánh của Bacon: việc quốc gia gây chiến tranh để tăng thế lực với rèn luyện sức khoẻ của cá nhân là có sự tương đương.
Sai nguyên nhân: cho rằng hai sự kiện có quan hệ nhân quả với nhau nhưng thực tế thì lại không
phải như vậy. Ví dụ như người ai cập cổ thờ cúng loài cò quăm vì họ nghĩ rằng khi chúng di cư đến sông Nile làm cho dòng nước phù sa tràn vào đồng ruộng.
Lý luận rập khuôn: nếu một quan điểm được chấp nhận, một tình thế được áp dụng.. Sẽ tạo ra một
chuỗi những hậu quả không mong muốn. Ví dụ như lập luận của David Reuben chống lại việc sử
dụng Flo.
Luận điểm không phù hợp: là việc bóp méo vấn đề bằng cách thay thế một vấn đề khác cho vấn đề
được bàn luận. Ví dụ như lập luận sau: bởi vì việc bảo tồn tự nhiên không bảo đảm cho chúng ta một vườn địa đàng nên chúng ta không nên thực hiện nó như một phương sách tốt nhất hiện có.
Chương 5
Ngụy Biện Tính Xác Đáng
Ngụy biện về tính xác đáng40 là những lý lẽ mà trong đó những tiền đề, bất chấp vẻ bề ngoài, không liên quan đến những kết luận rút ra từ những tiền đề đó. Những sai lầm này có lẽ nên gọi là những sai lầm thiếu tính xác đáng vì tất cả những sai lầm đó đều đưa
ra những lời không xác đáng, dẫn đến sự nhầm lẫn. Điểm chung của những sai lầm cuối cùng này là thiếu sự xác đáng; là khuynh hướng cố gắng thể hiện vấn đề bằng cách khuấy động tình cảm của chúng ta.
Sự sai lầm về tính xác đáng có được sức mạnh thuyết phục từ việc cho rằng khi tình cảm lên cao, hầu hết điều gì cũng sẽ được thông qua như một lý lẽ.
Sáu hình thức sai lầm được miêu tả trong chương này, mặc dù không quá chi tiết, cũng thể hiện những điều thường gặp phải khi một đối tượng lợi dụng vào những yếu tố tình cảm tự nhiên của chúng ta như tính dễ xúc động đối với định kiến, sự hợm hĩnh kiêu căng, sự tiếc nuối, nỗi sợ hãi và sự thích thú.
Trong hình thức sai lầm đầu tiên được trình bày ở đây -- sai lầm về sự công kích cá nhân, chúng ta có chiều hướng tin mù quáng vào những gì bị lợi dụng.
Sự sai lầm về lòng thương xót lợi dụng tình cảm của chúng ta về sự thông cảm, trong khi sai lầm về quyền lực kêu gọi cả sự khiêm tốn lẫn tính kiêu căng của chúng ta.
Hai hình thức sai lầm sau cùng, một loại khiến đánh vào sự không biết, còn loại kia khiến chúng ta sợ hãi.
Tất cả đều đạt được mục đích của mình bằng cách đưa ra những thứ không chân thực nhằm gợi lên một tình cảm cụ thể nào đó khiến chúng ta chấp nhận kết luận cuối cùng mà không hề dựa vào những tiền đề trước đó.
1. Công Kích Cá Nhân41
Sai lầm về sự công kích cá nhân42 là lý lẽ hướng sự chú ý ra khỏi vấn đề đang tranh cãi bằng cách tập trung vào vấn đề khác ngoài lý lẽ. Theo tiếng La-tinh, về nghĩa đen có
40 Fallacies of Relevance
41 Fallacy of personal attack
42 Tên La-tinh cho loaị ngụy biện này là "ad hominem"
nghĩa là "lý lẽ đối với con người". Nó cũng có thể được dịch là "chống lại con người", một hình thức nhấn mạnh sự công kích ra khỏi vấn đề tranh luận và hướng tới người đang tranh luận. Với ý nghĩa chống đối lại con người, công kích cá nhân trở nên thiếu chặt chẽ với tất cả những sai lầm về tính xác thực kêu vì nó kêu gọi tình cảm tự nhiên hơn là khả năng lập luận của chúng.
Lối sai lầm về sự công kích cá nhân có thể có nhiều dạng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất của sự công kích.
Căn nguyên43
Một trong những sự công kích cá nhân đơn giản nhất là dạng căn nguyên của luận điểm44. Đó là loại lý lẽ mà trong đó người ta cố gắng chứng tỏ một kết luận sai trái bằng cách lên án nguồn gốc hoặc căn nguyên của nó. Những công kích đó là sai lầm bởi vì một số ý kiến được nêu ra không có liên quan tới khả năng sống còn của lý luân. Thật là sai lầm khi tranh luận rằng xu hướng của người Mỹ về việc dập bỏ sự lạm dụng vật chất là phải bỏ đi sự e ngại còn lại và nghi ngờ về sự khoái lạc và sự dư thừa đã ăn sâu vào nhiều người
Mỹ bởi di sản của đạo đức chủ nghĩa; hoặc lý do duy nhất bây giờ chúng ta tin vào Thiên Chúa là chúng ta đã được nuôi dạy trở thành những tín đồ công giáo La Mã -- đó có thể là cách khiến chúng ta đã trở nên tin vào sự tồn tại của Thiên Chúa chứ đó không phải là lý do khiến chúng ta tiếp tục phải tin như vậy.
Sự giải thích về căn nguyên của một luận điểm có thể đúng, và chúng có thể giúp làm sáng tỏ lý do tại sao luận điểm đó có hình thức hiện thời như vậy, nhưng chúng không xác đáng với giá trị của nó.
a. Đề xuất viện trợ học bổng được phân tích để khai thác những sinh viên nghèo, vì nó được một ủy ban gồm những thành viên trong Khoa và Ban quản trị đưa ra. Không sinh viên nghèo nào được học bổng nằm trong ủy ban đó cả.
b. Chúng ta phải cẩn thận khi nói đến bài luận của Schopenhauer phản đối phụ nữ. Bất cứ thầy tâm lý nào cũng có thể giải thích việc này bằng cách liên tưởng đến mối quan hệ căng thẳng giữa Schopenhauer và mẹ ông.
Sự truyền bá phân tích tâm lý là nhằm khuyến khích sự tìm hiểu những động cơ thúc đẩy nền tảng được thấy trong lý lẽ (b). Mặc dù có thể đúng rằng động cơ của một người có thể làm yếu đi sự tín nhiệm của người đó, động cơ đó không thực sự là chân lý của luận điểm đó. Lý lẽ có cơ sở không phải vì người đề đạt chúng mà bởi vì công dụng của giá trị nội tại. Nếu những tiền đề của một lý lẽ chứng minh kết luận của nó thì chúng cũng sẽ làm như vậy bất luận ai là tác giả. Nếu không như vậy, một nhà lo-gic vĩ đại nhất cũng không thể làm những lý lẽ đó có cơ sở.
Nếu những nguồn gốc lịch sử của một vấn đề không phù hợp với giá trị của nó thì tại sao chúng ta lại tuy thế mà có ý định nhấn mạnh và coi trọng lịch sử đến như vậy? Nghiên cứu lịch sử một vấn đề hoặc một giả thuyết cực kỳ quan trọng trong việc làm rõ
43 Generic Fallacy
44 Argumentum ad hominem
hơn ý tưởng của một giả thuyết. Xem một người tìm ra một ý tưởng như thế nào và cũng tiến hành những bước tương tự như anh ta đã làm để đạt được nó thường giúp chúng ta
nắm bắt được nó dễ dàng hơn nhiều và thấu hiểu nó tốt hơn. Việc phân tích lịch sử như vậy không thể chứng minh hoặc phản chứng hiệu lực và tính cơ sở của ý tưởng.
Thêm vào đó, hữu ích hơn và tỉnh táo hơn để nhận ra rằng những việc và ý tưởng vĩ đại thường hay có nguồn gốc bình thường và sự vĩ đại của một tác phẩm thường phải được tìm kiếm ở nơi khác. Liên quan tới ý tưởng trên, thật hữu dụng hãy nhớ lời nói của nhà tạc tượng Rodin với người mẫu cho tác phẩm "The Thinker" (“Nhà Tư Tưởng”). Sau khi hoàn thành tác phẩm của mình, Rodin quay lại phía người mẫu và nói: "Ồ, đồ ngốc. Mày có thể nghỉ được rồi."
• Trong sự sai lầm của dạng căn nguyên, chúng ta cố gắng chứng tỏ một kết luận sai trái bằng cách lên án những nguồn gốc của luận điểm.
• Điều này là sai trái vì một ý tưởng được tạo ra như thế là không phù hợp với giá trị lý luận.
Lăng mạ 45
Một biến dạng khác của sai lầm công kích cá nhân là lăng mạ. Đó là loại sai lầm mà trong đó ngoài việc hướng sự chú ý tới nguồn gốc của ý tưởng, nó còn công kích lại người tán thành ý kiến đó cùng với sự lăng mạ hoặc làm nhục. Những sự công kích này có thể rất rõ ràng hoặc tinh vi đến mức chúng ta không thể nhận ra mục đích chống đối tác giả hay sự biểu hiện của sự sai lầm đó. Nhưng chúng ta có thể luôn luôn nhận ra tính lăng mạ bởi sự thể hiện một thuộc tính cá nhân của đối thủ như là một lý do hợp lý để đánh thấp ý tưởng của người đó.
c. Lý thuyết mới về cách trị căn bệnh xã hội xấu xa được một một phụ nữ nổi tiếng về sự ủng hộ của mình đối với chủ nghĩa Mác đề ra. Tôi không hiểu tại sao chúng ta nên dành cho bà ta sự chú ý đáng kể.
d. Oglethorp hiện giờ nói rằng các công ty lớn không nên đóng thuế nhiều hơn nữa. Đó là điều bạn mong mỏi ở một nghị sĩ đã sống ở Washington hai năm và đã quên tất cả mọi điều khi trở về quê hương.
e. Để đáp lại lý lẽ của viên nghị sĩ nói trên, tôi chỉ cần nói rằng hai năm trước đây ông ta đã từng hết sức bảo vệ cho chính sách địa phương mà giờ đây ông ta
đang chống đối một cách mạnh mẽ.
Bỏ qua sự thật của luận điểm là lý lẽ công kích cá nhân, đặc điểm không chỉ ở những cuộc thảo luận hàng ngày mà là của cả những cuộc tranh cãi chính trị. Đúng hơn là khi thảo luận những quyết sách chính trị một cách điềm tĩnh, các đối thủ có thể thấy rằng chỉ trích cá nhân là dễ hơn và họ tham gia vào việc bôi xấu nhau. Điều này có thể tồn tại bởi một khi sự nghi ngờ nảy sinh thì thật khó có thể nói đến những chuyện khác. Bởi thế,
45 Abuse ad hominem
thật không có gì đáng ngạc nhiên khi những lý lẽ chống lại cá nhân là quá phổ biến trong những cuộc tranh cãi giữa những người đang muốn có chức vụ.
Khi tình cảm lên cao, hoặc ngược lại, khi người ta đơn giản không đủ quan tâm đến một vấn đề, những chiến thuật lừa gạt kỹ lưỡng có vẻ như thuyết phục hơn. Làm cho đối thủ nghi ngờ, nực cười, hoặc mâu thuẫn là đề nghị thừa nhận rằng ý kiến của anh ta không có cơ sở bởi vì anh ta không thể đáng tin cậy. Nói đùa một câu làm mất uy tín đối thủ, chẳng hạn có thể phá hủy lý lẽ của người đó nếu lời đùa cợt tránh khỏi vấn đề và làm cho đối thủ trở nên khờ khạo. Những cân nhắc của Tổng Thống và những diễn đàn chính trị khác thường cho thấy thành công của những chiến thuật này đem lại. Tương tự như vậy, sau đây là câu chuyện xảy ra ở phòng họp Quốc Hội Anh: Một thành viên có tên là
Thomas Massey-Massey giới thiệu một đạo luật trong Quốc Hội nhằm thay đổi tên gọi Christmas thành Christtide, với lý do là “mas” là một thuật ngữ Công Giáo La Mã mà người Anh, chủ yếu là người theo đạo Tin Lành, không nên dùng. Một thành viên khác lập tức phản đối ý kiến đó. Ông ta nói rằng, Christmas không muốn bị đổi tên. “Ông ta hỏi Thomas Massey-Massey: "Ông có muốn chúng tôi đổi tên ông thành Thotide Tidey- Tidey?".” Giữa tiếng cười sau đó, người ta không nghe thấy nói đến dự luật đó nữa.
Sự lăng mạ thường dễ bị nhầm với luận đề không liên quan và chẳng cần phải thảo luận nữa, bởi vì cả hai sai lầm thường bộc lộ đặc tính chỉ trích (mặc dù luận đề không liên quan có vẻ tích cực). Để phân biệt hai loại này là: sự công kích có tính lăng mạ sẽ cố gắng thuyết phục bằng cách lăng mạ đối thủ (điều người X nói là vô nghĩa vĩ X vô nghĩa), trong khi luận đề không liên quan cố gắng thuyết phục bằng cách "lăng mạ" chính lý lẽ đó (sự ngu xuẩn của luận điểm X không đáng để chúng ta quan tâm).
• Sự công kích có tính lăng mạ, một dạng của sự sai lầm có công kích cá nhân, là một cố gắng làm giảm sự kính trọng của chúng ta đối với một người nào đó (và bằng cách đó đối với những gì mà người đó đề nghị) bằng cách lạm dụng, làm nhục hay bôi xấu người đó.
• Sự lăng mạ có thể gây ra sự nghi ngờ về một người nào đó hoặc cố gắng làm cho người đó trở nên nực cười, hoặc buộc tội người đó vì tính tình mâu thuẫn hoặc bất thường.
Suy diễn gián tiếp46
Đôi khi, thay vì lăng mạ một cách trực tiếp, một đối thủ sẽ cố gắng đưa ra một vị trí dễ dàng hơn bằng cách gợi ý rằng những quan điểm kia chỉ đơn thuần phục vụ lợi ích của người chủ trương. Các nhà lo-gic học gọi điều này là hình thức suy diễn gián tiếp47 của lý lẽ. Buộc tội một người cùng với việc tác động đến những lợi ích bất di bất dịch cũng có thể được coi là công kích. Tuy nhiên suy diễn gián tiếp khác với lăng mạ ở chỗ nó tập trung
vào hoàn cảnh hay hoàn cảnh của đối thủ hơn là vào tính cách hoặc những đặc điểm cá nhân của người phát biểu.
46 Circumstantial ad hominem
47 A circumstantial ad hominem là sự cố gắng phá hoại một hoàn cảnh bằng cách gợi ý rằng người tranh luận chỉ đề xuất ý kiến đó vì quyền lợi của chính bản thân họ.
Người nào đó khi sử dụng cách suy diễn gián tiếp cũng có thể chỉ ra rằng, ví dụ, lý lẽ của một nhà sản xuất bảo vệ cho việc bãi bỏ chế độ thuế quan nên bị bác bỏ với lý do là một nhà sản xuất, cá nhân anh ta sẽ ủng hộ việc bãi bỏ chế độ thuế quan một cách tự nhiên, hoặc đề đạt tăng giá thuê nhà sẽ không được chấp thuận bởi không một người thuê nhà nào ủng hộ việc đó cả. Hơn là đưa ra những lý do tại sao kết luận của vấn đề đúng hay sai, những lý lẽ như vậy chỉ đưa ra những lý do với hy vọng rằng độc giả có thể nhìn nhận kết luận như anh ta.
f. Tất nhiên là viên nghị sĩ ở bang Vỉginia phản đối việc đánh thuế thuốc lá. Tất cả chúng ta đều biết thuốc lá được trồng ở đâu phải không?
g. Sự thật là một vài giáo sư đại học đã xác nhận rằng những chất gây loạn ảo là vô hại và không thể nghiện được. Nhưng cũng chính những giáo sư đó đã thừa nhận dùng những chất đó. Rõ ràng là chúng ta không nên đề cập đến ý kiến của họ.
Lại một lần nữa, sự thiếu xác đáng được đưa ra nhằm hướng sự chú ý của chúng ta ra khỏi vấn đề có thực. Thêm vào đó, sai lầm này dựa vào giả định cho rằng chưa có ai từng hành động hoặc suy nghĩ không ích kỷ hoặc vị tha. Tuy nhiên, ít người trong số chúng ta tranh luận rằng điều này thực sự đúng.
• Chúng ta có thể nghi ngờ động cơ của người tranh luận, nhưng ngay chính sự tranh luận cũng không bị làm yếu đi nếu chúng ta thấy những động cơ đó là đáng nghi ngờ. Sự tranh luận đó có thể vẫn hoàn toàn có cơ sở.
Xem ai nói đó48
Chúng ta đã quan sát ba trong số những chiến thuật cơ bản được dùng để phá hoại uy tín của một người nào đó. Như chúng ta đã thấy, thính thoảng điều đó được thực hiện bằng sai lầm căn nguyên, lăng mạ trực tiếp, hoặc suy diễn gián tiếp (nói bóng gió). Ngoài ra còn hai cách nữa có vẻ phức tạp hơn.
Cách đầu tiên của chiến thuật này có cái tên Latin có vẻ hơi kì quặc “tu quoque”49. Đó là chiến thuật trong đó người biện hộ cho một luận điểm bị buộc tội đã hành động trái với luận điểm đã được đưa ra. Ngụy biện tu quoque diễn ra dưới hình thức: lý lẽ của đối thủ là vô giá trị bởi đối thủ đã không làm theo chính lời khuyên của mình.
h. Hãy xem ai bảo tôi ngừng hút thuốc! Anh còn hút nhiều hơn tôi đấy!
Mặc dù lời khuyên trên của một người nghiện thuốc có thể làm nghi ngờ về niềm tin của bạn đối với lý lẽ đó, nó cũng không nhất thiết là phá hoại lý lẽ đó. Việc tranh luận rằng hút thuốc có hại cho sức khỏe cũng có thể đúng bất kể người nói điều đó có hút thuốc hay không.
48 Tu Quoque
49 To quoque (được đọc là " tu kwo-kway”) theo tiếng Latin có nghĩa là "anh cũng", có nghĩa là "nhìn xem ai
đang nói"
Chúng ta có một xu hướng tự nhiên là luôn muốn người khác "thực hiện những điều họ thuyết giáo". Nhưng việc thực tập là không xác đáng đối với sức mạnh của lý lẽ. Nhìn thoáng qua, sự đáp lại sau đây có vẻ có lý, nhưng nó không hề lo-gic với bối cảnh:
i. Nếu anh cho rằng sống tập thể là một ý tưởng tuyệt vời thì tại sao anh không sống trong một tập thể?
Người ca ngợi lối sống chung có thể đang hoặc không thực hiện điều đó -- có lẽ là bới vì những hoàn cảnh đặc biệt hoặc những ràng buộc cá nhân khác. Tuy nhiên có thể chính việc họ không làm như vậy lại không làm mất đi hiệu lực sự tranh luận của họ rằng làm như thế là một ý kiến hay. Thật đáng tiếc là những người thường dùng đến sự công kích này lại hay lôi cuốn được những lời nói sáo rỗng khác rằng “những người sống trong nhà kính không nên ném đá.” Tuy nhiên chẳng có lý do gì mà một hòn đá bị ném ra từ nhà kính lại không thấy dấu vết của nó.
Một biến dạng khác là một lý lẽ kiểu "Anh cũng làm thế cơ mà!" chuyển sang lý lẽ "Anh cũng sẽ làm như vậy nếu anh có cơ hội." Hãy lưu ý sự thay đổi của hai lý lẽ tiếp sau đây.
j. Có quá nhiều sự bàn cãi về Cục Tình Báo Trung Ương ở nước ngoài. Các nước khác cũng tham gia vào việc tình báo như chúng ta.
k. Có thể đúng rằng Kuwait chưa hề tiến hành bất cứ hoạt động tình báo nào tại
Mỹ. Nhưng họ cũng sẽ làm nếu có cơ hội. Tôi cho rằng Kuwait nên tránh điều đó.
Sự sai lầm này về cơ bản là như nhau trong mỗi trường hợp. Dù có ai đó đang hành động theo cách “chống lại kết luận đang tranh cãi”, hay có ai đó sẽ hành động theo cách “cơ hội có thể nảy sinh”, thì họ cũng đã không quan tâm đến kết luận đang được bàn cãi là đúng hay sai. Trong tất cả các sai lầm công kích cá nhân, bất cứ lý do nào nói về người
bảo vệ luận điểm hay người đưa ra luận điểm, hoặc người chống đối luận điểm đều được coi là thiếu xác đáng. (TQ hiệu đính: luận điểm đúng hay sai mới là điều đáng nói để bàn thảo. Lý do hay động cơ tại sao người ta có luận điểm đó là không xác đáng.)
• Với xem ai nói đó, chúng ta cố gắng chứng minh những điều chúng ta đang làm bằng cách chỉ ra rằng đối thủ của chúng ta và những người khác cũng đều làm như vậy.
• Hai điều sai, tuy nhiên không thể làm thành một điều đúng.
Đầu độc nguồn nước 50
Loại sai lầm công kích cá nhân cuối cùng mà chúng ta đề cập tới có tên gọi là đầu độc nguồn nước. Trong những lý lẽ như vậy chúng ta cố gắng đặt đối thủ vào vị trí mà anh ta không thể đối đáp được.
50 Poisoning the well
Loại sai lầm này có tên gọi từ John G. Cardinal Newman -- một giáo sĩ người Anh hồi thế kỷ 19, tại một trong những cuộc tranh luận của ông ta với mục sư, đồng thời là nhà viết tiểu thuyết Charles Kingsley. Trong cuộc tranh cãi đó, Kingsley đề nghị thừa nhận rằng Newman -- với tư cách là một thầy tu La-mã tin Chúa đã không đặt giá trị cao nhất vào sự thật.
Newman phản đối rằng sự buộc tội như vậy là không thể được đối với ông ta hay
bất cứ người nào theo đạo Công Giáo La-Mã. Bằng cách nào mà ông ta có thể chứng tỏ với Kingsley rằng ông ta coi trọng sự thật hơn bất cứ điều gì nếu Kingsley giả định rằng ông ta không làm như vậy? Kingsley ngay lập tức bác bỏ những gì Newman có thể đưa ra để bảo vệ. Nói cách khác, Kingsley đã bỏ độc vào nguồn nước, làm cho không ai có thể chia sẻ nó được. (TQ hiệu đính: Đầu độc nguồn nước là cách tấn công vào người tranh luận bằng
cách giả định rằng họ là người “xấu” trước khi tranh luận, và hy vọng rằng thính giả sẽ bị
“ngộ độc” khi cuộc tranh luân bắt đầu.)
Hãy xem những lời buộc tội dưới đây đầu độc như thế nào:
l. Đừng nghe ông ta. Ông ta là một kẻ vô lại!
m. Tôi thiết tha đề nghị các quí ông quí bà hãy nghĩ lại khi các quí ông bà nghe những thành viên phe đối lập nói rằng một người đi ngược lại động thái này sẽ không có được sự ủng hộ của nhân dân.
n. Người phụ nữ này phủ nhận việc bà ta là thành viên của phe đối lập. Nhưng chúng ta biết rằng những thành viên của phe đối lập đã bị ép buộc phủ nhận rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng đứng về phe đối lập.
o. Những người không đồng tình với tôi khi tôi nói rằng con người bị mua chuộc cũng chứng tỏ rằng họ đang bị mua chuộc.
Bất cứ ai cố gắng bác bỏ những lý lẽ này cũng đều bị thúc ép làm như vậy bởi những gì mà họ nói cũng chỉ có vẻ làm mạnh thêm lời buộc tội chống lại người đang nói điều đó. Chính sự cố gắng đáp lại cũng chỉ thành công trong việc đặt ai đó vào một vị trí thậm chí khó khăn hơn. Nếu bị buộc tội nói quá nhiều, một người cũng không thể tranh cãi lại sự buộc tội mà không bị lên án. Một người càng nói nhiều thì người đó càng chứng minh đựơc sự thật của sự buộc tội. Và có thể những chiến thuật không đúng đắn sau cùng đều có ý đồ để thực hiện bằng cách làm mất uy tín trước nguồn nước duy nhất mà từ đó bằng chứng hoặc là ủng hộ hoặc chống đối một luận điểm nào đó có thể được nảy sinh. Họ tìm cách tránh phe đối lập bằng cách ngăn ngừa tranh luận.
• Đầu độc nguồn nước, người ta cố gắng làm hại kẻ đối lập bằng cách đặt anh ta vào thế không thể phản kháng lại.
• Mục đích của nó là tránh phe đối lập bằng cách ngăn ngừa tranh cãi.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |