8. Tương Đồng Giả Tạo25
Một vài cách giải thích có ích đôi khi lại nguy hiểm khi bằng cách tương đồng. Sự tương đồng là cách phát huy quan điểm của chúng như làm cho một vấn đề chưa rõ ràng, chưa được chứng minh tương đồng với một vấn đề đã biết và cho rằng hai vấn đề này có
23 Double standard
24 Distoring the Facts
25 Fallacy of False Analogy
sự giống nhau cơ bản. Sai lầm do tương đồng giả tạo xảy ra khi sự so sánh giữa các sự vật không hợp lý và kết quả của việc bóp méo sự thật đang được nói đến.
Thu hút sự chú ý vào đặc điểm giống nhau có thể hoàn toàn hữu ích khi mà các sự vật được xem xét có sự giống nhau ở những đặc tính quan trọng, và khác nhau ở những đặc tính không quan trọng. Ngược lại nếu chúng chỉ giống nhau ở những đặc tính không quan trọng, và khác nhau ở đặc tính quan trọng thì sẽ không có sự tương đồng ở đây và do đó sự so sánh sẽ có lỗi: làm nổi bật những sự tương nhỏ nhặt để làm cơ sở kết luận rằng nếu cái này đúng thì cái kia cũng đúng.
Xem xét lập luận sau đây, được ủng hộ bởi các nhóm chia rẽ sắc tộc trong lịch sử:
a. Dùng sức mạnh ép buộc là điều cần thiết khi muốn người khác tin vào tôn giáo của chúng ta về cuộc sống ở cõi sau là điều tốt cho họ, điều đó cũng như việc ngăn cản người đang trong tình trạng thiếu tỉnh táo về nhận thức khỏi bị rơi từ
vách đá trên cao.
Thậm chí nếu chúng ta thừa nhận tôn giáo của chúng ta là cao siêu đối với những người khác, thì lập luận này vẫn không thuyết phục do việc gây nhầm lẫn trong trường hợp trên. Trong một trường hợp là vấn đề đang cứu một người đang trong tình trạng thiếu tỉnh táo về nhận thức khỏi cái chết, còn ở trường hợp kia những người liên quan hoàn toàn tỉnh táo và đủ nhận thức. Cho nên sẽ không phù hợp khi nói rằng dùng sức mạnh cưỡng ép là điều cần thiết trong trường hợp một người thiếu tỉnh táo và vấn đề liên quan là tính mạng của họ cũng giống như trong trường hợp dùng sức mạnh cưỡng ép trong trường hợp những người khác đối với vấn đề cuộc sống cõi sau. Nếu có ai đó nói rằng một người không tin vào thứ tôn giáo đó thì họ không có khả năng nhận thức, người này đã phạm vào lỗi lảng tránh không tập trung vào vấn đề. (Sự thật là nếu một người nói người kia không có khả năng nhận thức thì lời nói đó cũng không chứng minh được rằng người được nói đến là
như vậy.)
Để làm rõ lỗi trong sự tương đồng giả tạo hay sự giống nhau không hoàn hảo26, như cách một số người vẫn hay dùng, cần thiết phải làm rõ rằng có hai sự vật được đem ra so sánh, giữa chúng có sự khác nhau về các yếu tố cơ bản, và có sự giống nhau về các yếu tố không cơ bản.
b. Tại sao chúng ta lại đa cảm về việc một vài trăm nghìn người da đỏ châu Mỹ mất đi trong khi nền văn minh vĩ đãi của chúng ta đang được xây dựng? Có thể họ phải chịu đựng sự bất công, nhưng nói thế nào thì bạn cũng không thể làm món
ốp lết mà không đập vỡ quả trứng được.
Luận điểm này khiến chúng ta phải đề phòng vì bản chất nhạt nhẽo của sự tương đồng; so sánh những con người với những quả trứng và món ốp lết có vẻ như quá tầm thường. Tuy nhiên sai lầm lại nằm chính trong sự so sánh được nói đến hơn là những điều vô vị. Thậm chí nếu việc xây dựng một nền văn minh vĩ đại sẽ không thể thiếu nếu không gây ra các tổn thương cũng giống như việc không thể làm món ốp lết mà không đập vỡ những quả trứng là đúng, thì hai trường hợp này cũng không thể so sánh được. Vì đập vỡ
26 imperfect analogy
những quả trứng không làm đau những quả trứng đó, nhưng để xây dựng một đế quốc mà phải giết hại cuộc sống của con người thì là một việc đau lòng.
Lỗi tương tự có thể tìm thấy trong lập luận sau, trích từ tác phẩm nổi tiếng của nhà triết học Scottish thế kỷ 18, David Hume, tác phẩm "Tự Vẫn" ("On Suicide"):
c. Tôi sẽ không làm nên tội lỗi nếu thay đổi dòng chảy của sông Nile hay sông Danube, vậy tôi có tội chăng nếu làm thay đổi một chút mạch máu khỏi dòng chảy tự nhiên của nó.
Trong ví dụ trên đây, các sự vật được so sánh có sự khác nhau cơ bản: trong khi chuyển dòng chảy của các con sông kia không thể phá huỷ chúng; nhưng nếu thay đổi dòng chảy trong mạch máu người tức là phá bỏ (mạng) nó hoàn toàn.
ra lỗi:
Tuy có sự giống nhau cơ bản về các sự vật được so sánh, nhưng ví dụ sau cũng xảy
d. Những điều được dạy trong trường này phụ thuộc hoàn toàn vào những gì các
sinh viên quan tâm. Tiêu dùng tri thức cũng giống như tiêu dùng bất cứ cái gì khác trong xã hội. Thầy giáo là người bán, sinh viên là người mua. Người mua quyết định cái họ muốn mua, do đó sinh viên quyết định họ muốn học cái gì.
Người mua thường hiểu được món hàng trước khi họ quyết định mua nó, nhưng liệu các sinh viên có hiểu được các môn học trước khi họ học nó hay không.
e. Tại sao các thợ mỏ than phiền phải làm việc 10 tiếng mỗi ngày? Những giáo sư cũng làm việc với thời gian như thế lại không bị tổn hại gì rõ ràng.
Nơi công việc diễn ra, dưới những điều kiện việc làm nào đã làm cho sự so sánh này trở nên giả tạo. (TQ hiệu đính, điều kiện và công việc của giáo sư và công nhân lao động có giống nhau không, tại sao lại đem ra so sánh?)
Những lập luận của Francis Bacon ở thế kỷ 18 về ủng hộ chiến tranh cũng chứa
đựng sự tương đồng giả tạo.
f. Không ai có thể khoẻ mạnh nếu khô ng rèn luyện, cho dù là t hực thể tự n hiên hay xã hội; và c hắc ch ắn đối với một vương quốc, một cuộc chiến tranh đáng trân trọng cũng là một sự rèn lu yện th ực sự. Một cu ộc nội ch iến giống như cái nóng của một cơn sốt; nh ưng một cuộc chiến ngoại xâm thì giống như hơi nó ng của sự rèn lu yện, và nó sẽ làm cơ thể khỏe mạnh; vì sự hoà bình lười biếng làm cho con ng ười ta yếu đuối và hư hỏng. ( Điều Vĩ Đại Thực Sự Của Những Vương Quốc)
Đ iều gây chú ý trong lập luận trên không phải là lý luận sắc bén của Bacon khi ông bênh vực cho chiến tranh mà là ông đã không để ý rằng các quốc gia không giống như những cá nhân, và sự rèn luyện sức khoẻ cá nhân không nhất thiết ph ải l àm tổn hại đ ến ngư ời khác như các cu ộc chiến tranh.
Trong lý luận, phép ẩn dụ27 có xu hướng gây nhầm lẫn hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Điều này đặc biệt đúng trong sự tương đồng, về mặt bản chất là sự ẩn dụ được thổi phồng ra. Chúng ta có thể khâm phục khả năng ẩn dụ của Bacon về các khái niệm cơ thể, sự rèn luyện, sức nóng nhưng không được nhầm lẫn ý đồ ẩn dụ với ý nghĩa lý luận. Xét ở khía cạnh lý luận, lập luận của Bacon, giống như của Hume về Tự Vẫn, không thuyết phục được chúng ta bởi vì sự tương đồng giả tạo được sử dụng ở đây.
Tuy nhiên, đôi khi sự lý giải theo kiểu tương đồng có thể hữu ích. Trường hợp điển hình nhất là việc nhà toán học Hy Lạp Ác-shi-mét (Archimedes) khám phá ra rằng cơ thể khi ngập chìm trong chất lỏng sẽ làm mất đi một khối lượng chất lỏng tương ứng bị thay thế. Ông đã phát hiện ra điều này khi cố gắng tìm lời giải cho vấn đề của Vua Hê-rông (Hieron). Nhà Vua muốn biết rằng loại kim loại nào đã được dùng để làm vương miện mà không phải nung chảy chiếc vương miện đó. Ông đã giải quyết vấn đề này bằng cách quan sát rằng nước trong bồn tắm dâng lên khi bị phần cơ thể ông chiếm chỗ. Và ông cũng có cách lý giải tương tự rằng một khối lượng vàng sẽ chiếm chỗ ít hơn cùng một khối lượng bạc do nó có thể tích nhỏ hơn. Sau đó ông kiểm tra chiếc vương miện và phát hiện ra nó không được làm bằng vàng nguyên chất. (Người thợ kim hoàn đã lẫn bạc vào chiếc vương miện khi đúc nó).
Câu chuyện về nhà thiên văn học vĩ đại thời phục hưng, Copernicus, cũng có liên quan đến vấn đề này. Khi đang cho thuyền trôi bên cạnh bờ sông, ông có một ảo ảnh rằng bờ sông đang di chuyển trong khi con thuyền vẫn đứng yên. Điều này đã gây ấn tượng cho ông, rằng ảo ảnh tương tự cũng gây cho loài người niềm tin trái đất vẫn đứng yên trong khi mặt trời lại di chuyển xung quanh nó. Lý giải theo cách này, Copernicus đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nhận thức của con người về vũ trụ mà ngày nay người ta gọi là Thiên Văn
Học Hiện Đại28.
Tuy nhiên những khám phá được thực hiện bằng việc kiểm tra kỹ lưỡng các sự kiện tương đồng, vì nhiều ví dụ nêu ra ở trên cho thấy có hiện tượng sai lầm. Ngày nay chúng ta mỉm cười khi tổ tiên chúng ta nghĩ về việc truyền giống vào người phụ nữ, việc sinh sản
của con người cũng tương tự như việc thu hoạch vào các vụ mùa. Chúng ta tự hỏi làm sao con người lại có quan niệm mê tín rằng khi muốn tiêu diệt kẻ thù thì phải tạo ra các hình
ảnh của chúng rồi tiêu huỷ nó. Tuy nhiên việc con người hiện đại bị nhầm lẫn bởi sự tương đồng vẫn xảy ra hàng ngày. Cách tốt nhất để tránh được những nhầm lẫn như vậy là hãy phân loại thành những khía cạnh của các yếu tố đó, sau đó xem xét cái nào là phù hợp với các luận điểm, cái nào không phù hợp.
• Khi chúng ta lý giải bằng sự tương đồng, nghĩa là chúng ta so sánh những cái lờ
mờ, khó hiểu với những cái khác đã được biết rõ.
• Sự so sánh tương đồng có thể chấp nhận được khi hai sự vật được so sánh có sự
tương đồng về các yếu tố cơ bản, và khác nhau về các yếu tố không cơ bản.
27 metaphors
28 Modern Astronomy
• Nếu các sự vật được so sánh khác nhau ở những đặc điểm cơ bản, quan trọng, và chỉ giống nhau ở những điểm không cơ bản, không quan trọng thì sẽ không có sự tương đồng ở đây. Đó là sự tương đồng giả tạo hay so sánh không hoàn hảo.
9. Sai Nguyên Nhân29
Sai lầm do nguyên nhân sai30 là luận điểm cho rằng các sự kiện có mối quan hệ nhân quả với nhưng trong thực tế lại không phải như vậy. Sai lầm dạng này trước đây khá phổ biến, nhưng bây giờ nó ít tồn tại dưới dạng thô sơ do sự nhận thức của con người ngày càng cao.
Chúng ta đủ tỉnh táo để không làm theo kế hoạch của nhà cải cách người Anh Thomas Malthus. Ông này nhận thấy rằng những người nông dân cần cù và nghiêm túc thì có ít nhất một con bò trong khi những người không có bò lại lười biếng và say xỉn. Do đó ông khuyến nghị chính quyền nên cho những nông dân không có bò kia một con để làm họ nghiêm túc hơn và chăm chỉ hơn.
Những luận điểm sau đây chứa đựng các sai lầm thường thuyết phục được con người ngày nay.
a. Những cuộc chiến lớn mà chúng ta đã tham gia trong vài thế hệ vừa qua xảy ra khi chúng ta có những Tổng Thống phe Dân chủ, vì vậy chúng ta phải suy nghĩ hai lần trước khi bỏ phiếu cho phe Dân chủ trong cuộc bầu cử Tổng Thống lần này.
b. Ngày càng nhiều những người trẻ tuổi theo học ở các trường trung học và đại học. Nhưng cũng lúc, càng ngày nhiều các tội phạm vị thành niên và sự xa lánh, ghét bỏ trong tầng lớp tuổi trẻ. Điều này chứng tỏ rằng những người trẻ tuổi này đã bị làm xấu đi do nền giáo dục của họ.
Thực tế là hai sự kiện xảy ra một cách đồng thời và cái này sẽ bị bóp méo bởi cái kia khi chúng ta giả định cái này là nguyên nhân dẫn đến sự kiện kia.
Một dạng sai lầm phổ biến khác là đưa ra giả định không đúng là: vì một sự kiện xảy ra trước một sự kiện khác, do đó nó là nguyên nhân của sự kiện thứ hai. Thực tế, khi nêu ra một sự kiện, có vô số các sự kiện xảy ra trước đó và bất cứ sự kiện nào cũng có thể là nguyên nhân. Nên hai sự kiện xảy ra liên tiếp không thể xem là có mối quan hệ nhân quả.
Nếu không chú ý đến điều này thì chúng ta có thể mắc sai lầm.
c. Hai mươi năm sau khi tốt nghiệp, những cựu học sinh của trường Harvard có số thu nhập bình quân cao gấp năm lần những người không học đại học có cùng độ tuổi. Nếu ai đó muốn giàu có thì nên đăng ký vào học ở Harvard.
29 Fallacy of False Cause
30 Những sai lầm này trong tiếng La tinh là post hoc, ergo propter hoc có nghĩa là sau đây, do đó, bởi vì.
Xuất phát điểm cho việc đánh giá này đã không phù hợp. Mặc dù theo học ở trường Harvard có thể mang lại khả năng có thu nhập cao, nhưng cũng cần phải nhớ rằng trường này chỉ thu hút và chấp nhận những sinh viên xuất sắc hoặc những sinh viên có điều kiện khá giả. Do đó những cựu sinh viên trường Harvard có thể có thu nhập cao không phải vì trường mà họ đã học và đôi khi không phải vì họ có học đại học hay không, mà vì họ là
con cháu của những người khá giả.
Phân tích một số trường hợp về sai lầm do nguyên nhân sai đã chỉ ra rằng hai sự kiện có thể liên quan đến nhau mà sự kiện này không phải là nguyên nhân của sự kiện kia hay là ngược lại. Ví dụ như có hai sự kiện đều là kết quả của một sự kiện thứ ba khác. Một ví dụ thú vị khác liên quan đến loài cò quăm (ibis), loài chim thiêng liêng đối với người Ai cập cổ. Những người Ai Cập Cổ thờ loài chim này vì hàng năm, ngay sau khi từng bầy chim di cư đến hai bờ của dòng sông Nile, nước sông sẽ tràn bờ và chảy vào đất canh tác. Người Ai Cập Cổ tin rằng chính loài chim này đã làm cho họ có được đất phù sa từ sông Nile, nhưng thực tế là việc đàn chim di cư và hiện tượng nước sông tràn bờ đều có nguyên nhân từ sự thay đổi mùa.
Các sự kiện xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian hoặc cách xa nhau cũng không thể tạo ra mối quan hệ nhân quả. Việc người tinh khôn xuất hiện sau loài khỉ hình người, có nguồn gốc linh trưởng không có nghĩa là tổ tiên của chúng ta là loài khỉ hình người đó. Hoặc sự sụp đổ của đế chế La Mã sau khi Đạo Cơ-Đốc (Christianity) xuất hiện không có nghĩa là Đạo Cơ-Đốc là nguyên nhân của sự sụp đổ đó.
Những dạng sai lầm mà con người mắc phải có xu hướng thay đổi theo sự tiến bộ của khoa học. Quan niệm rằng mọi hoạt động của tự nhiên đều mang mục đích dần dần trở thành vấn đề của qúa khứ. Chúng ta thấy kỳ quặc khi con người đã từng giải thích hiện tượng thùng chứa đầy nước sẽ bị vỡ khi nước ở trong đó bị đóng băng rằng: khi nước đóng băng thì thể tích của nó bị co lại, tạo ra một khối chân không trong thùng chứa mà điều này làm thiên nhiên "không thích" (nên đã làm vỡ cái thùng chứ nước đó). Bây giờ chúng ta đã biết nguyên nhân thực của hiện tượng trên là khi nước bị đóng băng thể tích sẽ tăng lên và chính điều đó làm thùng chứa bị vỡ.
Ví dụ về nước đóng băng đó được trích từ cuốn sách xuất bản năm 1662 của nhà triết học người Pháp Thời Phục Hưng, Antoine Arnault. Là một cuốn sách rất nổi tiếng thời đó, nó được tái bản nhiều lần khi khoa học hiện đại được khai sinh. Ông đã tìm ra những lỗi của cách suy nghĩ khoa học trước đó qua đoạn viết sau:
Nếu chúng ta lập luận rằng bởi vì một sự kiện xảy ra sau sự kiện khác thì sự kiện sau phải là nguyên nhân của sự kiện trước, thì chúng ta đã vi phạm nguỵ biện sai nguyên nhân. Lý giải theo cách này con người đã kết luận rằng Chòm sao Thiên Lang (Dog Star)
là nguyên nhân của hiện tượng nóng bất thường chúng ta cảm thấy vào những ngày tiết đại hử. Virgil (Một nhà thơ La Mã thời Xê-da) khi viết về Chòm sao Thiên Lang, trong tiếng La-tinh có nghĩa là Sirius, đã nói:
“Khi thời tiết ở Cung Thiên Lang; Bệnh truyền nhiễm, hạn hán sẽ được mang đến loài người yếu đuối; Bầu trời sẽ đầy ánh sáng tai hoạ.” (Aeneid X: 273-75)
Nhưng Gassendi đã đánh giá một cách chính xác rằng chẳng có gì hơn ngoài sự mê tín vào Chòm sao Thiên Lang với cái nóng của tháng Tám. Ảnh hưởng của chòm sao này mạnh nhất đối với khu vực gần ngôi sao này nhất. Nhưng vào tháng Tám Chòm sao Thiên Lang gần ở khu vực nằm dưới xích đạo hơn là vùng phía trên: vào ngày đại hử ở phía trên xích đạo thì khu vực phía dưới lại vào mùa đông. Do đó cư dân ở phía dưới xích đạo nghĩ rằng Chòm sao Thiên Lang mang cái lạnh đến cho họ, còn cư dân ở phía trên xích đạo lại cho rằng Chòm sao này mang đến cái nóng. (James Dickoff và Patricia James dịch. Indianapolis: Bobbs-Merril, 1964, trang 255)
Một ví dụ gần đây phân tích lỗi trong quan hệ nhân quả đã xảy ra trong liệu pháp hiện đại của bác sĩ tâm thần Manfred Sakel phát hiện năm 1927 rằng bệnh tâm thần phân liệt có thể điều trị được bằng cách kiểm soát lượng insulin quá liều, cái đã tạo ra những cơn sốc co giật. Rất nhiều nhà tâm thần học đã đưa ra một kết luận sai lầm, họ bắt đầu điều trị bệnh tâm thần phân liệt và những rối loạn tâm thần khác bằng cách dùng các cú sốc điện
đối với bệnh nhân mà không có insulin. Tại cuộc hội nghị hàng năm của các nhà tâm thần học, bác sĩ Sakel đã buồn bã đứng lên giải thích rằng những cơn sốc điện như vậy thực sự nguy hiểm, trong khi liệu pháp insulin khôi phục lại trạng thái cân bằng của hóc-môn. Các vị bác sĩ kia đã nhầm lẫn tác dụng phụ với nguyên nhân. Nhìn chung, nhận thức của chúng ta về các nguyên nhân tự nhiên hay vật lý ngày càng tốt hơn. (TQ hiệu đính: A đưa đến B không có nghĩa là B đưa đến A. Có nhiều insulin trong người sẽ sinh ra co giật. Nhưng sốc điện để người bệnh bị co giật không có nghĩa làm người bị sốc điện sẽ phát sinh thêm insulin).
Mặt khác điều này lại không đúng khi giải thích các nguyên nhân về mặt tâm lý. Ví dụ có một số người vẫn tin rằng nếu họ hay nói một sự kiện nào đó sẽ xẩy ra thì nó sẽ xẩy ra trong thực tế. Một trường hợp tốt cho việc "tự hoàn thiện sự tiên tri"31, nhưng trên cơ sở tâm lý hơn là ma thuật. Ví dụ, vì e ngại rằng người khác sẽ đối xử với chúng ta không thân thiện nên chúng ta đã đối xử với họ không thân thiện, điều này làm cho họ đối xử lại với chúng ta y như vậy. Hoặc, với hy vọng được chào đón thân thiện chúng ta chào hỏi rất
nồng nhiệt với mọi người, và điều này làm cho họ đáp lại với chúng ta rất tốt.
Việc tin vào sự may mắn hay xui xẻo cũng tư tương tự như vậy. Nếu một ai đó tin rằng mình sẽ gặp xui xẻo thì sẽ có tâm lý nản chí, không muốn hành động để chống lại điều mình đã tin và điều này sẽ làm nguy cơ điều mà họ tin vào có nhiều khả năng xảy ra hơn. Ngược lại những người dám chấp nhận rủi ro sẽ nỗ lực hành động thì rất có thể họ sẽ có một số mệnh tốt. Đôi khi nguyên nhân sự việc có thể đúng như ta nghĩ, nhưng cũng có khi nó lại khác với điều chúng ta tưởng. Như trong mọi trường hợp sai lầm do sai nguyên nhân, cách tốt nhất để lý giải một vấn đề là tránh bóp méo sự thật một trong khả năng có thể.
Một số nhà lo-gic học xác định có một vài dạng khác của sai lầm này, đó là nguyên nhân vòng vo32. Sai lầm này, giống như dạng sai lầm do không tập trung vào vấn đề, xảy ra khi nguyên nhân của một sự kiện được cho là một trong hai nguyên nhân kết hợp làm phát sinh sự kiện. Ví dụ, một người bỏ chạy vì người đó sợ hãi và người đó sợ hãi bởi vì anh ta
31 self-fulfilling prophecy
32 circular cause
bỏ chạy, không có giải thích rõ hơn mà chỉ nói vòng vo. Ví dụ khác, đất nước kia nghèo bởi vì bị suy thoái, và đất nước kia đang trong thời kỳ suy thoái vì dân ở đó nghèo. Ví dụ sau đây được trích ra từ tác phẩm kinh điển của Antoine de Saint, Hoàng Tử Nhỏ (The Little Prince):
d. Điểm đến tinh tiếp theo có một người nghiện rượu sinh sống. Một chuyến viếng thăm ngắn ngủi, nhưng nó gieo vào lòng Hoàng tử nhỏ một ấn tượng buồn sâu sắc.
"Ông đang làm gì ở đây?" Hoàng tử hỏi người nghiện rượu, người đang ngồi lặng yên trước hàng loạt chai rượu không và những chai đầy rượu.
"Tôi đang uống," ông đáp lại với một vẻ buồn thảm. "Tại sao ông lại uống rượu", hoàng tử lại hỏi.
"Để tôi có thể quên đi," ông trả lời.
"Quên đi cái gì?", hoàng tử hỏi tiếp, và cảm thấy buồn cho ông ta. "Quên rằng tôi là kẻ đáng hổ thẹn", ông thú nhận, đầu cúi xuống. "Hổ thẹn vì cái gì?" hoàng tử gạn hỏi với mong muốn giúp đỡ ông.
"Quên rằng tôi là kẻ nghiện rượu!" ông nói xong và ngồi lặng thing, không muốn nói gì thêm .
Hoàng tử nhỏ bỏ đi, lòng đầy bối rối. "Người lớn thật là rất rất kỳ quặc", hoàng tử
tự nói với mình rồi tiếp tục chuyến đi của mình.
• Sai lầm do sai nguyên nhân có thể mang nhiều dạng khác nhau, nhưng dạng phổ biến nhất là tin một cách sai lầm rằng vì một sự kiện xảy ra trước một sự kiện khác, nên sự kiện xảy ra trước là nguyên nhân của sự kiện sau.
• Tuy nhiên nhiều sự kiện xảy ra ngay trước khi một sự kiện khác, một trong số đó có thể là nguyên nhân. Sự hiểu biết tốt hơn sẽ giúp chúng ta có thể xác định được nguyên nhân.
• Hai cụm từ tiếng La tinh đôi khi được sử dụng để xác định sai lầm này.
• Dạng phổ biến nhất là:
¾ Non causa pro causa
¾ Post hoc, ergo propter hoc
¾ Điều mà các câu trên muốn nhấn mạnh là: Đừng nhầm lẫn nguyên nhân với sự trùng hợp ngẫu nhiên.
10. Lý Luận Rập Khuôn33
Lý luận rập khuôn34 là một biến thể thú vị của sai lầm do sự tương đồng giả tạo và sai lầm do sai nguyên nhân. Có hai cách gọi khác để chỉ sai lầm này: tiền lệ xấu35 và đầu nhọn của cái nêm36. Lập luận của nó phản đối lại một đề nghị hoặc một quan điểm trên cơ sở rằng: điều đó sẽ dẫn đến một tình thế chung tương tự như đề xuất hoặc quan điểm trên. Ví dụ sau đây là sự phản đối về việc Toà Án cho phép Đại học Georgia yêu cầu các giáo sư cho biết họ đã bỏ phiếu bầu hội đồng giáo viên như thế nào, là một điển hình cho loại sai lầm này:
a. Quy định này giống như khởi đầu cho một thể chế chuyên quyền. Thẩm phán Owens đang vi phạm quy tắc bỏ phiếu kín bằng cách yêu cầu các thành viên trong khoa cho biết họ đã bỏ phiếu như thế nào. Tiếp theo chính phủ sẽ cấm việc bỏ phiếu kín trong các hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức dân sự, công ty, và
cuối cùng là tổng tuyển cử.
Người viết cho rằng quy định như vậy cần phải huỷ bỏ vì nó có thể tạo ra một tiền lệ xấu và có nguy cơ tạo ra một chuỗi sự kiện không mong muốn. Nhưng lý giải như người viết trên đây là sai lầm, vì họ tưởng rằng các cuộc bỏ phiếu là giống nhau và sự công khai
ở cuộc bỏ phiếu này sẽ buộc dẫn đến sự công khai ở những cuộc bỏ phiếu khác. Nhưng vụ việc này và những vấn đề quan tâm kia có tương tự như người viết cho rằng hay không? Nếu không có sự tương tự, thì sẽ không đến hậu quả tương tự. Sự lo sợ ở đây là không có cơ sở.
Lập luận này rất phổ biến trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Quả thực, hiếm có một ngày nào trôi qua mà không có một vài dòng trên báo chí bày tỏ mối lo sợ rằng nếu Việt Nam thất bại, sau đó sẽ đến Cam-pu-chia, rồi Thái Lan, Burma, Ấn Độ … và sự lo lắng như vậy cũng xảy ra trong cuộc xung đột ở Falklands, như trong đoạn sau:
b. Thật là ngớ ngẩn khi đàm phán trung gian giữa Anh và Ác-hen-ti-na. Điều cần làm ở đây là hành động quân sự quyết liệt của Mỹ giúp Anh chiếm lại Falkland và trừng phạt Ác-hen-ti-na. Nếu không như vậy chúng ta sẽ mất Guantanamo, Guam, Virgin Island và Catalina.
Ở đây, người viết đã tưởng tượng rằng chúng ta đang sai lầm và nếu chúng ta tiến thêm một bước nữa thì sẽ không thể dừng lại và sẽ bị trượt xuống sâu hơn. Nhưng chúng ta thường có thể dừng lại được, vì mọi thứ không phải giống như cái ván trượt và sẽ không dẫn đến hậu quả xấu có thể nhìn thấy trước. Mỗi tình thế mới phát sinh cần được đánh giá
33 Fallacy of Slippery Slope
34 Slippery Slope là một cái dốc trơn. Fallacy of Slippery Slope có ý nghĩa rằng, như một người đang bị tuột dốc, lăn từ đầu này đến đầu kia mà không thể ngừng lại được. Trong lý luận, Fallacy of Slippery Slope có nghĩa rẵng, lý luận như một người bị tuột dốc, cho rằng khi một vấn đề xảy ra, những chuổi sự kiện khác sẽ
lần lượt xảy ra. Ngụy biện này là tổng hợp của hai ngụy biện, ngụy biện tương đồng giả tạo và ngụy biện sai
nguyên nhân. Ngụy biện liên kết sai vì nhận định một vấn đề sai (tương đồng giả tạo), rồi cho sự nhận định của mình đúng và đưa ra những ý kiến nhân quả. Nhưng nếu sự nhận định sai, thì ý kiến nhân quả đưa ra đâu có đúng. Và dù cho sự nhận định đúng (không vi phạm tương đồng giả tạo), thì sự nhận đính đó có phải ý kiến nhân quả hay không, là 1 chuyện khác cần phải chứng minh.
35 bad precedent
36 thin end of the wedge
lại một cách phù hợp, chính xác. Nếu các sự vật thực sự tương tự nhau thì chúng sẽ dẫn đến hậu quả giống nhau. Do đó mỗi sự việc phải được xem xét một cách riêng rẽ để đánh giá mức độ tương tự, giống nhau của chúng.
Lo ngại rằng chúng ta không thể dừng lại nếu chúng ta đã dẫm chân lên ván trượt không phải là một điều mới. Năm 1698, khi sách thánh ca được in ra cùng với các nốt nhạc, một tác giả trong thời báo New England đã nhận xét về phương pháp mới "hát theo quy tắc" như sau:
c. Tôi thực sự e ngại rằng, một khi chúng ta hát theo quy tắc, điều tiếp theo là chúng ta cầu nguyện theo quy tắc, sau đó là giảng đạo theo quy tắc và cuối cùng là giáo hoàng quy tắc.
Những sai lầm mà lập luận trên nêu ra và những gì nó gợi lên chắc chắn sẽ bị loại bỏ sớm. Đoạn viết sau đây xuất hiện trong một cuốn sách về dinh dưỡng:
d. “Nếu các chuyên gia quyết định rằng chúng ta nên có chất floride trong trà, cà phê, nước cam vắt, nước chan, và trong từng tế bào của cơ thể, vậy thì chúng ta dự trữ gì cho ngày mai? Vậy vitamin C trong nước thì sao, nó được nhiều người cho là quan trọng hơn floride. Thế còn thuốc an thần để tránh những cơn rối loạn? Hoá chất hạn chế sinh sản được chuyển vào dòng nước đến một dân tộc gần chúng ta? Khi thời điểm đó đến, bạn có thể chắc chắn mọi thứ diễn ra làm bạn
vừa lòng và vì sự an toàn của bạn." (David Reuben, Những Điều Bạn Muốn Biết
Về Dinh Dưỡng).
Một lần nữa, chúng ta tự hỏi những tình huống đề cập trên đây có sự tương đương. Nếu chúng ta chấp nhận dùng Floride và Vitamin C có làm chúng ta chấp nhận thuốc an thần và hoá chất hạn chế sinh sản hay không? Chẳng lẽ những tình huống đề cập trên đây không có sự khác nhau? Nếu có thì chúng ta cũng không thể lập luận như vậy. Bởi vì việc sử dụng Floride và vitamin C là tốt cho sức khoẻ mọi người, còn những cái kia lại không như vậy.
Những lập luận như thế chỉ thuyết phục chúng ta bằng cách bỏ qua sự khác nhau cơ
bản giữa các trường hợp được xem xét.
• Sai lầm do lý luận khập khuôn là một biến thể của hai loại sai lầm đã được nói
đến là: sự tương đồng giả tạo và nguyên nhân sai.
• Khái niệm lý luận khập khuôn dùng để chỉ lập luận phản đối một quan điểm, tình thế trên cơ sở rằng nếu quan điểm, tình thế đó được áp dụng thì sẽ tạo ra một chuỗi phản ứng và cuối cùng sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn.
• Hãy thách thức lại những luận điểm như thế bằng cách đặt vấn đề: liệu các trường hợp được xem xét có thực sự giống nhau? Và chúng có dẫn đến hậu quả xấu có thể dự đoán mà không thể tránh khỏi hay không?
TQ hiệu đính: Lý luận rập khuôn là cách chấp nhận một định đề nào đó không cần phán xét, và đồng thời cũng chấp nhận luôn ảnh hưởng nhân quả của định đề đó. Lý luận rập khuôn giống như lý luận do-mi-nô hay lý luận giây chuyền, như thể thấy trong thời chiến tranh Việt Nam “Nếu Việt Nam lọt vào tay Cộng Sản, rồi đến Miên, rồi Thái Lan, rồi Mã Lai, v.v… Và cả thế giới lần lượt lọt vào tay Cộng Sản”. Chưa chắc và bạn đang nằm mơ đó!
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |