Mi Tiên Vấn Ðáp (Milinda Panha) Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo) Tỳ kheo Giới Ðức hiệu đính, ấn bản 2003



tải về 2.69 Mb.
trang34/34
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích2.69 Mb.
#23640
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   34

239. Về con quạ

- Hai chi của con quạ là như sau:

Thứ nhất, con quạ mỗi lần uống nước, nó lấy cái mỏ như cái ống hút, hút nước lên; bậc hành giả tu tập phạm hạnh cũng y như thế, phải dùng "hướng tâm đúng", "chú ý đúng" như cái ống hút để hút những phẩm tính cao thượng, những thiện pháp.

Thứ hai, con quạ hút nước là hút một lần thật nhiều, không hút thêm lần hai, nhưng không bị hộc nước, bị sặc nước bao giờ. Bậc hành giả cũng vậy, hút thật nhiều ân đức của Phật, ân đức của Pháp, ân đức của Tăng; rồi nhờ ân đức ấy bảo trợ để phát triển minh sát, thấy rõ ngũ uẩn là vô thường để chứng đắc tuệ giác.

* * *

240. Về cái dù

- Về cái dù thì có ba chi, tâu đại vương.

Thứ nhất: cái dù thường dùng để che trên đầu, bậc hành giả cũng phải tu tập các pháp cao thượng để che tâm vậy.

Thứ hai: cái dù thường bảo vệ cho cái đầu được mát mẻ. Cũng vậy, bậc hành giả dùng phương pháp của trí tuệ (chú tâm đúng, tác ý đúng, hướng tâm đúng) để bảo vệ cái tâm và thiện pháp của mình.

Thứ ba: cái dù dùng để che nắng, che mưa. Cũng vậy, bậc hành giả phải ngăn che phiền não, ba thứ lửa; ngăn che các loại tà kiến và mọi tư tưởng độc hại. Đúng như Đức Pháp Chủ có thuyết: "Cái dù muốn che chắn tốt, có bóng mát, phải là dù không hư lủng, gọng chắc chắn; tương tự vậy, người Phật tử có dù tốt tức là giới trong sạch để che mưa tức phiền não, che nắng tức là ba thứ lửa vậy."

* * *


241. Về đám ruộng

- Về đám ruộng, có ba chi như sau:

Đầu tiên, ruộng phải có mương để tát nước vào. Bậc hành giả tu tập cũng như đám ruộng vậy, phải cần có mương nước tức là pháp để thực hành, để dẫn nước vào trong đám ruộng của mình.

Tiếp đến, ruộng cần có bờ bảo vệ ruộng, lưu trữ nước để nuôi cây lúa. Bậc hành giả cần phải có giới làm bờ để giữ gìn, bảo vệ sa môn pháp, để nuôi bốn sa môn quả.

Sau cùng, nếu đám ruộng được chuẩn bị tốt thì khi gieo giống xuống sẽ gặt hái được nhiều, càng gieo nhiều thì càng thu hoạch được nhiều hơn nữa. Đấy là điều hạnh phúc cho người chủ ruộng. Bậc hành giả cũng phải là đám ruộng được chuẩn bị tốt - do có mương nước, bờ nước, phân bón v.v... cho thí chủ gieo hạt giống lành sẽ được phước báu lớn lao. Đúng như đại đức Upàlì có thuyết: "Bậc hành giả phải như đám ruộng tốt để các thí chủ gieo những hạt giống lành sẽ thu được kết quả viên mãn."

* * *


242. Thuốc trị độc rắn

- Thuốc trị độc rắn có hai tính dụng:

Một là, thuốc trị độc rắn không bao giờ để cho giòi bọ phát sanh lên được. Bậc hành giả tu tập phải như thuốc trị độc rắn vậy, đừng cho giòi bọ phiền não phát sanh.

Hai là, người bị rắn độc cắn, khi thoa thuốc trị độc rắn rồi, nọc độc sẽ biến mất. Cũng vậy, hành giả tu tập minh sát khi đã có tuệ giác soi chiếu rồi, các độc tham, độc sân, độc si sẽ biến mất. Đúng như Phật ngôn:

"Muốn thấy sự thật của các hành (Sankhàra), các trạng thái sinh diệt của pháp, cần phải dứt trừ độc của rắn, ấy là phiền não."

* * *


243. Về vật thực

- Về vật thực, có ba điều cần phải nghiên cứu, tâu đại vương.

Thứ nhất, vật thực hằng nuôi mạng chúng sanh, cũng vậy, bậc hành giả cần trợ giúp cho tất cả chúng sanh.

Thứ hai, vật thực giúp cho chúng sanh có sức mạnh, bậc hành giả cũng phải đem sức mạnh - tức là phước báu - đến cho chúng sanh.

Thứ ba, vật thực là nơi mong cầu, là sự tìm kiếm của tất cả chúng sanh; bởi vậy, bậc sa môn phải có giới, pháp như thế nào để chúng sanh được nương nhờ. Đúng như đức Mogharàjà đã thuyết: "Vị tỳ khưu phải hoan hỷ ở trong phẩm mạo sa môn của mình, hằng có giới đức và pháp hành đầy đủ để làm nơi nương tựa cho chúng sanh ở trên cõi đời này."

* * *


244. Về người bắn cung

Đức vua Mi-lan-đà nói:

- Thưa đại đức, ví dụ thật là quá nhiều. Dường như trên thế gian có vật gì, có sự kiện nào, đại đức đều có thể lấy làm ví dụ, khả dĩ so sánh, đối chiếu với sa môn hạnh được cả. Bây giờ, thời gian cũng đã phải lẽ, đại đức cho nghe thêm một ví dụ thật đầy đủ nữa thôi, như thế cũng đã thỏa nguyện bình sinh lắm rồi.

- Tâu, vâng. Vậy thì đại vương nghe thêm ví dụ về người bắn cung.

- Thưa, vâng.

- Bắn cung thì có bốn chi điều như sau:

Thứ nhất, trước khi bắn, người bắn cung phải đứng vững chắc hai chân trên đất, giữ đầu gối đừng rung động, giữ thân đừng chao đảo, hai tay nắm chắc cây cung đưa lên ngang tai, kẹp mũi tên giữa hai ngón tay, nhắm một mắt, nhắm kỹ mục tiêu, với ý nghĩ rằng mình sắp sửa bắn. Cũng vậy, bậc hành giả có hai chân vững chắc là tinh tấn, đứng trên đất là giới, đầu gối và thân đừng rung động, nghĩa là tâm phải nhẫn nại, kiên định, trú trong pháp, có sự thu thúc; hướng đến mục tiêu là hướng tâm với trí tuệ, có chánh niệm. Khi ấy, hành giả sẽ bắn trúng mục tiêu là phiền não.

Thứ hai, mũi tên sở dĩ bắn trúng được mục tiêu, một phần nhờ vào mũi tên thẳng, bởi vậy người thợ làm mũi tên phải làm một đoạn gỗ ngàm để uốn mũi tên cho thẳng. Bậc hành giả cũng cần phải có khúc gỗ ngàm ấy - tức là tứ niệm xứ - để uốn cái tâm cong cho ngay thẳng.

Thứ ba, người thợ bắn cung phải để tâm vào chỗ ngắm. Chú ý vào chỗ ngắm tốt, mục tiêu mới dễ đạt. Cũng vậy, bậc hành giả phải quan sát, chú ý, để tâm thấy rõ vô thường chính là khổ, là có bệnh, là cục bướu, là mụt nhọt, là kiết sử cột chặt ta ở trong luân hồi, là điều tai hại, đáng sợ hãi, chẳng có gì trường tồn bất hoại. Vô ngã cũng thế, nó không có tự tính, chẳng có thể làm nơi nương nhờ, là rỗng không, là không thật hữu, là sinh diệt. Vô thường và vô ngã ấy là tính chất của pháp hữu vi, nó hằng chuyển biến không cố định, không kiên cố; nó chỉ là duyên tạo thành, tràn đầy ma chướng, chỉ có sanh, bệnh tật, đau ốm, già nua rồi chết chóc... Tất cả chúng chỉ đưa đến buồn rầu, khóc than kể lể, uất ức, hờn giận v.v... Bậc hành giả phải quán thị như thế, lấy đó làm cơ sở hướng đến mục tiêu lìa khỏi tam giới, dứt trừ ái luyến để đi đến nơi giải thóat.

Thứ tư, nếu người bắn cung muốn trở thành một xạ thủ thiện xảo thì phải không ngớt tập luyện ngày đêm, tháng này sang tháng nọ, năm này qua năm khác. Bậc hành giả muốn đắc đạo quả tối thượng thì cũng phải quán xét tâm mình, rèn luyện tâm mình, mỗi thời mỗi khắc không thể lơ là... Đúng như Đức Pháp chủ Xá-lợi-phất thuyết rằng: "Người bắn cung hằng tập luyện đêm ngày, công phu lao nhọc nhiều năm mới trở thành người bắn cung tài giỏi. Thành quả mà y đạt được, được đức vua hâm mộ, trọng thưởng xứng đáng... nào tài sản, ngựa xe v.v... thật không phải tự dưng mà có. Phải trải qua thời gian tập luyện vậy. Các hàng Phật tử là hành giả đang tu tập, nếu mong thoát khổ, muốn được phần thưởng quả vị A-la-hán với những phẩm tính cao siêu, thì cũng phải đêm ngày quán xét thân tâm, rèn luyện thân tâm mình như người bắn cung vậy."

Đấy là bốn điều về người bắn cung, tâu đại vương!

-ooOoo-


III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP

Khi dứt các câu hỏi và đáp giữa đức vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên, ngay lúc ấy, phát sanh hiện tượng phi thường là quả địa cầu dày bốn mươi do tuần rung động, rung chuyển dữ dội, sấm chớp ở lưng trời xẹt chiếu khắp các hướng. Trên hư không, chư thiên rải hoa cúng dường. Trời đại phạm thiên phát tâm hoan hỷ, không hết lời ca ngợi, tán dương. Sóng giữa biển khơi dâng lên cao, ì ầm không ngớt.

Đức vua Mi-lan-đà, bá quan, cung phi mỹ nữ, quân lính theo hầu đồng quỳ xuống chắp tay đảnh lễ rất thành kính.

Thật là một sự kiện trọng đại đối với đức vua, vì qua cuộc vấn đáp, ngài đã lãnh hội được biết bao nhiêu điều cương yếu của giáo pháp, đã làm cho yên lặng tất cả mối hoài nghi. Đức vua vô cùng hoan hỷ, đức tin thanh khiết đối với Tam Bảo được củng cố, tăng trưởng, ngài rất ngưỡng mộ oai đức của bậc xuất gia phạm hạnh.

Hiện giờ, bao nhiêu ngã chấp của đức vua đều tiêu tan. Bản chất ngạo mạn, cứng đầu, khoe khoang, coi trời đất không ra gì của ngài cũng đã chấm dứt.

Như rồng chúa có rất nhiều thần lực, khi đã nhổ răng và bẻ vuốt đi rồi thì không còn chất độc để tác hại ai được nữa, đức vua chắp tay cung kính:

- Kính bạch đại đức Na-tiên! Tất cả những câu hỏi của trẫm đưa ra, có một số câu rất khó, thuộc trình độ của Phật, thế mà ngài đã giải đáp rất minh bạch, rành rẽ, khúc chiết. Trong giáo hội của Đức Tôn Sư, từ xưa đến nay, ngoại trừ đức Pháp chủ Xá-lợi-phất ra, có lẽ không ai giải đáp nỗi. Ngài đúng là bậc có trí tuệ vô song vậy.

Trong thời gian vừa qua, khi đặt những câu hỏi, khi đưa ra vấn đề hoặc những khi hỏi ngược lại; dù vô tình hay cố ý, nếu có chỗ nào trẫm thất lễ, khiếm khuyết, xin ngài rộng lòng bi mẫn hỷ xả; và trẫm cũng xin cung kính được sám hối.

Kính bạch đại đức! Xin ngài hãy chứng minh và nhận biết cho trẫm là người quy y Tam Bảo, kể từ ngày nay trở đi, xin ngài là nơi nương nhờ cho đến trọn đời.

Đại đức Na-tiên im lặng nhận lời, trao truyền quy giới cho đức vua Mi-lan-đà; ngài nói ít lời sách tấn, khuyến hóa, dạy nhà vua hãy sống thuần thành là một người con Phật, kính tín Tam Bảo và chăm lo hạnh phúc đến cho bá tánh.

Thời gian sau, đức vua Mi-lan-đà cho kiến tạo một ngôi chùa lấy tên là Mi-lan-đà dâng cúng đến đại đức Na-tiên. Kể từ đó, Chư Tăng mười phương vân tập về chùa này rất đông. Và đức vua là người hết lòng phục vụ, hộ độ đến Tăng-già rất đầy đủ.

Càng ngày dường như giáo pháp cao thượng càng thấm sâu vào đời sống, đức vua cảm thấy không còn thích thú đến vương vị, phú quý hay quyền lực nữa. Ngài bèn truyền ngôi cho hoàng tử để có thể có đủ thì giờ chiêm nghiệm giáo pháp nhiệm mầu. Ngài thấy thật rõ rằng, thế gian quả là thấp thỏi, hạ liệt, người ta hằng tìm cho mình những thú vui ngũ dục tầm thường. Quả thật, thế gian này bị chi phối bởi ba định luật vô thường, khổ vô ngã; chẳng có gì tồn tại chắc bền, chẳng có gì là thực, đáng gọi là nên đam mê, thích thú. Ở đâu cũng thấy khổ, thấy mê lầm, thấy tội, thấy dục, thấy lửa cháy... Ngài để tâm tư quán xét mười một tầng của cõi dục giới, gồm bốn ác đạo, người và sáu tầng trời dục giới. Rồi ngài lại quán xét, tư duy mười sáu tầng trời phạm thiên hữu sắc, luôn cả bốn tầng trời vô sắc; ngài cảm thấy rất rõ ở trong tâm rằng, chẳng có nơi nào xứng đáng để cho kẻ trí nương trú. Nơi này là dục thô thiển, phiền não thô thiển. Nơi kia là dục vi tế, phiền não vi tế. Ở đâu cũng vô thường, khổ não, vô ngã. Ở đâu cũng quanh quẩn lui tới trong luân hồi sinh tử.

Cái đô thành pháp bảo, cái vương quốc của giống dòng thượng đẳng, tức là nơi hạnh phúc chân thật, mới xứng đáng cho kẻ trí kiếm tìm. Thực hiện con đường ấy đòi hỏi sự gian nan, kiên trì; và nhất là phải từ bỏ thế gian, phải khoác phẩm mạo sa môn theo chân đại đức Na-tiên!

Nghĩ là làm. Thế rồi, một đêm kia, không cho ai hay biết, đức vua Mi-lan-đà lặng lẽ rời bỏ hoàng cung, đổi hoàng bào lấy chiếc áo khoác của người khất sĩ, tìm đường xuất gia, sau đó sống đời không nhà cửa của một sa môn chân chính.

Vốn đã trang bị cho mình một pháp học uyên thâm, vị sa môn này không mấy khó khăn khi chuyển qua pháp hành. Nhờ sự tinh cần, kiên trì tiến tu chỉ tịnh, quán minh; không bao lâu sau, ngài đắc giải thóat bảo cái trắng làm cho tỏ ngộ Niết-bàn, thành bậc A-la-hán vô sanh.

Nói tóm lại, nhờ trí tuệ, đức vua Mi-lan-đa không ngớt tầm cầu học hỏi, tra vấn, thao thức mà duyên may gặp được đại đức Na-tiên. Nhờ gặp đại đức Na-tiên, một bậc đại trí tuệ, mà trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà đã được phát huy, tăng trưởng. Và sau rốt, cũng nhờ trí tuệ ấy mà đức vua Mi-lan-đà đã thành tựu được phần thưởng tôn vinh, cao quý nhất của kiếp người - giải thóat khỏi phiền não sinh tử - khó tìm, khó kiếm, nan hành, nan đắc.

Vì lãnh hội được giá trị cao cả, ưu thắng của trí tuệ ấy, các bậc A-xà-lê đã trước tác một kệ ngôn, tán dương đức tính ưu việt của trí tuệ như sau:

"Thế gian hằng tán dương, ca ngợi trí tuệ. Nhờ trí tuệ mới thấu triệt được chánh pháp và trú vững trong chánh pháp. Trí tuệ chấm dứt tất thảy mọi hoài nghi để nếm thưởng được hương vị của pháp.Chánh niệm có mặt ở đâu thì trí tuệ phát sanh ở đấy. Chánh niệm trú ở pháp nào thì trí tuệ cũng trú ở pháp ấy. Người có trí tuệ xứng đáng thọ nhận sự cung kính, cúng dường. Người có trí tuệ là người phi thường, quý báu - trên thế gian không ai quý báu hơn. Cúng dường trí tuệ, cung kính trí tuệ giống như cúng dường và cung kính bảo tháp thờ các vị A-la-hán vậy."

Bộ kinh Mi-lan-đà sở vấn, tức là bộ kinh ghi lại những câu hỏi của đức vua Mi-lan-đà và những câu đáp của đại đức Na-tiên được chấm dứt ngang đây.

-HẾT-

Kính cáo

Thượng tọa Chánh Niệm - trụ trì chùa Phật Bảo, số 57 đường Lạc Long Quân, phường 10, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh - tìm trong di cảo của cố Hòa thượng Giới Nghiêm, thấy Ngài đang làm lại trọn bộ kinh Mi-tiên Vấn đáp. Nghĩ đến giá trị của bộ kinh và cũng muốn đáp đền ân đức của Thầy Tổ, Thượng tọa Chánh Niệm đã không quản công lao và thời gian, quyết tâm hoàn thành di chí của Ân sư.

Là đệ tử của Ngài, tôi thật sự cảm kích trước việc làm của Thượng tọa Chánh Niệm; nên không nệ tài hèn sức kém, không ngại Phật sự đa đoan bộn bề, đã góp sức cùng Thượng tọa hầu để hòan thành tác phẩm này.

Sau hai năm làm việc, quyển kinh có nội dung như hiện nay, tương đối dễ đọc, dễ hiểu đối với đại chúng, nhưng chúng tôi thấy mình đã vấp phải những lỗi lầm sau đây:

- Đã không còn theo sát nguyên văn bản dịch của Thầy Tổ.
- Đã đi xa bổn kinh Pàli văn và cả bản tiếng Anh.

Vì vậy, tất cả những lệch lạc, khiếm khuyết ở đâu đó trong quyển kinh này, trách nhiệm thuộc về phần chúng tôi. Chỉ có một điều được an ủi, mà chúng tôi biết, là nội dung quyển kinh không sai lạc với giáo pháp uyên nguyên.

Chúng Đệ tử chân thành sám hối với Ân sư. Kính cáo lỗi cùng các bậc thức giả, trí giả và mong chư vị niệm tình hỷ xả.

Trân trọng,

Thi Điếu

Ân Sư Cố Hòa Thượng Giới Nghiêm
Thế danh Nguyễn Đình Trấn
(1921 - 1984)
Viên tịch lúc 10g10 ngày 13 tháng 7 năm Giáp Tý
(9-8-1984 - P.L. 2528)

Tác bạch Giác linh Ân sư!


Hỡi ôi!
Khứ lai giả mộng!
Sinh tử thị thường!
Đau đớn vậy mà xót xa đành vậy!
Khôn cầm lệ, giọt phàm tình rưng chảy!
Nghĩa Sư đồ đại hải ba xuân,
Giòng nước xao, bóng núi vẫn còn,
Hài mây dẫu, non cao ngời bóng trượng!
Ôi!
Đói chút cơm thừa, y vụn,
Từ Linh sơn nghĩa trọng,
Truyền lưu áo bát mấy nghìn sau!

Ôi!
Khát dòng sữa ngọt thanh lương,
Từ kim khẩu Pháp vương,
Diệu hóa ba thời vô lượng nghĩa!

Với chí nguyện chơn truyền Tây Thổ,
Ngài du phương liệt quốc tầm nguyên!
Tứ cố vô thân,
Cõi Pháp, con thuyền!
Lìa thân thế, lìa gia hương,
Hoài bão trái tim trang nguyệt rạng!
Đơn thân độc bộ,
Trần chân vạn lý!
Nào hư vinh, nào huyễn mị,
Ngước cao vầng trán đuốc tinh vân!
Thế mà hỡi ôi!
Lạc quốc cao đăng,
Báo thân xả đoạn!
Dẫu chốc thoáng, ba đời ân nặng,
Chưa trăm năm, một cỗi tùng già!
Chốn Thiền môn,
Tăng lữ nguyệt sương pha,
Cõi trần thế, môn đồ hoa cỏ dại!

Đã từng khuyết chỗ ngồi cao đức!
Chừ đành sao đáy nước trầm châu?
Tín nữ, thiện nam lặng lẽ kinh cầu,
Bửu quyến, môn sinh
bùi ngùi tưởng niệm!
Nhớ Giác linh xưa,
Yêu quê hương như ruột thịt,
Xót sinh chúng tợ xương da!
Tổ quốc Bắc, Nam, bốn biển một nhà,
Phật giáo dị, đồng,
hai phương nhất thống!
Vì bi tâm mà dõng mãnh,
Bởi tuệ lực nên kiên cường!
Chí xuất phàm nào phải óc tư lương,
Hạnh đại sĩ làm sao người suy xét?
Bởi thế cho nên,
Thân hành, ngôn giáo,
Quyền biến, cơ tùy!
Đạo và Đời đâu nở mối phân ly?
Bỉ và thử phải vẹn tình giai kết!
Tiểu sử đã nên trang kiệt hiệt,
Thanh danh vốn thành đức Chân Nhân!
Ngửa mặt lên, nguyệt tỏ giang san,
Ngoảnh đầu lại, trí soi tình lý!
Miền giác ngạn, đâu hay hưng phế,
Cõi mê đồ, càng rõ thịnh suy!

Ôi! Giác linh ôi!
Sinh phần là đâu? nhục thể là đâu?
Tứ đại giai không; thể phách, tinh anh,
Sống, thác: bạch vân nhất phiến!
Quán quê vậy đó! thế thân vậy đó!
Ba đời hư huyễn; nhân thần, linh tánh,
Ngộ, mê: diệu tuệ sát na!
Sinh tử hề! phi vân!
Khứ lai hề! lưu thủy!
Áo nhập thế, trăng vàng tịnh thổ,
Chân ly trần, hoa trắng thanh sơn!

Hôm nay,
Cử niệm bi ai;
Đồng văn khấp điếu!
Hồn sông núi trọn tình kính mộ,
Lòng trăng sao một dạ cảm thương!
Môn đồ, đại chúng sầu vương,
Tăng Ni, Tôn đức trầm hương chí thành!
Nhìn di tượng, long lanh đáy mắt,
Trông kim quan, ruột thắt đòi cơn!
Sinh như hà, tử như thị,
Hồn phách phiêu diêu chứng giám!
Ân thùy tri, công thùy tri,
Thiên địa mang mang lạc khoản!

Đê đầu khấp điếu
Đại chúng môn đồ!
Thành kính dâng lên
Giác linh Cố Hòa thượng
Ân Sư Giới Nghiêm.
Ngưỡng nguyện Giác linh Ngài
cao đăng Phật quốc.


Đệ tử,
Bhikkhu Silaguno
(Tỳ kheo Giới Đức)


tải về 2.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   26   27   28   29   30   31   32   33   34




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương