MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN


Các trở ngại trong việc cải tiến mô hình quản trị cho DNNN



tải về 2.4 Mb.
trang12/27
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích2.4 Mb.
#15399
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   27

5.2.3.Các trở ngại trong việc cải tiến mô hình quản trị cho DNNN


Nhìn chung, quá trình tái cơ cấu khu vực DNNN từ 2011 tới nay hầu như vẫn dậm chân tại chỗ, số đầu mối đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các DNNN vẫn không thay đổi, các cơ quan đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước tiếp tục kiêm nhiệm đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước.

Trở ngại chính cho việc cải tiến mô hình quản trị DNNN theo hướng hiện đại có lẽ là nỗi e sợ mất công cụ kiểm soát ngành hoặc thị trường khi các Bộ từ bỏ chức năng bộ chủ quản. Với các địa phương, việc trả các DNNN về cho trung ương có thể dẫn đến việc mất nguồn đóng góp cho ngân sách địa phương cũng như mất đi công cụ và nguồn tài chính để thực hiện một số chính sách phát triển kinh tế và xã hội tại địa phương.

Trở ngại thứ hai là Chính phủ vẫn chưa rõ ràng được chức năng quản giám của những người đại diện trực tiếp vốn chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp và chức năng quản lý của những người điều hành doanh nghiệp nhà nước.

Đội ngũ quản lý của các DNNN cần được hưởng thu nhập tương đương với trách nhiệm quản lý của họ.



5.3. Đề xuất các giải pháp đẩy nhanh quá trình cải tiến mô hình quản trị tại các DNNN

Chính phủ cần mạnh dạn đổi mới tư duy về quản trị DNNN. Chính phủ nên thuyết phục từ bỏ chức năng đại diện quyền chủ sở hữu của các Bộ/ngành và địa phương sẽ giúp cho họ tập trung và chuyên môn hoá nhiều hơn vào việc xây dựng các chính sách quản lý và giám sát.

Chính phủ cần xây dựng và ban hành một văn bản qui định rõ ràng hai loại vị trí người quản giám là người phải vì lợi ích công và đại diện tham gia quản trị DNNN để hướng DNNN theo đuổi đúng các tôn chỉ lợi ích công; người quản lý là người được hội đồng quản trị DNNN thuê để điều hành DNNN hiệu quả theo những mục tiêu mà hội đồng quản trị đề ra./.




TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

NHÌN TỪ GIÁC ĐỘ KINH TẾ HỌC THỂ CHẾ





PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng46

TS. Lê Hồng Nhật47



Trong giai đoạn cải cách và hội nhập sâu rộng 2000 - 2010, Việt nam đã đạt được nhịp độ tăng trưởng cao, khoảng 7% năm. Quy mô nền kinh tế, đo bằng GDP thực tế, vào năm 2011 đã tăng lên gấp 4 lần so với năm 2000; đưa Việt nam thành nước có thu nhập trung bình, theo xếp hạng của WB48. Tuy nhiên, dữ liệu thống kê trong giai đoạn này cũng chỉ ra khá rõ rằng, động lực chính cho tăng trưởng trong thời kỳ này là thuần túy dựa vào tích lũy vốn. Một quy luật cơ bản trong kinh tế học là, tích lũy vốn càng cao, thì suất sinh lợi hay hiệu quả của vốn càng giảm. Khi hiệu quả vốn đầu tư giảm dần xuống zero, thì tăng trưởng bị chững lại. Mọi nổ lực tăng trưởng hơn nữa sẽ đòi hỏi phải tăng gấp bội tỷ lệ nợ trên GDP. Hoặc ngược lại, phải chấp nhận nạn trì trệ và tăng tỷ lệ thất nghiệp. Do vậy, một sự tăng trưởng lâu bền chỉ có thể dựa trên tiến bộ về tổ chức (thể chế), nhằm thu hút công nghệ làm tăng năng suất và hiệu quả. Đó cũng chính là nội hàm cơ bản của tái cơ cấu kinh tế, chủ yếu là tái cấu trúc DNNN trong giai đoạn sắp tới.

I. Đặt vấn đề

Biểu 1 dưới đây chỉ ra xu thế giảm rõ rệt của tỷ trọng DNNN trong nền kinh tế - một điều hoàn toàn ngược lại với mục tiêu ban đầu là DNNN phải đóng vai trò chủ đạo49. Mặt khác, cho dù có sự suy giảm rõ rệt về tỷ trọng, DNNN vẫn được hưởng ưu đãi rất lớn về tiếp cận vốn. Theo dữ liệu thống kê 2008, chỉ riêng 8 tập đoàn và 96 tổng công ty lớn nhất đã nắm giữ 75% tài sản cố định quốc gia, khoảng 60% tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài. Nhưng chúng chỉ tạo ra dưới 30% GDP50. Điều đó bao hàm rằng, so với các khu vực kinh tế khác, DNNN chủ yếu dựa vào tăng vốn để tăng trưởng (Biểu 2). Hệ quả là suất sinh lợi trên một đồng vốn của DNNN bị giảm xuống rất thấp theo tốc độ tăng tích lũy vốn (Biểu 3)51.




Biểu 1: Tỷ Trọng của DNNN trong khu vực công nghiệp qua một số chỉ tiêu quan trọng



Biểu 2: So sánh tích lũy vốn của DNNN với phần còn lại của khu vực công nghiệp

So với các khu vực khác, DNNN ngày càng phải sử dụng một lượng vốn lớn hơn gấp nhiều lần để tạo ra một đơn vị sản phẩm (Biểu 2). Vào năm 2000, trung bình mà nói, tỷ lệ doanh thu trên vốn (thước đo suất sinh lợi của vốn) của DNNN là 19% so với 20% của toàn bộ khu vực công nghiệp. Tới năm 2008,tỷ lệ đó của DNNN rớt xuống dưới 12%, trong khi toàn bộ khu vực công nghiệp vẫn duy trì ở mức 21% (Biểu 3). Tuy nhiên, bất chấp sự sụt giảm về hiệu quả, một số tập đoàn lớn nhất vẫn đứng đầu trong việc đóng thuế thu nhập cho ngân sách nhà nước. Nhưng ngay ở “điểm sáng” này cũng có dấu hiệu suy giảm: Năm 2000, DNNN chiếm 60% nộp ngân sách so với toàn ngành công nghiệp. Tỷ lệ đó tụt xuống chỉ còn dưới 48% vào năm 2010, theo dữ liệu thống kê52.



Biểu 3: So sánh hiệu quả của DNNN với phần còn lại của khu vực công nghiệp

Qua các dữ liệu thống kê vừa nêu, ta có thể sơ bộ rút ra một số nhận định sau:

Tập đoàn và các DNNN được lập ra nhằm thúc đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng ở những lĩnh vực then chốt, như hàng không, bưu chính – viễn thông, khai thác dầu khí. Việc hình thành những tập đoàn lớn đòi hỏi khả năng tích tụ vốn lớn, mua sắm và lắp đặt các thiết bị công nghệ cao, mà tư nhân không thể làm được. Sự hình thành các tập đoàn Nhà nước lớn ở những lĩnh vực này là đòi hỏi tự nhiên trong điều kiện Việt nam. Hơn nữa, đó là các công ty độc quyền. Chúng có thể hưởng lợi nhuận độc quyền bằng việc nâng giá, mà không cần đến tiến bộ tổ chức và công nghệ. Lợi nhuận độc quyền qua giá của các công ty này chính là nguồn thu thuộc sở hữu nhà nước, mà một phần phải được nộp vào ngân sách. Vì vậy, các tổng công ty và DNNN là một công cụ đánh thuế ẩn ngầm rất hữu hiệu. Nó bù đắp cho hệ thống đánh thuế chính thức chưa hoàn thiện, do hệ thống hạch toán, kế toán và bộ máy chống thất thu, tham nhũng, có sẵn ở các nước tiên tiến, nhưng tại Việt nam thì vẫn không thể phát triển được sau 25 năm cải cách và mở cửa. Tập đoàn và các DNNN, như vậy, phục vụ 2 mục tiêu cốt lõi: duy trì tăng trưởng và bảo đảm nguồng động viên vào ngân sách theo đúng kế hoạch.

Dĩ nhiên, công cụ đánh thuế ẩn ngầm (qua nâng giá độc quyền) và đánh thuế thu nhập rất dễ chồng lấn, khó phân biệt. Nhưng tập đoàn nào chịu sức cạnh tranh lớn hơn, đòi hỏi phải thúc đẩy tiến bộ về tổ chức để thu hút kỹ năng và công nghệ cao, tạo ra nhiều sản phẩm hấp dẫn thị trường hơn, thì tạo ra thu nhập ròng lớn hơn. Do đó, nó có xu hướng nộp thuế thu nhập cao hơn tập đoàn ít chịu áp lực thị trường để tồn tại. Ví dụ, Viettel (đứng thứ 2) vượt xa VNPT (đứng thứ 18) trong top 30 về đóng thuế thu nhập trong năm 201353. Cả hai tập đoàn đều ở cùng lĩnh vực viễn thông. Điều đó gợi ý rằng thị trường dày đặc (thick market), ở đó có nhiều tập đoàn, công ty cạnh tranh nhau, sẽ nâng cao hiệu quả và tăng nguồn thu thuế.

Như vậy, việc duy trì vị trí độc quyền của các tổng công ty và DNNN lớn không có nghĩa là tốt cho thu ngân sách. Như đã gợi ý, điều đó cũng cũng không tôt cho mục tiêu tăng trưởng lâu bền. Vấn đề là ở chỗ, mức độ độc quyền của tập đoàn hay DNNN càng cao, thì càng làm xuất hiện 2 vấn đề nam giải: (1) Lựa chọn sai (adverse selection). Vị trí độc quyền càng được củng cố, thì càng ít chịu sức ép của thị trường để tồn tại và càng có sức mạnh lobby, giành những dự án đầu tư lớn, đòi hỏi vốn vay lớn. Khi nguồn cung vốn càng khan hiếm thì chỉ còn lại những tập đoàn, tổng công ty lớn nhất, có mức độ độc quyền cao nhất, mới có thể tiếp cận số vốn lớn vay trong nước, hoặc qua ODA, hoặc qua thị trường vốn quốc tế, do Chính phủ bảo lãnh. Điều đó dẫn đến vấn đề thứ (2) Gây hậu quả nghiêm trọng (moral hazard). Mức độ tích tụ vốn quá lớn (over - investment), làm hiệu suất sinh lời trên một đồng vốn giảm. Điều đó kích thích việc làm thất thoát vốn, hoặc đầu cơ trái ngành vào các lĩnh vực sinh lãi nhanh, như bất động sản, chứng khoán. Khi cơn sốt thị trường đang lên, thì chỉ việc ngồi thu lời. Lúc thị trường suy sụp, thì phủi tay, bỏ đi. Vì đó là sự suy sụp của cả hệ thống, nên nhà nước phải đứng ra như người bảo lãnh cuối cùng. Hệ quả là tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu ở các tập đoàn lớn nhất bị tăng lên (Biểu 4). Vì vậy, tỷ lệ nợ trên GDP của toàn nền kinh tế cũng tăng.



Biểu 4: Dữ liễu tài chính của các Tập đoàn, Tổng công ty lớn nhất54

Trung bình

2006

2011

Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (Debt/Equity)

1.3

1.8




Tỷ lệ nợ trên vôn chủ sở hữu (D/E, 2011)

Số lượng Tập đoàn, Tổng công ty lớn nhất

3:1

30

5:1

18

10:1

8

Vấn đề moral hazard trong quản trị tập đoàn có một cách gọi khác là “too big to fail!”, tức là quá to nên không thể để cho sụp đổ. Nhưng tự nó lại dẫn đến “too big to bail!”, tức là nợ quá lớn, nên nhà nước không còn khả năng bảo lãnh. Tái cấu trúc Tập đoàn, tổng công ty, do vậy, là đòi hỏi khách quan. Vấn đề là làm như thế nào?

Để tiếp cận dần đến câu trả lời, phần còn lại của bài viết sẽ được tổ chức như sau: Phần II đi sâu vào việc phân tích cơ chế tập trung và huy động nguồn vốn để hình thành các tập đoàn và DNNN ở các ngành và lĩnh vực then chốt. Và chỉ ra tại sao cơ chế đó cho phép đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và tăng thu ngân sách, nhưng lại phản kích thích cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế của DNNN. Cụ thể là nền kinh tế bị mất dần lợi thế so sánh động (dynamic comparative advantage); khiến Việt nam dễ bị tổn thương nặng nề bởi suy thoái kinh tế Thế giới55. Phần III đưa ra những gợi ý về tái cấu trúc DNNN. Bao gồm việc thiết lập dần thể chế quản lý giám sát có hiệu quả vốn đầu tư và hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty, nhằm tăng lợi thế so sánh động trong một thế giới toàn cầu hóa. Phần IV kết luận bài viết.



  1. Cơ chế tập trung vốn và đầu tư cho Tập đoàn và DNNN

Trong giai đoạn tăng trưởng nhanh 2000 - 2010, rất nhiều dự án lớn về hạ tầng, như điện năng, giao thông - vận tải, và khai thác dầu khí, gia công, lắp ráp xuất khẩu, phải được triển khai. Vốn được rót cho các dự án này thông qua 2 kênh chính: chi ngân sách cho đầu tư; và qua tín dụng ưu đãi từ các ngân hàng chuyên dụng, như BIDV, Vietinbank, Agribank, Eximbank. Nguồn vốn chính phủ và các khoản tín dụng ưu đãi được tập trung vào chỉ một số ít Tập đoàn và Tổng công ty lớn nhất, mà chúng có chức năng triển khai các dự án lớn, tạo đà cho tăng trưởng và xuất khẩu. Nhịp độ tăng trưởng càng cao, thì số lượng dự án cần triển khai càng lớn, dẫn đến bội chi ngân sách. Điều đó buộc Ngân hàng TW phải tăng cung tiền tệ bù đắp bội chi, gây nên lạm phát. Như vậy, nhịp độ tăng trưởng, tỷ lệ bội chi Ngân sách, và lạm phát là 3 biến lượng vĩ mô cơ bản, mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như Bộ Tài chính và Ngân hàng TW phải luôn kiểm soát chặt chẽ trong giai đoạn cất cánh. Vào giai đoạn 2000 – 2005, khi các Tập đoàn và DNNN đang đóng góp tới gần 60% GDP, Nhà nước có thể ép nhịp độ tăng trưởng cao, thông qua việc bơm mạnh vốn vào khu vực này. Như đã nêu, các Tập đoàn, Tổng công ty là các tổ chức độc quyền, thuộc sở hữu Nhà nước. Sự tăng trưởng nhanh về doanh số của chúng tạo ra khoản thuế thu nhập cao cho Ngân sách, góp phần giảm áp lực lạm phát. Khi nhịp độ tăng trưởng được duy trì ở mức cao bội chi ngân sách, lạm phát, được kiểm soát, thì không ai thấy mô hình tăng trưởng dựa trên tăng tích lũy vốn vào các Tập đoàn và DNNN là có điều gì bất cập. Hành động dựa trên niềm tin như vậy, mức độ tích tụ vốn ngày càng lớn hơn. Số lượng dự án đầu tư và số tập đoàn cũng nhiều hơn. Trong khi đó, quy luật về suất sinh lợi giảm dần theo quy mô vẫn âm thầm phát triển lên. Nó như một cái phanh vô hình, hãm dần đà tăng thu nhập ròng, hiệu quả và năng suất của các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước. Khuynh hướng đó trở nên đặc biệt rõ rệt vào sau năm 2004, khi có sự giảm đột ngột về doanh thu ròng / vốn tài sản cố định tại các DNNN, như đã chỉ ra ở Biểu 3. Điều đó kéo theo yêu cầu phải cải cách hơn nữa theo hướng thị trường.

Năm 2005 đánh dấu bởi việc bùng nổ của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, kéo dài tới năm 2008 thì thị trường chứng khoán đột ngột suy sụp. Và đến năm 2012 thì bóng bóng bất động sản cũng bị vỡ. Ít ai nhìn thấy sự biến động của 2 thị trường tài chính mới nổi này có mối liên hệ thế nào với cải cách DNNN theo hướng tăng quyền tự chủ lớn hơn, được ghi thành Luật DNNN 2005. Điểm nổi bật theo Luật này là các Tập đoàn, Tổng công ty vẫn hưởng ưu đãi trong việc tiếp cận vốn tín dụng và vốn vay nước ngoài, như ODA. Nhưng nay chúng có quyền tự chủ rất lớn trong việc ra quyết định kinh doanh, liên kết với khu vực kinh tế ngoài nhà nước, cũng như quyền huy động vốn trên thị trường chứng khoán.

Một đặc trưng cơ bản của việc hình thành một loạt các Tập đoàn lớn ở các ngành và lĩnh vực then chốt nhất của nền kinh tế là mối quan hệ cân đối liên ngành. Để một tập đoàn sản xuất được, thì nó phải sử dụng sản phẩm của các tập đoàn khác như nhập lượng ngược lại. Ví dụ, Tập đoàn điện lực (EVN) phải sử dụng sản phẩm của Tập đoàn than - khoáng sản (VINACOMIN) hoặc dầu khí của (Petro Vietnam) ngược lại. Trong mối quan hệ liên ngành này, Ngân hàng cấp tín dụng cho bên sản xuất, để chuyển cho bên cung ứng nhập lượng, và doanh thu được chuyển ngược trở lại Ngân hàng để thanh toán tín dụng, hoặc giữ trong tài khoản của công ty, hoặc trích nộp vào ngân sách qua thuế. Thông qua việc cấp vốn ngân sách, tín dụng, cũng như quản lý các dòng thanh toán nợ và nộp thuế, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, phối hợp với Bộ Tài chính và hệ thống Ngân hàng có khả năng chi phối khá lớn đến kế hoạch sản xuất của các tập đoàn, cũng như định hướng dòng chảy của các sản phẩm, nhằm duy trì cân đối liên ngành. Quyết định giao quyền tự chủ kinh doanh cho các DNNN theo Luật doanh nghiệp 2015 về cơ bản đặt dấu chấm hết cho sự can thiệp trực tiếp của các Bộ chủ quản vào hoạt động kinh doanh của các Tập đoàn và DNNN. Từ nay, họ có quyền tự ký hợp đồng với doanh nghiệp khác, kể cả ở khu vực ngoài Nhà nước hoặc xuất khẩu. Đối mặt với quy luật về suất sinh lợi giảm dần theo mức độ tích tụ vốn, từng Tập đoàn và DNNN thấy các cơ hội kinh doanh khác, bên ngoài khu vực Nhà nước hay xuất khẩu, trở nên hấp dẫn hơn. Vì vậy, họ có xu hướng lái dòng chảy vốn và giao dịch sản phẩm ra bên ngoài, nơi có suất sinh lãi hoặc doanh thu cao hơn. Nhưng nếu công ty khai thác than xuất khẩu than ngoài kế hoạch thay vì cung cấp đủ đầu vào cho công ty điện để sản xuất điện theo kế hoạch, thì sản lượng điện phải thấp đi. Vì vậy, sản lượng điện cung cấp cho việc khai thác than hoặc lọc dầu cũng bị thấp xuống, kéo theo sự sụt giảm sản lượng ở cả hai ngành này.

Cần nhấn mạnh là khu vực tư nhân hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực, mà thị trường với nhiều người mua - người bán xuất hiện một cách tự phát. Vì vậy, nó cạnh tranh hơn nhiều so với khu vực Nhà nước. Thêm vào đó, khu vực doanh nghiệp FDI sử dụng chủ yếu lao động rẻ để gia công, lắp ráp linh kiện; rồi xuất khẩu thông qua chuỗi cung ứng toàn cầu của các công ty xuyên quốc gia. Nên chúng cũng hoạt động trên một thị trường quốc tế rất cạnh tranh. Xu hướng giảm hiệu quả theo quy mô ở các Tập đoàn và DNNN, cộng với việc tăng quyền tự chủ của chúng khiến vốn, lao động, tài sản, hàng hóa chảy nhiều hơn vào khu vực ngoài nhà nước. Do vậy, tỷ trọng của khu vực Nhà nước ngày càng giảm dần, như đã chỉ ra ở Biểu đồ 1.

Có lẽ đây không phải là một xu thế bất lợi, nếu như khu vực tư nhân không phải đối mặt với quy luật hiệu quả giảm dần theo sự tăng quy mô (diminishing return to scale). Vì vậy, việc tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng bằng cách bơm hơn nữa vốn vay trong và ngoài nước vào các ngành sản xuất đã dẫn đến động cơ đầu cơ, làm nóng rất nhanh thị trường chứng khoán. Tiếp đó, thị trường nhà đất cũng nóng lên, khi nguồn lợi lớn từ sốt chứng khoán (capital gain) đi săn lùng một diện tích đất rất giới hạn để phát triển địa ốc. Hạ tầng càng ít phát triển (phí xây dựng cầu đường quá cao, hạ tầng xuống cấp quá nhanh, thiếu điện, nước, bệnh viện, trường học tốt), thì thị trường địa ốc càng nóng vì càng thiếu quỹ đất để xây nhà ở các Đô thị lớn.

Tăng trưởng dựa vào tăng tích lũy vốn cộng với tăng quyền tự chủ cho DNNN, nhưng buông lỏng chức năng giám sát việc phân bổ và sử dụng vốn, dẫn đến ba hệ quả nghiêm trọng:

Thứ nhất, không có sự gắn kết quyền hạn với trách nhiệm. Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng TW nắm quyền phân bổ các nguồn vốn chiến lược của quốc gia. Nhưng các tập đoàn mới nắm quyền kiểm soát (control right) việc sử dụng nguồn vốn đó. Tập đoàn hiểu rõ hơn các cơ quan Bộ về cơ hội hay rủi ro về thị trường và công nghệ, mà chúng xác định sự thành bại của dự án đầu tư. Điều đó đẩy các Bộ vào thế bất lợi về thông tin khi quyết định dự án nào nên được rót vốn. Vì vậy, bất cứ DNNN nào cũng có xu hướng thổi phồng cơ hội, giấu giếm rủi ro, đi kèm với lobby để tiếp cận được nguồn lực hiếm, như nguồn vốn lớn đi vay. Doanh nghiệp càng bỏ sức và tiền của vào nghiên cứu, nắm bắt cơ hội thị trường, đổi mới công nghệ và kỹ năng cho phù hợp với đòi hỏi thị trường, thì càng có ít nguồn lực và thời gian cho lobby. Ở trường hợp xấu nhất, chỉ còn các dự án rủi ro nhất, công nghệ lạc hậu nhất, nhưng được lobby mạnh nhất sẽ được lựa chọn (adverse selection). (Ví dụ như việc mua ụ nổi của Vinalines, mà chỉ sau việc tái cấu trúc nó, thì vụ việc mới được đưa ra ánh sáng). Nếu xem lobby là một hình thức “mua quyền” thì có nghĩa là chúng ta đã chấp nhận rằng, quyền tạo ra lợi tức (rent). Việc đua nhau săn lùng lợi tức đó (rent seeking) tạo ra thị trường mua và bán quyền, mà nó gắn bó lợi ích của người mua và người bán với nhau, tạo nên cái gọi là nhóm lợi ích (vested interest group)56. Hành động dựa trên niềm tin rằng, nhóm lợi ích là một thực thể, cá nhân doanh nghiệp nhận được vốn đầu tư có thể lái dòng vốn đó vào những hoạt động đem lại lợi ích cá nhân; và làm tăng rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (moral hazard). Khi sự việc trót lọt, thì không ai thấy niềm tin của mình là sai. Nhóm lợi ích đúng là đã tồn tại như một thực thể, dù là bất thành văn (không được ghi vào Luật). Nó đã trở thành một thể chế định hướng hành vi của từng cá nhân57. Vì là thể chế, nó tồn tại một cách vững chãi. Khi nền kinh tế càng dễ bị tổn thương bởi các cú sốc bên ngoài, thì kinh doanh càng khó phục hồi và phát triển. Nhưng thể chế tạo ra sự tổn thương đó không dễ thay đổi một sớm một chiều. Tái cấu trúc DNNN, do vậy, đòi hỏi phải có thời gian, có định hướng đúng, và có lộ trình.

Thứ hai, xu thế suy giảm lợi thế so sánh động của nền kinh tế. Việc tăng quyền tự chủ, nhưng buông lỏng cơ chế giám sát sử dụng vốn đầu tư, khiến cho dự án càng mạo hiểm, thì càng dễ được cấp vốn (adverse selection); và dòng vốn càng dễ bị lái vào hoạt động đầu cơ trên thị trường chứng khoán mới nổi (moral hazard). Việc ra luật DNNN 2005 và sự bùng nổ của thị trường Chứng khoán Việt Nam vào cùng năm đó, có thể không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên; mà là hệ quả trực tiếp của 2 vấn đề nêu trên (adverse selection and moral hazard). Khi mà tỷ lệ giá cổ phiếu trên cổ tức (price – dividend ratio) càng tăng, thì càng nhiều tiền đổ vào bất động sản, làm giá đất, và do đó, giá của khu vực không thương mại được (non-tradabble sector) tăng theo. Điều này có nghĩa là, thu nhập trung bình tăng nhanh ở các đô thị lớn; và tăng nhanh hơn nhiều ở nhóm dân cư có thu nhập cao nhất. Tốc độ tăng thu nhập ở đô thị bị đẩy lên theo độ nóng của thị trường Chứng khoán và thị trường địa ốc, khiến cho giá của các hàng hóa thương mại được (tradable good) bị đẩy lên cao hơn mức giá thế giới. Từ giá của giầy adidas, quần áo cao cấp, cho đến xe hơi. Nói khác đi, cầu về nhập khẩu hàng cao cấp tăng, khiến nhập siêu tăng vọt, từ 13,5% vào năm 2005 lên 28,7% vào năm 2008. Tình hình chỉ được cải thiện, khi thị trường chứng khoán bắt đầu điều chỉnh vào năm 2008, khi dòng vốn ngắn hạn bị rút mạnh ra khỏi nền kinh tế, sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, đồng tiền Việt bị yếu đi nhiều so với dollar Mỹ. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2005 – 2011, đồng nội tệ Việt nam đã bị mất đi khoảng gần 1/4 giá trị so với đồng dollar Mỹ58. Đó là thước đo rõ nhất của sự thụt lùi về lợi thế so sánh động, gây nên bởi cơn sốt chứng khoán – bất động sản, đi kèm với sự giảm sút hiệu quả của DNNN59. Quá trình đó bị che mờ đi bởi trì trệ kinh tế, từ sau 2012; nhưng không có nghĩa là tình hình đã được cải thiện.

Thứ ba, khu vực DNNN rất dễ bị tổn thương bởi cú sốc từ nền kinh tế thế giới. Lợi thế so sánh động có một hàm ý rất cụ thể tới chiến lược đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Vốn, công nghệ, kỹ năng tổ chức công nghiệp hiện đại chỉ tìm đến nơi nào có lợi thế so sánh động cao hơn, so với “chính quốc”. Toyota, Apple, cho đến Adidas, hay bất cứ công ty xuyên quốc gia nào, cũng chỉ chọn việc đặt nhà máy sản xuất linh kiện (intermediate good) tại nơi, mà tốc độ tăng năng suất nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương.

Nhưng ở Việt Nam lại đang diễn ra một xu thế ngược lại: nhịp độ tăng lương quá cao cho việc thuê các nhà quản lý, kỹ sư, hay công nhân lành nghề đến làm việc ở nơi sở tại; tốc độ giảm hiệu quả đầu tư lại quá nhanh, nếu muốn sản xuất các linh kiện phụ trợ cho xe hơi hay giày adidas. Nhưng nếu thấy trước như vậy, thì không một công ty xuyên quốc gia nào lại sản xuất linh kiện phụ trợ tại Việt Nam, mà sẽ nhập khẩu chúng từ nơi khác, có lợi thế so sánh động cao hơn, ví dụ từ Thái Lan, Indonesia, hay Trung Quốc. Việt Nam chỉ còn một lựa chọn: nhập khẩu (gần như tới hơn 80% phụ kiện, ngay ở ngành dệt may)60; và dùng lao động rẻ để lắp ráp lại thành sản phẩm cuối cùng. Nói khác đi, Việt Nam chỉ có thể tham gia vào phân khúc thấp nhất của chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu; nơi mình có lợi thế so sánh tĩnh là nhân công rẻ.

Ở các ngành công nghệ cao, như đóng tàu, điện lực, hóa chất, lọc dầu, sự lệ thuộc vào nhà cung ứng linh kiện từ nước ngoài có thể còn nghiêm trọng hơn. Do đó, các ngành công nghiệp này rất dễ bị tổn thương bởi suy thoái kinh tế hay bất ổn địa chính trị. Để thấy rõ, hãy xét ví dụ của Vinashin. Do trình tự lắp ráp, mỗi nhà cung ứng nước ngoài phải sản xuất theo đơn đặt hàng, trước khi biết liệu sản xuất tầu ở Vinashin có diễn ra hay không (Việc lắp ráp của Vinashin đứng ở khâu cuối cùng của quy trình sản xuất). Nếu vì lý do nào đó, một số khách hàng của Vinashin hủy hợp đồng đóng tầu, thì chi phí trung bình cho việc đóng tầu sẽ bị đẩy lên. Vì vậy, Vinashin phải ép giá các nhà cung ứng linh kiện xuống. Có thể tới mức không đủ lời cho họ sản xuất ra linh kiện để giao nộp cho Vinashin. Nhìn trước như vậy, nhà cung ứng sẽ ngừng sản xuất và hủy hợp đồng giao linh kiện cho Vinashin ngay khi rủi ro ép giá xuất hiện. Để hình dung rõ hơn, nếu gọi p là xác suất nhà cung ứng tiếp tục thực hiện hợp đồng sản xuất và giao linh kiện cho Vinashin; và n là số lượng các nhà cung ứng. Khi đó, là xác suất Vinashin đươc cung cấp đầy đủ linh kiện phải nhập khẩu. Khả năng nhà cung ứng linh kiện bị ép giá càng cao, thì xác suất họ tiếp tục cung hàng, p, càng nhỏ. Và nếu số lượng nhà cung ứng linh kiện càng lớn, thì dĩ nhiên n càng lớn. Vì vậy, xác suất để Vinashin tiếp tục hoạt động là có thể gần bằng zero, nếu n đủ lớn. Do đó, chỉ cần một số lượng khá nhỏ hợp đồng đóng tầu bị hủy bỏ, thì cũng đã đủ để làm Vinashin đột ngột ngừng hoạt động.

Dĩ nhiên 80% linh kiện phải nhập ngoại là rất lớn và hết sức rủi ro cho các tập đoàn. Vấn đề chưa dừng lại ở đó. Do quan hệ cân đối liên ngành, Nếu Vinashin đột ngột ngừng hoạt động thì Vinalines cũng sụp theo, và ngược lại. Cũng vậy, nếu Tổng công ty Sông Đà cắt giảm quy mô, do vỡ bong bóng thị trường nhà đất, thì HUD cũng phải ra đi cùng.



Tập đoàn Điện lực, EVN và các Tổng công ty xây dựng hạ tầng, như VINAWACO và Saigon Construction, lại là một tình huống đáng chú ý khác. Cũng như Vinashin, các Tập đoàn, Tổng công ty này sử dụng nguồn vốn rất lớn của chính phủ và vốn đi vay để phát triển hạ tầng về năng lượng, sân bay, cảng biển, đường giao thông, và khu đô thị mới. Cũng giống Vinashin, các dự án của chúng phụ thuộc vào một số lượng lớn các nhà cung ứng thiết bị, linh kiện trên khắp Thế giới. Nhưng khác với Vinashin, dù thua lỗ, chúng vẫn không thể bị giải thể. Nếu Nhà nước hành động giống như các khách hàng của Vinashin, tức là hủy một số dự án kém hiệu quả nhất, khi phải đối mặt với suy thoái; thì cũng giống như Vinashin, EVN hay VINAWACO có lẽ đã bị sụp rồi. Các nhà cung ứng linh kiện nước ngoài sẽ xem hành vi đó của Chính phủ như là tín hiệu họ sẽ bị ép giá. Và hành động theo niềm tin đó, họ sẽ dừng cung cấp vật tư, thiết bị cho EVN hay VINAWACO, làm hoạt động xây dựng của chúng bị dừng lại ngay. Trên thực tế, nhiều dự án vẫn bị dừng hoặc làm dở dang; trong khi EVN và VINAWACO thì bị thua lỗ. Tức là, thua lỗ để đánh đổi cho sự sụp đổ hoàn toàn như Vinashin. Nhưng tình trạng các dự án hạ tầng, khu đô thị mới bị bỏ dở, gây lãng phí, thất thoát rất lớn, mà không ai bị quy trách nhiệm. Điều đó kích thích động cơ gây hậu quả nghiêm trọng (moral hazard). EVN hay VINAWACO vẫn tồn tại (vì không thể thiếu chúng được). Nhưng tỷ lệ hạ tầng, đô thị mới bị bỏ dở, hoặc bị xuống cấp nhanh chóng, có thể sẽ tăng lên, nếu không có cải cách quyết liệt về thể chế giám sát đầu tư công. Với các công ty này, cần phải áp đặt chính sách đấu thầu theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo hướng đó, chất lượng và thời hạn hoàn thành dự án phải tuân thủ đúng chuẩn mực quốc tế; hoặc công ty thực hiện dự án sẽ phải chịu phạt rất nặng. Tất nhiên, Nhà nước không thể tự phạt chính mình. Nhưng Bộ chủ quản có quyền bãi miễn người đứng đầu, nếu dự án do họ quản lý hoàn thành không đúng tiến độ hoặc không đạt chuẩn mực về chất lượng. Bộ chủ quản cũng có quyền mời các nhà thầu nước ngoài vào đấu thầu thực hiện dự án; mà họ sẽ buộc phải chịu phạt nặng theo đúng chuẩn mực quốc tế, nếu để xẩy ra sự cố. Điều này gợi ý rằng, Nhà nước cần phải buộc các Tập đoàn và Tổng công ty lớn phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế; và người đứng đầu phải chịu trách nhiệm cá nhân, nếu tổ chức do họ quản lý đã để xẩy ra hậu quả nghiêm trọng61. Những bước đi về cải cách quản trị tập đoàn theo hướng như vậy đang manh nha ở Việt nam; nên cần phải làm mạnh, và làm quyết liệt.

Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 2.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương