Mục Lục Người em Xóm Học – 2 Hãy nằm im nghe … – Cổ Ngư – 18 Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi – 25 Ba điều về Kiệt Tấn – Nguyễn Văn Lục – 33 Phụ đính



tải về 0.99 Mb.
trang2/7
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích0.99 Mb.
#38872
1   2   3   4   5   6   7

Cổ Ngư

Tôi không nhớ rõ đã liên lạc với nhà văn Kiệt Tấn từ lúc nào, nhân chuyện gì. Hình như bắt đầu bằng điện thoại. Ông gọi cho tôi trước, hay ngược lại, cũng quên tuốt luốt! Chắc vì cái mốc khởi đầu ấy, với tôi, không phải là một sự kiện cực kỳ quan trọng, bắt người ta phải ghi nhớ, để sau đó một năm, năm năm, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, một trăm năm sau, lại lôi ra làm sinh nhật, tưởng niệm, dựng bia, đặt tượng, vỗ tay hay nhỏ lệ. Tôi kinh ngạc, rồi quen dần với cách nói chuyện qua điện thoại của ông, giọng miền Nam lề nhề, lâu lâu lại bị ngắt quãng rồi được tiếp tục bằng một tiếng toóc rất ư gợi cảm! Ông vừa gọi phone, vừa uống, vừa say. Và tôi ngồi ở đầu dây bên này, loay hoay tìm cách giải mã những điều ông đang nói. Nói chuyện điện thoại đâu đôi ba lần, rồi cũng được dịp gặp mặt. Nhìn dáng ông xách cái túi nhựa của siêu thị Tang Frères đứng xớ rớ chờ vợ đi chợ trong khu tam giác vàng Chinatown của quận 13 Paris hay hì hụi kéo một xe đầy sách lên cho Thư viện Diên Hồng, tôi không nghĩ đó là một Kiệt điên vì mê, cuồng vì yêu từ thời "Bến đò trao thơ", "Đêm cỏ tuyết", qua "Người em xóm học", "Yêu em xứ tuyết" cho đến "Sáng dậy nghe em khóc", một chàng playboy bảnh toỏng chạy quanh nhiều cuộc tình với những Hoa, Tuyết, Ánh, Diane, Louise, Danyèle, Hường... Tôi hình dung ra một Út Kiệt với bộ bà ba trắng lụa lèo thong dong giữa ruộng vườn bát ngát miền nam. Vĩnh Long, Bạc Liêu, Mỹ Tho, có phải là những nơi ấy không? Vậy mà ông đứng đó, cũng như tôi, với chiếc parka dày sụ, cổ quấn mấy vòng khăn quàng, rồi nón, rồi găng, giữa gió lạnh đất Pháp. Mấy chục năm sống nơi xứ người, từ thời du học cho đến ngày "xin nhận nơi này làm quê hương bất đắc dĩ", với vóc đậm, mặt vuông, Kiệt Tấn vẫn giữ nguyên cho mình dáng vẻ chân chất của người đồng bằng sông Tiền sông Hậu, dường như lúc nào cũng sẵn sàng ngả ra mời: dzô một ly, rồi xuống sáu câu vọng cổ thiệt mùi. Vậy mà...

Thuở nhỏ, tôi có dịp sống khoảng bốn năm ở Thủ Đức. Cho đến bây giờ, tôi biết, đó vẫn là những tháng năm tôi được gần gũi nhất với thiên nhiên, dù cái khoảng thiên nhiên thời thơ bé đó chỉ gồm một vuông sân trước với ba tàng trứng cá, một hàng rào dâm bụt đơn đỏ hồng, một dãy dâm bụt kép đủ màu, vài cây sứ cùi, và một mảnh vườn sau đủ rộng để có chuồng gà chuồng vịt, ao thả rau muống và cá rô, một cây ổi, một cây mít, một cây chanh, một cây phượng, bụi xả, bụi chuối, mấy thân đu đủ khẳng khiu đeo nặng trái. Nhưng cho một đứa trẻ ở những năm đầu tiểu học, đó đã là khoảng sân chơi khổng lồ, với cả một microcosmos - vũ trụ vi mô - phất phới nhiều cánh bướm muôn màu, chuồn chuồn hổ, chuồn ớt, chuồn kim, chuồn voi, lúc nhúc nào dế than, dế lửa, dế cơm, dế trũi, cào cào, châu chấu, sè sành, bọ ngựa, bọ cam, bọ sít, ốc sên, ốc ma, sâu róm, kiến đen, kiến lửa, nòng nọc, thằn lằn, kỳ nhông, đôi khi lạc loài cả một trự cóc xù xì hay vệt nhái bén xanh mướt vút xuống ao. Cùng với những đứa bạn đồng lứa, chúng tôi chơi trong thiên nhiên, chơi cùng thiên nhiên. Thấm nước miếng vào trái đậu nổ, quơ gót chân trên đám lá mắc cỡ, xách thùng đổ nước đầy hang dế cơm, hay để một chàng kiến tướng đen trùi trũi banh ngàm đọ sức với gã kiến lửa có cái đầu to bằng hạt mè, bóng láng, đỏ lựng, nhìn phát nể! Thiên nhiên thơm mẻ cá rô chiên dòn rụm, hăng mùi lá chanh non mới hái hay nồng nàn khắp vườn ngày mít căng, da nứt. Thiên nhiên chiêm chiếp mở tròn con mắt nhìn đời sau cú khẻ mỏ quyết định của từng lứa gà, lứa vịt hay nhỏn nhẻn ngon lành cùng chiếc răng thỏ cắn ngập vào thân xanh càng cua tròn mướt... Đùng một cái, gia đình dọn về Sài Gòn, còn tôi ngơ ngác như đàn bò vào thành phố[1]. Khu Đakao. Cầu Bông, cầu Sắt với con kinh đen kịt bùn. Ngôi chợ ồn ào quà bánh. Căn nhà thiếu ánh sáng, không cửa sổ, chỉ có những khoảng trổ phiá trước phiá sau, vừa đủ để hứng khí trời, để thấy một khoảnh xanh trên cao và mái ngói đỏ xỉn màu rêu của nhà hàng xóm. Phiá trước cũng có sân. Tráng đặc xi-măng. Phiá trước cũng có cây. Thân bông giấy leo, gai tua tủa, cứng ngắc. Tôi mất thiên nhiên. Vùng vằng đi tìm. Con gà nhép, con vịt lụa nuôi trong lồng chúc mỏ vào ăn trong lòng bàn tay tôi, rồi cũng chết vì thiếu hơi mẹ. Con nhen mua ở Chợ Cũ, loài sóc nhỏ có vằn đen trắng dọc sống lưng, nâng lát chuối cắt bằng hai tay nhỏ xíu, rồi cũng chết trong lồng vì nhớ rừng. Thành phố, căn nhà cùng với nhựa đường, xi măng, gạch ngói chung quanh đã biến thành chiếc chuồng khổng lồ, nhốt tôi trong đó, rồi vô tình, tôi lại bắt chước người lớn, nhốt những con vật đáng thương vào chiếc lồng nhỏ hơn. Và chúng chết. Nhưng chỉ thêm vài năm sau nữa thôi, là đến 1975. Tháng tư. Cùng với những tan loạn, đau thương của người lớn, thêm một lần nữa, tôi mất: tuổi thơ.

Không thể nào tìm lại được tuổi thơ trong thời khốn khó, tôi cố vớt vát thiên nhiên bằng cách thỉnh thoảng chui vào sở thú, lang thang trong vườn Tao Đàn hay ngồi hàng giờ bên thành hồ ngôi chùa Tàu thờ Ngọc Hoàng ở gần nhà, nhìn vài đầu rùa nhấp nhô chìm nổi trên mặt nước sóng sánh những đốm nắng hiếm hoi lọt được qua mấy tàng cây vú sữa rậm lá. Tôi đi tìm lại cái microcosmos của mình qua bước chân phiêu lưu của chàng dế mèn trong truyện Tô Hoài. Tôi mơ về một thiên nhiên hoang dã còn vắng bóng người với "Hương rừng Cà Mau" của Sơn Nam. Rồi khi qua đến Pháp, tôi gặp Kiệt Tấn. Và tôi thấy mình gần với ông hơn so với Tô Hoài hay Sơn Nam. Ngồi trong métro, tôi chảy nước mắt khi đọc:



... Bên bờ giếng, tôi dành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm... Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng. [2]

Thằng bé-tôi lúc sáu tuổi không có được cái tâm bồ tát như thằng bé Kiệt lúc sáu tuổi, và những con nhen, con gà nhép, con vịt lụa chết trong lồng bị vứt vào thùng rác, đổ đi. Mảnh sân thành phố đặc cứng xi măng, làm gì có đất để đào mà chôn với cất, mặc dù con vịt lụa tôi nuôi có khác gì lắm so với em vịt vàng của Út Kiệt:



... Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó giương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê. Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kép!... Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.

Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! Lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại...

Cái tình của tôi đối với những con vật nuôi chỉ dừng lại ở những giọt nước mắt tuổi thơ, ở cái bần thần suốt tuần, ở việc bỏ cơm một buổi, nhưng với Kiệt thì khác, cái đau xé lòng hơn nhiều:



... Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông vàng mịn không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng "chét" thảm thương bên tai, thôi rồi! Chết em tôi rồi, tôi ngã quỵ xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!... Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng "chét! chét! " thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà, ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình... Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng xiết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Em đã chết, bỏ tôi thiệt rồi!...

Em vịt vàng chết vào những ngày giáp Tết, nên chú bé Kiệt, dù giờ đây đã thành ông nội, ông ngoại, vẫn rưng rưng nhớ về mỗi khi xuân đến:

... Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.

Và năm nay đào lại nở!

Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.

Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu quấn quít sông ngòi đặc ngừ tôm cá...

Rồi cũng có dịp đến thăm nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng, chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt. Căn appartement chênh vênh nơi từng mười lăm một cao ốc. Có cả em vịt vàng ở đó nữa. Nhưng chỉ là một mẫu vịt nhồi bông đứng cứng đơ tội nghiệp bên một hàng gáy sách. Nhà của một người viết văn có nhiều sách. Dĩ nhiên, sách xếp dài trên kệ, ngăn nắp. Nhưng bên cạnh, còn rất nhiều cây, lá xanh tươi, mướt bóng. Một chút không gian nhiệt đới? Một chút không gian đồng bằng sông Cửu Long? Ai mà chẳng thèm, cái một-chút-mà-thật-khó-tìm ở nơi chốn này, phải không? Trong khi người lớn bắt đầu ăn uống, bắt đầu nói chuyện văn chương, chuyện nắng mưa, chuyện trên trời dưới đất, thằng con hai tuổi rưỡi của tôi, đứa con nít duy nhất trong buổi gặp mặt, lẩn thẩn chơi một mình. Như con chó nhỏ đi đánh hơi từng góc kẹt căn phòng lạ, thằng bé lang thang chỗ này chỗ kia, cầm lên đặt xuống những con thú bắt gặp đây đó trên con đường khám phá. Lâu lâu, thằng bé chạy lại há mồm xin miếng cơm, rồi trở về góc của nó. Có lúc, khi xin cơm, nó cầm theo một con vật, giơ cao hỏi chúng tôi: "Con gì đây bố? Con gì đây mẹ?". Tôi phải đe trước: "Con đừng làm hư mấy con thú nhe, coi chừng ông rầy!", rồi mới trả lời nó, này là con trâu, kia là đàn heo, nọ là gà trống, gà mái, gà con. Ở cái tuổi nhỏ xíu của nó, thằng bé cũng đã thấy voi và hươu cao cổ trong sở thú, thấy vịt gà ngan ngỗng, bò dê lừa ngựa, heo cừu thỏ... chuột ở trang trại gần nhà, nhưng tại những nơi đó, nó chỉ được đứng xa xa để ngó qua chấn song chuồng, chứ làm gì được đưa tay sờ mó như ở nhà ông Kiệt! Tôi nhìn quanh, và chợt hiểu, người đàn ông ngồi trước mặt cũng đang rất thiếu thiên nhiên, đang rất thèm thiên nhiên. Ông đang bị nhốt trong một chiếc lồng chật hẹp, và có phải luôn vùng vằng muốn tìm cách thoát ra, bằng thật nhiều những chậu cây xanh lá, bằng thật nhiều những con thú ẩn hiện góc này xó nọ quanh nhà? Con trâu bằng đất nung phủ verni bóng loáng kia, có phải đã gợi lại một hình ảnh cũ:



... Nhà ông Đương có được cặp trâu cổ khoẻ mạnh, mình mẩy phình lớn đen xám, lông thưa đều cứng mướt, cặp sừng cong dài quớt ra hai bên cách nhau ngót một thước bề rộng, dọc trên thân sừng có nhiều ngấn dợn hũng. Dáng trâu bậm trợn hùng dũng như vậy mà cặp mắt trâu, trái lại, hiền lành ưu ái vô cùng, lông mi trên mí mắt mọc đan khít nhau càng tô điểm cho ánh nhìn của mắt trâu thêm dịu dàng. Theo truyền thuyết, trâu là hiện thân của một vị Bồ tát hạ thế để tế độ cho nhân gian có lúa gạo mà ăn. Cấy cầy vốn việc nông gia, ta đây trâu đó ai mà quản công. Bao giờ ngọn lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Đại để tánh trâu rất hiền lành chậm chạp, tuy nhiên thỉnh thoảng cũng có lúc trâu nổi máu hung hăng và cụng húc nhau ầm ĩ. Những lúc đó, không một ai can nổi, lạng quạng có thể bị sừng trâu vít lòi ruột như chơi. Vì vậy, chú Tám dặn hai đứa cháu mình một mẹo nhỏ là lúc nào đi chăn trâu cũng nên thủ sẵn trong người một khúc sừng trâu gãy. Khi nào trâu cụng nhau hăng quá thì liệng khúc sừng đó vào giữa hai đối thủ. Trâu nọ ngó trâu kia, thấy cặp sừng còn nguyên vẹn, tưởng đâu sừng gãy nằm dưới đất là của mình, bèn bỏ chạy. Cuộc đấu sức đọ sừng chấm dứt.

Xóm gà vịt lít nhít nọ, có phải đã gây hứng để ông nhớ về những hình ảnh sống động độc nhất vô nhị của một gã vịt cuồng dâm:


Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhằm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu dạt ra, mà rồi cũng không tởn. Ngay cả con heo thiến má tôi nuôi trong chuồng cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí, ai dè Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi: bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: "Gặp tao, tao cũng rỉa nữa... huống hồ là con vịt! "

Mãi về sau này, dung rủi lần nọ, khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại Bàng còn hừng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành Dâm Khúc mà quên thu hồi báu kiếm. Xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy, tưởng là mồi bở, trồi lên đớp mất. Thế là... tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà, cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là bạo chúa đã xuống tóc đi tu?) Kể từ đó, thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.

Un clin d'oeil, bất ngờ có thể gây bật cười với những tình huống ngộ nghĩnh, được kể lại bằng một giọng văn không kém phần dí dỏm. Loài vật như biết khóc, biết cười, biết thương, biết hận trong văn Kiệt Tấn. Đôi khi, chúng còn được ngòi bút Kiệt Tấn đẩy lên cùng với nhiều hành trạng lạ lùng, quái gở:

... Cái hiện tượng kỳ bí dị thường này cứ thỉnh thoảng lại thấy xảy ra ở đồng quê vào những đêm trăng rằm, ngoài ruộng vắng. Như thể cả lươn lẫn rắn đều say rượu trăng và bầy lươn vừa chếnh choáng vừa bị thôi miên lờ đờ tự động bò lên bờ lểnh nghểnh để tình nguyện nộp mình cho rắn nuốt. Cũng không rõ bằng cách nào mà cả hai lũ đều biết được nơi hẹn hò để lướt tới. Đầy cả một mương dài lúc nhúc toàn những rắn và lươn quấn lấy nhau vặn vẹo uốn éo, thân nhớt và vảy mun lấp loáng rờn rợn dưới trăng sáng. Cả hai loài bò sát đều ngất ngưởng truy hoan trong cuộc dạ yến kỳ quặc, trong cuộc tế lễ ma quái mà cả hai phe chịu tế lẫn phe nhận tế đều phải trả bằng mạng sống của mình. Rắn luôn luôn nuốt lươn khởi sự bằng đầu. Rắn nhỏ hơn lươn, chỉ nuốt được phân nửa rồi cả hai đều nghẹt thở mà chết. Rạng ngày, cả mương đầy nhóc những rắn và lươn dính chùm lẫn với nhau, tàn cuộc hoan mê, không còn một mống nào sống sót.

Đôi khi thay vì lươn là rắn, cuộc dạ yến chỉ có độc toàn là những rắn và rắn tham dự. Cả tập thể rắn bề ngoài mới ngó vô tưởng chừng như hỗn độn đó mà thiệt ra bên trong lúc nào cũng chỉ gồm rặt hai loại rắn khác nhau mà thôi. Và lúc nào lũ rắn nhỏ cũng nuốt trọng lũ rắn lớn hơn mình. Để rồi cả hai bầy đều chết tiệt không còn một mống. Như một cuộc hò hẹn cùng định mạng khắc nghiệt, trói buộc bất khả phân ly bởi tử thần tự kiếp nào, không có cách gì ngăn cản nổi. Một cuộc tự sát tập thể, điên rồ, thúc bách, bất cưỡng.

Đoạn văn khiến tôi nhớ ngay đến một khúc phim tài liệu của hãng Walt Disney được xem ở Hội Việt-Mỹ, hồi nhỏ. Một loài gậm nhấm đào hang dưới đất, những con lemmings, mỗi năm cứ đến mùa xuân, lại lũ lượt rùng rùng kéo nhau về những triền đá ven biển rồi chen chân nhảy xuống nước để... chết chìm! Chỉ những con chuột lạc bầy hay quá nhỏ, chưa đủ sức trẩy hội là còn sống sót, để tiếp tục gây dựng nòi giống, chuẩn bị cho một cuộc tự sát tập thể vào mùa xuân năm sau. Không người lớn nào trả lời nổi những câu hỏi "tại sao?" của tôi lúc đó. Khi lớn hơn một chút, tôi nghĩ, có lẽ chiến tranh cũng là một cách tự sát tập thể của loài người, để bớt nạn nhân mãn. Nhưng khác với con thú, con người xâu xé lẫn nhau, khoan khoái nhìn đồng loại đau đớn dãy chết, trước khi đến lượt chính mình ngã gục. Khác với con thú, con người văn minh ngày càng rời xa nguồn cội đơn sơ của thiên nhiên, để mắc kẹt giữa chính cái màng nhện rối rắm do mình đan dệt nên, và hối hận, than trách:



... Dưới nội cỏ bệnh viện hoa vàng rực chói mắt. Không phải hoa mai. Từng cụm nhiều nhánh từ dưới đất chỉa lên sai oằn bông vàng chi chít. Không thấy lá, hực hỡ chóa lòa. Từng bầy chim sà xuống, loại chim đuôi ngắn ngủn không phải chim sẻ, không phải chim sáo, cúi đầu mổ lia lịa, chạy lúp xúp trong cỏ, không thấy chưn, tưởng như loài chim đồ chơi cơ động, lăn trên hai bánh lẩn khuất, chạy tới chạy lui ngộ nghĩnh. Tôi thèm chạy trên cỏ. Lần nào ngó chim chạy trên bãi cỏ nắng tôi cũng thấy mình ngu. Trời ơi! Sao hạnh phúc dễ ợt như vậy mà tôi không với tới! Bao nhiêu lần tôi đến ngồi trong vườn Luxembourg suốt mùa xuân suốt mùa hè để chỉ nghĩ đến chuyện thất nghiệp. Kìa xem con chim bồ câu đang tắm rửa rỉa lông và kêu rù rù bên ống nước lủng có tia nước xịt ra nhỏ rức, nó đâu có phải làm đơn xin việc kèm theo phiếu lý lịch có dán hình thắt cà vạt hẳn hòi như tôi. Nọ xem con chim sẻ con đang chạy theo chim mẹ cánh xòe ra, mép vàng chưa mất dấu, hả miệng chờ mồi, và mẹ nó hết sức kiên nhẫn tận tụy. Tình thương của trời đất. Đời sống sờ sờ như vậy mà tôi tự ý ngoảnh mặt làm ngơ, giam mình trong ngục tù do mình dựng ra và do mình cai quản...
Và cũng chính từ những con thiêu thân nhỏ nhít, những cánh bướm đêm dật dờ, những dáng chim mỏng manh ấy, mà đôi khi con người ngộ ra được nhiều điều thú vị:

... Con chim se sẻ lại bay lên, lại sà xuống, lại cắn lại mổ lên mẩu bánh mì. Lần nào nhìn con chim se sẻ nhảy nhót, tôi cũng không khỏi bồi hồi. Con chim đẹp đẽ hết sức. Đẹp đẽ không phải vì nó có bộ lông rực rỡ. Bộ lông nó hết sức giản dị, nâu xám trộn lẫn, vậy thôi. Nhưng nó đẹp tại vì tôi ngó thấy nó đẹp. Biết nhìn, thì con chim nào lại không phải là một con chim đẹp, bông hoa nào lại không phải là một bông hoa đẹp, ngọn cỏ nào lại không phải là một ngọn cỏ đẹp? Mỗi vật trong trời đất là một đẹp đẽ, một chiêm ngưỡng, một kỳ công, một nhiệm mầu.

Con chim se sẻ lại mổ, lại ngó chừng, lại kêu chim chíp, lại mổ, lại ngó chừng, lại sợ, lại dáo dác. Nhìn con chim nhỏ thưởng thức mẩu bánh mì và ham sống, tôi xúc động sa nước mắt. Trời ơi! Cuộc sống đối với nó giản dị, đẹp đẽ và đáng sống biết chừng nào!

Bị bứt rời khỏi xứ sở, xa cách cả với thiên nhiên, sống lơ lửng ở tầng lầu mười lăm, một nơi tay chưa với tới trời mà chân đã không còn chạm đất, văn Kiệt Tấn chất đầy kỷ niệm, đầy hình bóng cũ, đầy mùi hương, đầy tiếng động. Từ mùi chanh ở một kỷ niệm gần, một không gian gần, vùng biển ấm miền Nam nước Pháp:



... Gió đưa hương chanh chín mùi luồn qua mành lưới đan khít gắn ở cửa sổ. Bên kia cửa sổ, vườn chanh đang khua lá giặt rửa dưới dòng trăng, rì rào suối nguyệt. Lẫn trong hương chanh, còn có mùi biển mặn mà từ lòng vịnh dưới thấp ùa lên. Cửa sổ bằng cây tôi quên cài móc đập vào khung cửa - là lúc dây đàn tôi đứt phựt? Cơn mơ "Vọng Nguyệt" một lần nữa lại trở về...

Thoáng chốc, mạch hồi tưởng của người viết đã dẫn người đọc vút ngược về quá khứ xa hơn, trên cùng một nơi chốn, Le Vieux Nice, để tự tình trong đêm bên người yêu cũ, rồi vèo một mạch, vượt cùng lúc cả không gian, thời gian, trở lại thuở thiếu thời với một mối tình vụng dại nơi bến đò. Miền Nam nước Pháp hay miền Nam nước Việt? Nắng rám, gió lộng, biển mở ra bát ngát, mùi trái chín, mùi thịt da... Ở đâu, cũng thấy tràn trề nỗi nhớ!


Bạc liêu là xứ quê mùa,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều châu.
Cơn gió chiều ào ạt xoáy quanh hàng chân cầu bê tông cốt sắt, lượn uốn vi vu dưới gầm cầu rồi thốc vọng lên cơn gió mát mẻ lồng lộng. Chiều nào, hàng hàng nam thanh nữ tú cũng đưa nhau từng cặp ra Cầu quay hứng gió. Những cơn gió rám nắng đượm tẩm hương vị thịt da của Hậu giang lúa chín, đậm đà sức khỏe mặn mòi của muối biển Cà Mau. Nơi cuối điểm này của châu thổ sông Cửu Long, xứ sở trương rộng mũi phù sa hít thở không gian bát ngát của Thái bình dương mà ước mơ những chuyến viễn du có bầy cá nược mướt mun phóng mình lội đua với ghe lườn trong buổi chiều nắng quái.

Cầu quay bắc nhịp nối liền làng Vĩnh Châu vào tỉnh lỵ Bạc Liêu, một trong những kho lúa tràn trề của miền Hậu Giang với đồng ruộng cò bay thẳng cánh. Làng Vĩnh Châu dàn trải bãi bùn đen và cát mặn ra tận ranh giới của thủy triều đại dương, tạo thành biển nhãn. Gọi biển nhãn bởi lẽ hai tiếng rừng nhãn không đủ sức mô tả những hàng nhãn điệp trùng chiếm cứ nhiều diện tích mênh mông mút mắt dọc theo ven biển. Những gốc nhãn cổ thụ xen lẫn chồi non, muôn vạn vòm nhãn tỏa tròn trương xòe đọt nhãn mềm mại mướt tươi nhấp nhô trùng trùng đợt sóng xanh lục ùa nhau xô tràn ra biển cả như muốn lấn ngược dòng thủy triều để vượt khơi, nếu không có những chùm rễ tua tủa của rừng mắm ven biển cắm sào giữ lại. Những chùm nhãn nơi đây tích tụ tinh anh ngọt thơm luyện cất từ cát bùn và gió biển, một sự huyền nhiệm mà chỉ tay tạo hóa mới trổ tài làm nổi. Tới mùa nhãn chín, mùi nhãn thơm lừng lay dậy sực nức khứu quan trong đêm tối, khiến cho trọn cả một vùng lân cận bao la thao thức mất ngủ. Và mỗi năm, dòng họ nhãn lại tung ra một đòn tuyệt kỹ: Nhãn Chú Út. Những trái nhãn cuối cùng, kết thúc cuộc đời của cội nhãn sau hai mươi năm dâng hiến trái ngọt cho đời. Nhãn Chú Út lớn bằng trái chanh, hột nhỏ bằng hột đậu đỏ. Lớp vỏ vàng nhám bên ngoài lột đi, lớp da non mỏng trắng bên dưới bày lộ, bao bọc lấy cơm nhãn no đầy thanh khiết, cắn vào, vị ngọt lẫn hương thơm vương vấn cả một đời khó quên.

Ông yêu thiên nhiên. Và rất yêu mẹ của mình. Nên khi ông lồng hai tình yêu ấy vào cùng một khung cảnh, người đọc bắt gặp được một hình ảnh quen thuộc lắm, nhưng cũng tha thiết lắm:



... Buổi trưa, khi ngồi vá áo bên cửa sổ, bà ngó tôi cười móm trong vuông nắng, tự nhiên tôi có cảm giác đang nằm dưới một gốc tre già bên bờ ao, lá tre trên cao thoảng gió rì rào, giọt nắng trộn lẫn bóng lá tre nhảy nhót trên khuôn mặt tôi mát rượi, tôi thiu thỉu ngủ, giấc mơ thơ thới... Ôi! Chi xiết êm đềm "nụ cười tre trúc"! Cho dù má tôi không cười thành tiếng, tôi vẫn nghe có tiếng rì rào thanh thoát của tre trúc rộng lượng chở che. Tôi là con trâu nghé nằm trong bóng lá im buổi trưa hè nắng gắt...

Thiên nhiên luôn song hành bên cuộc đời người viết, từ ruộng vườn làng mạc quê hương, qua xứ tuyết khắc nghiệt Gia Nã Đại hay ầm ào tiếng sóng bên Bãi Thiên Thần đêm Địa Trung Hải. Đôi khi, trong phút xuất thần, hai đối tượng "Tôi" và "Thiên nhiên" đột ngột hội tụ, trùng chéo, tan nhập thành một:



... Cô đơn mãnh liệt tới mức tạo cho tôi một cảm giác đau đớn vật chất, như một mũi tên nhức nhối bắn phủng qua đầu. Cô đơn muốn ngất xỉu. Chung quanh chỉ có tuyết rơi và tuyết rơi. Thình lình tôi chợt thấy mình tan trong tuyết: Tôi và vũ trụ chỉ là một. Cảm giác gây sự ngây ngất mãnh liệt bàng hoàng. Cô đơn chợt tan biến...

Nhiều năm sau khi đọc văn Kiệt Tấn, tôi đã có dịp qua Tiền Giang đục lờ phù sa, xuôi xe ngang nhiều xóm thôn trù phú, toòng teng mắc võng giữa bóng lá lao xao, nghe tiếng eo óc của gà trưa gáy xen vào giữa bài vọng cổ. Tìm được ở đâu cái cảm xúc vừa yên bình, vừa cô quạnh ấy, ngoài miền Nam nước Việt? Vậy mà, tôi không được may mắn nghe hò, lần về quê ấy. Hay những câu hò điệu lý cũng đã rơi rụng hết cả trong dĩ vãng, vì không đủ sức đương cự nổi với truyền thanh, truyền hình, đầu máy karaoké của thời đại tân kỳ? Hình ảnh cũ, âm thanh xưa, chẳng lẽ chỉ còn thoi thóp trên những trang sách, những thước phim chở đầy hoài niệm?



... Trời đã sáng hẳn. Vừng kim ô chói rọi trên mặt nước lóa chóa, chim nhạn dập dìu trên nhánh nước mênh mông, gọi bầy lao nhao, cắn mổ kiếm mồi, tranh la xao xác. Những cánh trắng xòe ra chở nắng tươi tốt đảo vòng trong không khí ẩm mát, chốc chốc vụt chúi xuống, xớt một con cá vẩy bạc óng ánh rồi vút bay lên hớn hở rộn ràng. Ghe lớn ghe nhỏ từng đoàn túa ra dòng thủy lượng lợïn cợn phù sa, chở khẳm trong khoang hàng hóa, đồ ăn, vải vóc, trái cây, tuôn về chợ Phong Điền, chợ Cần Thơ, chợ Cái Răng cho mọi người từ thôn dã đến thị thành đua nhau mà sắm Tết. Chú Ba cảm thấy sướng lây, lơi tay khoan xới mái dầm để thưởng thức cái tiết xuân đang tỏa ra trên sông rộng, để ngắm nghía cái khí xuân đang bương bả trong những cánh tay vặn chèo thúc bách. Một chiếc tam bản vượt lên dưới sức khuấy động của cô gái trẻ sung mãn, nón lá mới tinh khôi ngã bóng tròn trên nách áo vã mồ hôi khiêu khích. Chiếc tam bản qua mặt chiếc ghe cà dom chở dưa hấu nặng khẳm, người đàn ông chống sào dài trên mui ghe hoát cười rộng miệng, đưa tay ngoắc ngoắc cô gái rồi buông tiếng hò hoa nguyệt:
Hò ơ ơ ớ...
(Chớ) Ngó lên Châu Đốc Vàm Nao
Thấy buồm em chạy như dao cắt (ờ ớ) lòng
Hò ơ ơ ớ...
Bữa nay loan phụng hiệp bầy
Hò chơi nhơn đạo (ờ ờ)
(Chớ) Hò chơi nhơn đạo sau vầy nhơn (ờ ớ) duyên (ơ ơ)...

Nhưng, tại sao tôi cứ phải đặt quá nhiều câu hỏi? Tại sao tôi cứ phải thắc mắc với những điều, những việc đã, đang và sẽ xảy ra, lớp này chồng lên lớp kia, xô đẩy, nhấn chìm, bôi xóa? Vũ trụ có sự tuần hoàn của những chu kỳ, nảy sinh-trưởng thành-tàn lụi, xuân-hạ-thu-đông, đêm-ngày, mới-cũ, thịnh-suy... Đã cứ là như thế, từ muôn đời, nghìn kiếp. Những con cào cào non vẫn tiếp tục bay nhảy tíu tít. Những con chim ngắn đuôi vẫn tiếp tục bay lên đáp xuống tìm mồi. Đời sống vẫn tiếp diễn và đang tiếp diễn, không hề ngừng nghỉ một giây phút nào. Đời sống vẫn luôn luôn sẵn đó, vốn nó sờ sờ như vậy, từ bao giờ, tự bao giờ... Thắc mắc làm gì, tại sao làm gì. Một lúc nào đó, hãy gạt bỏ hết mọi tất bật eo sèo của cuộc sống, nhắm mắt, tĩnh tâm, yên, để nghe: thiên nhiên quanh ta đang phập phồng sống-chết, trong cái lẽ tự nhiên, thường tình nhất của đất trời:



(Khởi viết sau giao thừa - Bagnolet - Choisy-le-Roi - 01-03.2006)

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi


Má ơi con vịt chết chìm

Con thò tay vớt nó con cá lìm kìm rỉa tay

Ca dao
Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó giương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê! Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kép!... Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.


Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! Lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại. Má nó là con vịt xiêm mái cồ đã đẻ nhiều lứa, giữ con thiệt hay nhưng cũng rất dữ tợn, ba tôi gọi con vịt mẹ này là con vịt Mẫu Hậu. Có lần tôi bắt con nó để giỡn chơi bị nó bay đáp lên đầu vừa quào vừa mổ chảy máu, tôi la khóc chói lói và cũng kể từ đó tôi sợ nó lắm.
Vì vậy lần này tôi lén bắt con vịt vàng nhỏ trốn ra góc hè, ngồi dựa vách lá chỗ khuất để được tha hồ mà tưng tiu trửng rỡn với nó. Mà nói cho ngay, con vịt vàng này là của tôi chớ không phải là con ruột của con Mẫu Hậu. Cách đây đâu chừng ba tuần lễ, má tôi biểu tôi ra đồng lùa vịt. Tình cờ tôi lượm được một trứng của con vịt mái nào đó đẻ rớt. Tôi đem về lấy mực làm dấu rồi lén bỏ vô ổ cho con Mẫu Hậu ấp chung với mấy trứng khác cùng chạng. Vịt xiêm biết ấp trứng, còn vịt ta thì không biết. Chừng nở ra mấy con vịt kia đều cùng một họ Xiêm lớn con màu xám có hai chấm vàng trên cánh, chỉ có trứng vịt làm dấu của tôi là nở ra con vịt nhỏ nhứt vàng lườm vô cùng xinh xắn. Nhưng con Mẫu Hậu không kỳ thị chủng tộc một chút nào, con nào cũng là con của nó hết, tôi rớ tới con vịt vàng là bị nó xòe cánh mổ liền. Còn giống vịt cũng ngộ lắm, khi nở ra là theo riết người mẹ mà nó ngó thấy trước tiên lúc mở mắt. Bởi vậy nên mới có cái cảnh mẹ gà con vịt chắt chiu, khi lũ vịt con chạy ùa xuống nước bơi lội thì mẹ gà chỉ còn nước đứng trên bờ gọi khan cả tiếng… rồi rút khăn mù-xoa ra mà lau lệ.
Trước khi xảy ra vụ Nhựt đảo chánh Pháp ở Đông Dương và phong trào Việt Minh nổi dậy, gia đình tôi sống tại châu thành Bạc Liêu, ba và anh Hai tôi chung sức tạo dựng được một trại mộc nhỏ. Khi giặc giã tràn tới, gió bụi nổi lên tơi bời, anh Hai và anh Ba tôi theo kháng chiến chống Tây, còn ba tôi thì đóng tam bản chở gia đình đi tản cư. Sau hơn một năm lang bạt kỳ hồ, muỗi cắn điả đeo, kẻ đau gan người mang bệnh thủng, chúng tôi chịu đời không thấu nên hồi cư.
Về thành, trại mộc đã mất, ba tôi bèn biệt kinh kỳ tấp về Xóm Mới ở ngoại ô Bạc Liêu làm lại cuộc đời. Chúng tôi ở nhà mướn, ba tôi cất một trại mộc mới nhỏ hơn, cùng với anh Hai và chú Chín câm điếc của tôi bào đục, tự lực cánh sinh. Còn má tôi thì nuôi thêm gà vịt đắp đổi. Má tôi vốn người quê mùa miệt Cờ Đỏ nên cũng ham nuôi heo nuôi gà nuôi vịt lắm. Tôi cũng ham không kém vì lần nào có một lứa gà hay vịt nở, má tôi đều cho tôi tự ý lựa chọn một con làm bạn riêng và tha hồ cho tôi tưng tiu chăm sóc nó. Vì vậy, khi trứng bắt đầu khẻ mỏ, tôi cứ túc trực canh chừng bên ổ, mặc tình cho mấy con mạt gà (một loại giống như bồ mắc) từ gà mẹ hay từ ổ bay ra chun vô áo mà cắn, ngứa ngáy gãi sướt cả da. Tôi gan lì ở lại giúp cho gà con và vịt con khẻ mỏ gấp gấp, chun ra khỏi vỏ mau mau. Mỗi bận một con nở ra là mỗi bận tôi reo mừng thú vị hết sức.
Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhằm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu dạt ra, mà rồi cũng không tởn. Ngay cả con heo thiến má tôi nuôi trong chuồng cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí. Dè đâu Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào, bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi: bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: «Gặp tao, tao cũng rỉa nữa… huống hồ là con vịt!»
Mãi về sau này, dung rủi lần nọ khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại bàng còn hứng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành Dâm Khúc mà quên thu hồi báu kiếm. Xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy tưởng là mồi bở, trồi lên đớp mất. Thế là… tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là Bạo chúa đã xuống tóc đi tu?). Kể từ đó thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.
Nhưng đối với bà chủ nhà, tôi chỉ nể mà không ghét. Ghét là tôi ghét cái cậu em trai của bà chủ. Cậu này là bợm nhậu mút mùa, chó vàng chó vện gì mập mập mà lảng vảng trước mắt cậu là kể như tới số. Cậu đi tới đâu chó trong xóm hùa ra sủa vang rân tới đó. Thỉnh thoảng thiếu mồi, cậu lại ghé qua chuồng gà chuồng vịt của nhà tôi mà dòm dèm. Tuần trước cậu lại ghé nhà tôi mượn đỡ con gà, nói là để đưa ông Táo về trời trong dịp cuối năm, Tết nhứt tới rồi. Về mặt lý thuyết, tôi chẳng có gì để chống đối. Nhưng trên thực tế, ác thay cậu lại nhè chọn con gà giò mà má tôi đã cho tôi chọn bạn từ hồi mới nở, tôi chăm sóc rất kỹ, cứ ôm ấp hoài và cho ăn thêm nên nó mập bự hơn mấy con khác cùng bầy. Như vậy mới đổ nợ. Khi cậu chỉ tay chọn con gà ruột của mình, mặt tôi vụt xanh dờn bí xị và mếu khóc. Má tôi ôm tôi vào lòng và năn nỉ cậu chọn con gà khác mà cậu nhứt định không nghe, đã vậy còn lên mặt giận hăm he đòi đuổi nhà. Khi cậu thò tay ẵm con gà giò của mình, tôi lăn ra khóc sướt mướt. Má tôi cũng sụt sịt và hết sức dỗ dành tôi. Má tôi hứa khi vịt nở, má tôi sẽ đền cho tôi con khác. Tuy vậy, tôi cũng tỉ tê cả buổi trời.
Rồi buổi chiều hôm đó, tôi lén má ra sau hè nhà bà chủ lượm nắm lông tàn của con gà ruột của mình, đoạn giấu đem qua ruộng phía bên kia mương lộ mà chôn cất gần giếng nước. Bên bờ giếng, tôi giành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm… Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng.
Mà khi tôi khóc, mấy thằng lỏi trong xóm bèn xúm lại kêu ngạo tôi. Hồi đó, lúc khóc chắc là tôi xấu lắm. Lúc năm sáu tuổi, răng tôi bị xiết ăn đen xì rụng sát nướu, chỉ còn trơ lại hai cái răng chó ở hàm trên, cũng đã bị ăn khuyết mòn xung quanh. Hết răng thì móm, dĩ nhiên. Vì vậy, khi tôi nhăn nướu đen xiết ra khóc, tụi lỏi xúm lại nhạo tôi, «bà già móm tóm lưỡi câu, ông già râu câu cá chốt», hoặc ác hơn «sún răng bắt cầu chía ỏ» (xin đừng nó lái mà chết cái duyên của thằng nhỏ).
Sau khi cạy mô đất nẻ và vùi chôn nắm lông tàn bên dưới, tôi lại ngồi bẹp một bên mà thút thít ngậm ngùi chứa chan lệ đẫm. Sắm sanh nếp tử sa châu, vùi nông một nấm mặc dù cỏ hoa, trải bao thỏ lặn ác tà… Tỉ tê như vậy không biết bao lâu. Tới khi nghe tiếng má kiếm và kêu tên mình từ phía bên kia mương lộ «Kiệt ơi! Kiệt à!» tôi mới giựt mình ngơ ngác. Tôi quẹt nước mắt đứng dậy đi trở ra mương lộ, rồi leo qua chiếc cầu khỉ trở về nhà.
Trời gần Tết, gió hiu hiu lạnh…
***
Hai bữa sau ổ vịt xiêm nở ra được mười một con, trong đó có Em Vịt Vàng Nhỏ của tôi. Đối với tấm lòng thơ ấu của tôi, vịt vàng là đứa con rơi, mồ côi mồ cút, con Mẫu Hậu là má nuôi của nó, còn tôi là anh ruột của nó. Vịt vàng em tôi đã tới kịp thời xoa dịu lòng đau khổ của anh mình và lấp được chỗ trống trải trong con tim ấu thời do con gà bạn thân vừa chết đi để lại. Nhưng vịt vàng còn quá nhỏ, chưa truyền được hơi ấm như những lần tôi luồn tay dưới bụng con gà giò ngày xưa mà ôm vào lòng yêu ấp. Tuy nhiên, tiếng thủ thỉ lép kép! lép kép! ngây thơ của nó cũng chở được vào tâm hồn đứa nhỏ sáu tuổi biết bao là hạnh phúc tuyệt vời!
Vịt vàng lại đưa chiếc mỏ chút xíu rỉa mấy hột cơm giữa hàm răng sún của tôi. Bỗng trên thinh không Ầm!!! một tiếng long trời lở đất, tôi giựt bắn người hết hồn, con vịt vàng cũng la chét lên một tiếng thất kinh. Ầm!!! Ầm!!! hai tiếng nổ long trời khác tiếp theo liền, trên đầu đạn bay véo véo. Tôi còn đang chới với thì vịt vàng đã sút khỏi tay tôi rớt xuống lăn cù rồi đứng dậy chét! chét! chét! gọi má thất thanh, bỏ chạy. Con Mẫu Hậu nghe con kêu cứu cũng lên tiếng đáp ứng và từ xa chạy tới. Vịt vàng mừng quá nhào vô quấn lấy cẳng má mình ẩn núp. Cảnh tượng trước mắt gợi lại trong trí tôi cái Tết năm ngoái trên đường tản cư, khi má tôi dừng mái chèo lại trên dòng sông Vĩnh Phước để cứu vớt ba mẹ con người đàn bà chạy giặc sắp chết đuối, xung quanh đạn lửa bừng bừng, người trúng đạn té xuống sông lòi ruột. Má tôi đã đưa tay kéo đứa nhỏ gái cho đeo cột chèo để má nó trồi lên ôm đứa con trai độ hai tuổi lội qua bên kia sông an toàn. Và đứa nhỏ gái cũng đã lên tiếng gọi má nó thất thanh như con vịt vàng nhỏ của tôi giờ đây vậy. Cũng một giọng cuống cuồng, cũng một điệu thảng thốt, rát ruột. Cho tới khi má tôi trả đứa nhỏ gái lại cho má nó bên kia bờ sông và người đàn bà bồng hai đứa con lẩn khuất trong đám người chạy giặc hỗn loạn tôi mới nghe nó kêu khóc. Chỉ mới năm ngoái thôi nên hình ảnh còn rất rõ rệt.
Thấy con Mẫu Hậu cất tiếng gọi bầy con lại và xù lông bảo vệ, mồng trên đầu và trên mặt đỏ ké dữ tợn, tôi không dám nhào vô mượn đứa em ruột của mình trở lại. Ầm! Ầm! Ầm! Ầm !... Tiếng cà nông thụt từ bót «Hội Đồng Điều» cách nhà tôi khoảng một trăm thước tiếp tục rền rĩ xé trời.
Sở dĩ bót mang tên như vậy là vì ngôi nhà cao cẳng của ông Hội Đồng Điều bị người Pháp trưng dụng và cất thêm lô cốt xung quanh để làm đồn bót chận đường Việt Minh. Tôi ngó theo hướng đạn đang bay về miệt Trà Kha, thấy mấy ngọn cau miệt đó gẫy gục, khói bốc lên ngùn ngụt. Miệt Trà Kha cây cối um tùm và rạch sình chằng chịt, du kích quân thường ẩn núp trong đó, chờ đêm tối kéo ra đánh đồn phá bót rồi lại rút về đó dưỡng quân. Thỉnh thoảng Tây kéo lính, công voa và thiết giáp vô Trà Kha ruồng bố. Chiều qua đã có chạm súng đụng độ và xe cứu thương hụ còi chạy ngang nhà tôi, nghe nói lính ở thành bị lọt phục kích chết nhiều. Có lẽ vì vậy mà giờ đây Tây thụt cà nông vô đó trả thù. Hoặc không chừng pháo kích trước để chuẩn bị hành quân càn quét. Xe díp cứ xẹt tới xẹt lui ngang Xóm Mới tôi từ sáng tới giờ. Nhiều khi mấy ổng còn kéo về tận xóm tôi và núp sau mấy cái mả đá bắn phá và liệng lựu đạn qua bót Hội Đồng Điều. Lính trong đồn xả súng liên thanh và mọt chê tưới sượi vào xóm tôi, nhà nào nhà nấy đều bị lủng đạn, cháy vách bể ngói lung tung! Bởi vậy nhà nào cũng có đào hầm trú ẩn ngay bên trong, nhà tôi cũng vậy.
Khi có chạm súng, ai nấy đều sợ mất vía nên tự động nhào hết xuống hầm. Chỉ trừ có chú Chín tôi vì điếc không sợ súng nên cứ đứng sổng lưng tự nhiên mà coi đạn bay đỏ trời và còn phát âm dễu dễu! dễu dễu! mấy tiếng trầm trồ thán phục. Can không nổi! Lúc nào bắn rát quá, kèo lá trên nóc nhà gẫy tuôn hết xuống ào ào, má tôi niệm Phật lia lịa, còn chị Tư tôi thì đội cái thau nhôm trên đầu, răng cỏ đánh bò cạp lốc cốc và đái luôn trong quần hồi nào không hay. Còn tôi thì cứ đau bụng mắc ỉa thúc tới, cẳng chưn lạnh ngắt, miệng mỏ khô queo.
Cuộc pháo kích còn đang tiếp diễn đinh tai nhức óc thì ba tôi từ trong trại mộc bước ra sân ngó lên trời chưởi đổng :
- Đ.m! Năm nào cũng vậy, hễ Tết nhứt tới là có sanh giặc. Thiệt tình! Hổng có năm nào bà con được yên ổn ăn Tết một lần thử coi.
Đoạn day qua thấy tôi đang đứng xớ rớ ở xó hè, ba tôi lên tiếng :
- Thôi mầy với thằng Lộc sửa soạn tao dắt đi chợ Tết. Bữa nay hăm chín, chiều nay là hết họp chợ rồi. Đi cho kịp trưa nay mua chút đỉnh đồ với thịt heo ba rọi về tao kho để dành Tết ăn.
Tôi nghe nói mừng lắm. Thế nào cũng có thèo lèo cứt chuột, hột dưa, tôm khô củ kiệu, mứt dừa, mứt bí. Hơn nữa, gì chớ ba tôi mà kho thịt heo với cá bống kèo kiểu Bạc Liêu là số dách. Cá ông chỉ rửa sơ, không cạo nhớt, rồi để cá sống nhăn nguyên con như vậy mà đổ vô nước sôi đậy nắp lại, cá bóng còn nhảy soi sói trong nồi lụp bụp. Chập sau, ông giở nắp ra vớt cho tới khi hết bọt rồi mới rót nước mắm ngon vào mà nêm nếm. Khi chín, con cá mềm sùi và còn nguyên chất ngọt. Phần bụng và đầu nhẩn nhẩn để cho người lớn, tôi thì hẩu xực cái đuôi. Còn kho thịt, ba tôi lựa mua thịt heo ba rọi có mỡ nhiều, cắt cục vuông thiệt lớn, lấy cọng lát buộc chéo ngang. Xong ông đốt lửa riu riu, kho thiệt lạt và kho thiệt nhiều bận lửa. Chừng đem ra ăn, mỡ đã rệu, chỉ cần mó đũa vào là mỡ phao ra, đưa vào miệng là chỉ có nuốt cái hương vị béo bùi, thả bánh tét vào mà nhâm nhi là hết xẩy. Ăn từ mùng một tới mùng ba vẫn không biết ngán, vì càng nhiều lửa, thịt càng mềm mỡ càng rệu. Hễ tới Tết là ba tôi giành để chính tay mình kho thịt. Má tôi kho ông chê nạc nhiều, thịt cứng và mặn. Má tôi thì làm những món khác như hủ qua hầm, gà rô ti, vịt cà ri, bánh tét, cải món, dưa cải, dưa giá… cũng ly kỳ lắm. Hồi nhỏ tôi ăn cái gì cũng thấy ngon và sướng ran, khoái tỉ. Nhà nghèo nên cũng ít khi được ăn nhiều món như trong dịp Tết. Quần áo má tôi xỏ kim may lấy cho tôi và Lộc - không biết bà học may ở đâu. Bận vô, bâu vè bẹt ra, túi thẳng hai cái hai bên coi cũng le lói như ai.
Gần trưa, khi tôi và Lộc theo ba đi ngang qua bót Hội Đồng Điều, đã thấy lính ta lính Tây lính Thổ láo nháo đứng trước bót nhậu nhẹt, ăn uống, hút thuốc, chửi thề, cười giỡn rậm rật. Sáu bảy chiếc cam nhông nhà binh đã đậu sẵn ở đó, vài chiếc khác từ Bạc Liêu chạy ra cũng đang từ từ tấp vô xếp hàng thành công-voa. Một anh lính quăng cho tôi và Lộc mấy cục kẹo. Hai đứa lượm bỏ túi.
Ra tới thành phố, ba tôi ghé vào một tiệm Chà Và bán vải để mua cho má tôi cái khăn. Nhận tiền thối xong, Lộc cầm gói khăn, ba tôi nắm tay hai đứa băng qua lộ để vô chợ nhà lồng mua thịt. Tới bên kia đường, ba tôi đứng lại để kiểm tiền thối khi nãy nhưng vì vội vàng chưa kịp đếm, thấy có tờ giấy hai chục đồng rách mướp, rõ là tiền heo gạo khó xài, ba tôi dắt hai đứa băng trở lại đường bước vô tiệm Chà Và đổi lại tờ khác. Xong xuôi trở ra cửa tính băng qua bên kia đường lần nữa để thực sự bước vô chợ. Vừa dợm bước thì…
Một tiếng nổ vang rền chát chúa từ chợ nhà lồng dội ra ran cả ngực, đồng thời lửa vàng cam chóa lòa lóe lên. Lựu đạn! Một trái lựu đạn vừa được kháng chiến liệng vào chợ nhà lồng để khủng bố - đây cũng không phải là lần đầu. Ba cha con tôi kinh hãi thối lui. Cảnh vật như chết đứng im lìm trong một hai giây ngắn ngủi. Rồi vụt bừng sống trở lại với tiếng rên thét la khóc vang dậy trong nhà lồng chợ. Sau đó là tiếng chân chạy rần rật, người lớp lớp từ trong chợ túa ra, kẻ lành lặn, người đẫm máu, lính tráng giữ trật tự ùa tới chen lấn cực kỳ hỗn loạn, rào chợ được kéo lại, người trong không thể thoát ra người ngoài không thể ào vô, còi xe cứu thương đâu đó rú lên cuống quít.
Gần nửa giờ sau cuộc tản thương mới được cho phép. Người khiêng ra lớp chết, lớp bị thương nặng, lớp bị thương nhẹ, máu me kinh hồn, ruột gan lòng thòng, rên la khóc kể ghê rợn nhầy nhụa tanh tưởi. Máu! Máu! Đầy những máu! Máu tùm lum, máu khắp nơi. Trong đám tản thương, tôi bỗng thấy thằng Lý bám trên một bà già khiêng trên băng ca mình ướt đẫm máu me nằm bất tỉnh nhân sự, nó vừa khóc vừa lải nhải «Ngoại ơi là ngoại! Ngoại ơi ngoại! Hu hu hu». Thằng Lý là con riêng của bà chủ nhà, tuổi chừng mười ba mười bốn, đã trốn vô bưng từ mấy tháng nay. Sau này ba tôi nói lại, tôi mới biết là chính thằng Lý đã lãnh lựu đạn đem về thành liệng vô nhà lồng chợ rồi giả bộ khóc lóc đeo theo bà già xấu số nọ để qua mặt lính kiểm soát mà trốn khỏi vòng vây. Thiệt hết cỡ nói! Vậy mà tôi đâu có dè.
Khi cuộc tản thương đã chấm dứt và rào chợ được mở ra, ba tôi biểu Lộc dẫn tôi về nhà trước, còn ổng thì qua chợ nhà lồng để mua sắm đồ ăn Tết - ổng nói bây giờ người ta bỏ chạy hết rồi, chắc là thịt thà, trái cây, dưa hấu, kẹo mứt phải bán rẻ! Cũng lý luận y chang như hồi tản cư tới Vĩnh Phước vào cuối năm ngoái, bà con đang họp chợ Tết thì Tây Thổ nổ súng lốp bốp, mạnh ai nấy chạy bỏ chợ lộ thiên còn ba tôi thì trái lại vác gươm nhảy lên khỏi ghe tam bản chạy xấn ngược ra chợ để mua thịt heo bán rẻ, làm cho má tôi phải neo ghe chờ sợ xanh máu mặt. Thiệt là ông già lựu đạn mút mùa!
Lộc và tôi về tới nửa đường thì gặp má tôi đang tất tả chạy cẳng không từ đàng xa trờ tới - bà nghe nói có lựu đạn quăng ở chợ Tết rất nhiều người chết nên sợ thất thanh hồn vía đi kiếm chồng kiếm con. Vừa ngó thấy hai đứa tôi bà đã hoảng vía hào hển la lên :
- Chèn ơi!... còn ba tụi bây đâu ?... bộ ổng… bộ ổng bị trúng lựu đạn… lựu đạn… chở vô nhà thương… chở đi… chở đi nhà thương rồi hả?...
Bà nói không ra hơi, tiếng còn tiếng mất. Lộc lên tiếng :
- Hổng có. Ba hổng có sao hết. Ổng đương đi chợ...
- Chèn ơi! (má tôi ôm cứng hai đứa con mình bật khóc)... hai đứa tụi bây hổng có sao hả? (bà mếu máo)... nam mô a di đà Phật! Trời Phật phù hộ con tui! (bà sịt mũi)... còn cái ông già mắc dịch bộ chưa tởn lựu đạn hay sao mà còn ở đó đi chợ đi búa.
Má tôi vội vã dắt tụi tôi về nhà. Ngang qua bót thấy lính tráng rần rật bắt đầu leo lên xe nhà binh bây giờ đã có hơn cả chục chiếc, một chiếc xe díp từ trong bót phóng vèo ra chạy ngược về tỉnh. Hồi sau khá lâu mới thấy ba tôi đi xe lôi về, chở theo nào dưa hấu, cam bưởi, kẹo mứt, trà bánh... tay xách một đùm thịt heo ba rọi bự tổ chảng. Má tôi la ổng. Ông nói mua rẻ mạt còn ức hiếp gì nữa mà la. Lộc và tôi phụ ôm đồ vô nhà, trong bụng tuy còn sợ nhưng cũng khoái chí tử. Má tôi xuống bếp nổi lửa hâm đồ ăn dọn mâm cúng để rước ông bà cuối năm về ăn Tết. Bà biểu Lộc và tôi đi lùa gà lùa vịt về nhốt lại sớm sớm. Tết nhứt tới rồi để mất hổng nên. Lộc ra mé sau, tôi đi vòng ra mé trước.
***

Trước nhà tôi có cái mương nhỏ lưa thưa cỏ lát mọc và bèo nổi. Kế mương là bờ đất cỏ dại, giáp ranh đường lộ lởm chởm đá xanh loang lở. Một bờ đất khác tiếp nối dốc xuống mương lộ rộng chừng ba thước có cầu khỉ bắt ngang, bên kia là ruộng lúa với giếng đào chứa nước mưa ngọt và cái nghĩa địa của tôi nằm cạnh bờ giếng. Tôi bước ra trước nhà ngó thấy cách đó không xa con Mẫu Hậu đang dắt bầy con kiếm ăn ở mương nước, lũ vịt con vừa kêu lép kép vừa chìa mỏ rỉa vào bèo nổi, con vịt vàng nhỏ của tôi tách rời với hai con vịt xám khác, cách vịt mẹ đâu chừng một thước. Tôi đi về phía đó tính lùa vịt về chuồng ở sau nhà nhốt lại.


Chợt từ phía bót Hội Đồng Điều vọng lại tiếng động cơ ồn ào, mỗi lúc một lớn hơn, mỗi lúc một gần hơn. Có lẽ đoàn công-voa đang bắt đầu chuyển dịch. Rồi từ phía xa, một chiếc xe heo nọc trờ tới, mỗi lúc một rõ dần, chiếc xe bọc thép mở đường có gắn súng lớn xung quanh, mũi xe đeo ống dây cáp sắt để trục xe sa lầy, hai bánh trước chạy bằng cao su thường, hai bánh sau chạy trên xích sắt, khi di chuyển dây xích nghiến nát đá đường chát chúa điếc tai, mặt đất rung rinh chấn động. Khi xe thiết giáp dẫn đầu còn cách bầy vịt độ năm thước, bỗng dưng con Mẫu Hậu ngửng đầu lên rồi chợt giựt mình nhảy phóc ra khỏi mương vọt chạy băng qua phía bên kia lộ, dắt theo tám con vịt xám nhỏ - tôi không kịp phản ứng gì hết. Vịt mẹ dừng lại bên kia đường cất tiếng kêu réo đám con còn kẹt lại ở mương nhỏ bên này.
Vừa khi đó chiếc xe bọc thép mở đường cũng đúng nhịp trờ tơí lướt qua mặt tôi, trực chỉ Trà Kha, xích sắt rần rật lay chuyển mặt đất dưới chưn chỗ tôi đang đứng. Chiếc xe cam nhông chở lính đầu tiên từ từ tiến tới, chậm rãi nối đuôi theo xe thiết giáp. Từ từ, từ từ... Bên kia đường vịt mẹ vẫn tiếp tục gọi con, giọng kêu hoảng hốt, lo lắng. Ba con vịt nhỏ còn kẹt lại vụt nhảy lên mương, vọt băng qua phía bên kia đường, tôi dang tay ra cản ngăn không được. Chiếc cam nhông trờ tới... Hai con vịt xám lẹ chưn chun tọt dưới lườn xe biến mất, con vịt vàng nhỏ của tôi cũng vọt theo, tôi cũng vọt theo. Bỗng em tôi vấp bánh sau của xe cam nhông dội lại, tôi cũng dội lại, đuôi xe kình càng lướt qua sát rạt bên mũi, mấy người lính lê dương râu ria xồm xàm ngồi trên xe chồm ra la ó vang rân và khoát tay đuổi tôi trở lộn vô bờ lề. Chiếc xe cam nhông thứ hai từ từ tiến tới, động cơ rù rì, bí mật, lạnh lùng, vô giác. Từ từ, từ từ... bánh xe cao su từ từ lăn tới...
Con Mẫu Hậu vẫn tiếp tục gọi con thảng thốt. Hai con vịt xám nhỏ đã qua được bên kia đường an toàn và nhập bầy. Chỉ còn lại bên nầy đường có mỗi con vịt vàng nhỏ của tôi đang chạy lăng xăng cuống cuồng và tôi cũng đang cuống cuồng rượt theo. Tôi cúi xuống chụp nó mấy lần, nhưng chụp hụt. Má nó lại cất tiếng réo gọi. Con vịt vàng ngửng cổ nghe ngóng rồi lại vọt phóng trở ra giữa lộ thần tốc. Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông vàng mịn không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng «Chét» thảm thương bên tai, thôi rồi! chết em tôi rồi, tôi ngã quỵ xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!... Chết em tôi rồi! Nhúm lông vàng dính trên bánh xe sau ghép đôi cuốn theo đoàn lính lăn đi, để lại vết máu đỏ tươi bằng bàn tay thấm ướt trên mặt lộ. Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt, chết em tôi rồi! Tôi hét lên một tiếng thất thanh ngã lật ra sau té trên bờ cỏ, nước mắt vọt ra xối xả, ruột gan nát ngướu như xác vịt con bấy nhậy giữa đường, tim gan rạn nứt bể vụn… Hết rồi! Thôi hết rồi! Chẳng còn gì nữa em vịt vàng nhỏ của tôi! Vĩnh biệt! Vĩnh biệt! Em ơi vĩnh biệt!
Tôi nằm lăn lộn dẫy dụa trên bờ cỏ, cổ họng thắt gút tắc nghẽn, không bật khóc được thành tiếng, chỉ còn biết hả miệng để kịp lấy hơi thở và để cho tiếng nấc tràn ra ngoài, trời đất xung quanh nhạt nhòe, cổ họng ngất ngất muốn bể tét. Mặt đất dưới lưng tôi tiếp tục chấn động dưới lốp cao su ghép đôi của đoàn xe cam nhông mười bánh rầm rộ, tiếng động cơ vẫn tiếp tục xầm xì dửng dưng lướt qua xịt phun xuống mặt đường mùi xăng khét nghẹt trộn lẫn bụi đường và khói xám xanh mù mịt. Rù rù rù rù rù… chiếc thứ ba… rù tù rù… chiếc thứ tư… rù rù rù rù… chiếc thứ năm rồi chiếc thứ sáu… Mỗi lần xe lướt qua tôi lại nghe vang động trong đầu tiếng «chét» tuyệt mạng của em tôi. Rù rù rù rù… Chét! Rù rù rù rù chét!... Tôi úp hai bàn tay nhỏ của mình lên lỗ tai lăn người ngóc dậy, đầu gối quì trên lề cỏ, ngước đầu ngó ra giữa lộ.
Trên mặt đường không còn phân biệt được dấu máu và vết lông vàng của em tôi nữa. Hết rồi! Em tôi đã hoàn toàn biến mất trên thế gian này. Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng «chét! chét!» thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình… Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng xiết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Em đã chết bỏ tôi thiệt rồi!...
Khi nghe tiếng xích sắt chát chúa của chiếc xe thiết giáp bọc hậu cuối cùng chấn động trên mặt đất, tôi biết là đoàn công-voa đã đi qua hết. Tôi ủ rũ bò dậy quì gối ngó ra mặt đường. Chẳng còn gì nữa dấu vết em vịt vàng nhỏ của tôi, chẳng còn dấu lông vàng, chẳng còn vết máu đỏ. Em của tôi đã vỗ đôi cánh nhỏ bay về trời mất tích! Tôi òa khóc thành tiếng… Tôi quặp người ghịt lấy bụi cỏ bật khóc ngất ngất, khóc ồ ạt, khóc quằn quại, khóc vật vã. Nếu rủi thời má tôi ngã ra chết lúc đó, có lẽ tôi cũng khóc nhiều đến như vậy là cùng. Tấm lòng thơ dại tan nát! Con tim ấu thời đã dập bể trên mặt lộ đá xanh lởm chởm! Hết rồi! Em ơi, hết rồi! Em đã bỏ tôi thiệt rồi! Tôi hét lên «trời ơi!» một tiếng xé ruột rồi rũ người nghiêng qua một bên, từ từ sụm trên mặt cỏ còn nồng nặc mùi xăng khói…
Tôi nằm co quắp bên lề đường, tay bấu lấy bờ cỏ khóc la thảm thiết như vậy không biết bao lâu. Như mê sảng. Tôi muốn mình mê sảng. Khi gặp chuyện quá dữ dằn, tôi ước rằng đó là một cơn ác mộng, một cơn mơ dữ. Tôi cắn vào đầu lưỡi. Tôi không nằm mơ. Tôi tỉnh táo. Không phải chiêm bao. Chuyện thiệt. Rõ ràng chuyện thiệt. Em vịt vàng nhỏ của tôi đã chết thiệt rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi không còn ở trên dương thế này nữa! Tiếng khóc quằn quại của tôi bật tràn ra cổ họng như thác lũ, rồi mòn mỏi theo đường suối đi nhỏ dần, dợn uốn nao nao và từ từ dịu tắt.
Tôi ngồi dậy hỉ mũi chùi xuống cỏ. Tôi đưa sống tay dụi lên đôi mắt ướt nhẹp và thở dài đứng dậy. Đầu gối chợt buốt nhói muốn té sụm. Tôi cúi xuống phủi mấy vụn đá nhỏ còn dính trên đầu gối, da rách sướt chảy máu rát nhức. Tôi bước cà nhắc xiểng niểng ra lộ đá lượm xác em tôi đem qua bên kia bờ giếng chôn cất. Nhưng trên mặt đường những vụn thịt, những vụn lông vàng non dại, những vụn đất đá trộn lẫn li chi không còn phân biệt được gì nữa hết. Tôi mếu máo bước trở vô lề đường lượm miếng giấy nhựt trình sười rách dính phất phơ trên ngọn cỏ. Tôi phủi sạch rồi bẻ một nhánh cây bình bát mọc ven mương lộ tước hết lá. Tôi trở ra lộ ngồi chồm hổm cạy gỡ những mảnh vụn mà tôi nghĩ là của em tôi còn để lại trên cõi đời này, đùa vào miếng giấy nhựt trình gói thành gói nhỏ. Tôi đi ra mương lộ, dợm bước lên cầu khỉ để qua bên kia bờ giếng.
Dưới mương lộ, con Mẫu Hậu thản nhiên tiếp tục dẫn đàn con mười đứa còn lại tung tăng trên mặt nước rỉa rói quanh đám cỏ lác và bèo dại kiếm ăn. Đám vịt con xám buông tiếng kêu lép kép! lép kép! Tim tôi vụt se thắt. Tôi ngồi thụp xuống đầu cầu khỉ, ôm cứng gói nhựt trình nhỏ vào lòng và bật khóc trở lại sướt mướt. Lòng đau đớn quá đỗi. Nước mắt nước mũi ràn rụa. Tôi không oán hận gì hết. Chỉ thấy đau đớn. Quá đỗi đau đớn. Tôi thương quá chừng em vịt vàng nhỏ của tôi. Bây giờ nó đã chết rồi. Em tôi đã chết rồi. Tôi không oán hận chiến tranh. Ở tuổi thơ đó lòng tôi không biết oán hận. Tôi không oán hận chiếc xe cam nhông đã nghiến nát em vịt vàng nhỏ của tôi. Tôi không oán hận người tài xế đã lái chiếc cam nhông cán em tôi bấy nhậy. Tôi không oán hận đoàn lính Lê Dương ngồi trên chiếc cam nhông đó. Dù sao chiếc cam nhông cũng đã đi mất, đoàn công-voa cũng đã đi mất, người tài xế cũng đã đi mất, đoàn lính Lê Dương cũng đã đi mất. Có thể tối nay khi trở về có người đã chết, đúng vào đêm giao thừa. Tôi hít nhẹ tủi thân, tấm tức. Và bật khóc trở lại lần nữa, lần nữa…
Dù thâm tâm mình không mảy may thù oán, trong đầu óc non nót của tôi bỗng phựt lên cơn giận dữ - cơn giận dữ dính liền với cái chết, nỗi tang thương và sự khổ đau. Tôi giận con vịt Mẫu Hậu! Trong đầu óc khờ khạo của mình, tôi nghĩ tại vì nó đã ngốc nghếch cất tiếng réo gọi con mình cho nên em vịt vàng nhỏ của tôi mới băng qua đường cho xe cán chết thảm. Tôi lượm cục đất ở đầu cầu nhắm con vịt mẹ liệng tới. Cơn giận bay ra nửa chừng mãn hơi rớt ùm xuống nước. Con Mẫu Hậu giựt mình thốt kêu mấy tiếng rồi dắt đàn con lội đi nơi khác. Bỏ lại tôi ngồi chong ngóc một mình ở đầu cầu khỉ tiếp tục khóc thút thít, khóc nghẹn ngào, khóc lẻ loi…
«Kiệt ơi! Kiệt à! Kiệt!», tiếng má tôi từ hiên nhà bên kia đường vọng qua. Má tôi kêu tôi về lạy mâm cơm cúng để rước ông bà về cùng gia đình chúng tôi chung vui ba ngày Tết. Đầu xóm ai đó đốt pháo đợi giao thừa, mừng Tết đến. Cái Tết thiêng liêng háo hức trong huyết quản mọi người. Cái Tết ấu thời nhỏ theo giọt lệ hồng của tôi sùi sụt. Nào ai có biết trong ruột gan đứa nhỏ sáu tuổi, một nửa cái Tết thơ ấu đó đã nát vụn theo con vịt vàng nhỏ em tôi giờ đây nằm trong gói giấy nhựt trình tôi đang ôm cứng trên bụng bên bờ mương nước mặn. Và một nửa cái Tết kia đã theo nhúm lông tàn của con gà bạn tôi mà vùi dập tự bao giờ bên kia bờ giếng nước ngọt, khi những nụ mai vàng theo gió Xuân mướt xanh vừa chớm nhú.
Một cái Tết thơ ấu đã nát vụn và vùi dập bên hai dòng nước mặn ngọt trong xóm nhỏ của tôi tự bao giờ…
***
Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Từ ngày em bị chiếc xe nhà binh mười bánh và chiếc xe tăng nghiến nát, cuộc chiến tranh không ngừng tiếp diễn khốc liệt ở quê hương hai anh em mình, đằng đẵng ba chục năm không hề ngừng nghỉ. Cuốn chìm phăng phăng trong dòng lửa sắt bất cưỡng, tôi may mắn và tình cờ còn sống sót. Và từ Xóm Mới ấm áp phương Đông mình, tôi dạt trôi tới phương trời Tây lạnh lẽo xa lạ.
Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.
năm nay đào lại nở!
Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.
Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu quấn quít sông ngòi đặc ngừ tôm cá.
Và em đang thò chiếc mỏ vàng xinh xắn rỉa vào đám bèo nổi kiếm ăn, buông tiếng kêu lép kép nhỏ nhít. Em đang gọi tôi cùng đến để chia sớt nỗi vui mừng rất trẻ con của em.
Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Cũng như mọi sinh vật trên đời, em đã từng có một tuổi nhỏ thơ dại và một trái tim thơ dại ẩn chứa trong lớp lông tơ vàng mịn êm đềm. Trái tim thơ dại đó đã truyền vào con tim ấu thời của tôi biết bao là thương mến, muôn ngàn thương mến, biết bao là cảm xúc, vô vàn cảm xúc, biết bao là hoan lạc, vô vàn hoan lạc, và cũng biết bao là đau đớn, đau đớn tưởng chừng có thể xé đứt ruột gan mình mà ngã ra chết được. Em đã cho tôi con tim thơ dại, tôi đã cho em tuổi ấu thời. Dù vẫn còn phưởng phất ở Xóm Mới mỗi độ Xuân về, con tim thơ dại và tuổi ấu thơ đó đã có lần vỗ cánh thơ ngây bay tìm mùa Xuân trong trắng ở một vùng trời tuyệt nhiên không nhuốm một dấu vết hận thù. Rồi đã vĩnh viễn cư ngụ lại muôn đời luôn tại đó.
Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi

Em vỗ cánh nhỏ bay về trời

Em tha trong mỏ em vàng nhỏ

Tấm lòng thơ nhỏ của riêng tôi
Và năm nay đào lại nở! Giờ đây trên một cụm mây xa thiệt xa, tôi hình dung một đứa nhỏ sún răng đang ôm em vịt vàng nhỏ của mình trong lòng và hai anh em đang bồi hồi ngó xuống trần gian nhìn ngắm thiên hạ nổ pháo rộn ràng mừng đón Ông Bà và Nàng Xuân về ăn Tết...

Ba điều về Kiệt Tấn
Nguyễn Văn Lục
Cầm tay em, đi tìm lại tuổi 18.

V.D
Tôi chỉ viết ba điều về Kiệt tấn và tôi nghĩ thế là đủ. Ba điều ấy là: Kiệt Tấn nhà văn miệt vườn, Kiết Tấn với những nỗi đam mê tình dục và cuối cùng Kiệt Tấn với nỗi cô đơn của chính mình. Đó là ba nét đặc trưng nhất trong thế giới văn chương Kiệt Tấn

 


Каталог: groups -> 19983123
groups -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
groups -> Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
19983123 -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
19983123 -> Uống Rượu với Lê Văn RƯỢu vang mỹ

tải về 0.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương