MỤc lục lời giới thiệu phần III: cuộc du lịch đẾn xứ laputa, balnibarbi, luggnagg, glubbdubdrib, VÀ nhật bảN



tải về 1.07 Mb.
trang3/6
Chuyển đổi dữ liệu28.11.2017
Kích1.07 Mb.
#34665
1   2   3   4   5   6

Chú thích:

[1] Chương này chế nhạo cơn sốt đầu cơ của các năm 1719, 1720 và 1721. Khi đó ở Anh xuất hiện vô số các công ty cổ phần và hội thương mại, mà những kẻ tổ chức các công ty và các hội này là những kẻ doanh lợi tháo vát và những kẻ phiêu lưu- hấp dẫn công chúng nhẹ dạ vào những kế hoạch hết sức viễn tưởng của sự làm giàu nhanh. Những công ty và hội này có thể gọi là “những bong bóng xà phòng” bị tan vỡ cũng nhanh chóng như là xuất hiện, đôi khi chúng đưa những người đóng góp cổ phần tới cảnh phá sản hoàn toàn. Về chủ đề này Swift đã viết tác phẩm châm biếm gọi là “ Kinh nghiệm về các bong bóng xà phòng Anh”.




Chương V

Tác giả quan sát Viện Hàn Lâm ở Lagado - Mô tả chi tiết Viện hàn lâm - Các môn khoa học và nghệ thuật mà các giáo sư nghiên cứu.

Viện hàn lâm chiếm một số căn nhà bị bỏ hoang nằm ở cả hai mặt phố, thích hợp cho công việc của Viện. Vị chủ tịch đón tôi rất niềm nở và tôi đã thăm ở Viện không ít ngày. Trong mỗi một phòng đều có một hoặc một số nhà thảo đề án làm việc. Tôi nhớ là tôi đã đi thăm chừng năm trăm căn phòng.

Nhà bác học đầu tiên mà tôi ghé thăm là một người gầy nhom có khuôn mặt và những bàn tay ám khói, áo khoác ngoài, áo sơ mi và da của ông cũng có cùng một màu như vậy, còn bộ tóc dài rối bù và chòm râu bị cháy xém từng đám. Tám năm trời ông nghiên cứu dự án rút tia nắng mặt trời từ dưa chuột. Những tia sáng ấy ông có ý định tập hợp vào các chai con nút kín mít để trong trường hợp mưa và lạnh của mùa hè thì sưởi nóng bầu không khí bằng các tia sáng ấy. Ông biểu lộ niềm tin rằng qua tám năm trời ông có thể cung cấp tia sáng mặt trời giá phải chăng cho các vườn của viên thống đốc. Nhưng ông than phiền là ông dự trữ không được nhiều và yêu cầu tôi tặng ông cái gì đó để khuyến khích khả năng sáng tạo của ông, hơn nữa dưa chuột năm đó rất đắt. Tôi tặng ông một tặng phẩm nho nhỏ mà vị chủ nhân của tôi đã phòng xa trước giao cho tôi. Vị chủ nhân biết quá rõ thói quen của các nhà khoa học hỏi xin các vị khách đến thăm một tặng phẩm nào đấy.

Tôi cũng gặp một nhà khoa học khác, thử biến đổi băng thành thuốc súng bằng cách nung nó trong ngọn lửa rất mạnh. Ông cũng cho tôi xem công trình do ông viết về tính dễ rèn của ngọn lửa mà ông dự tính công bố.

Ở đó còn có một kiến trúc sư đầy sáng tạo đã nghĩ ra phương pháp xây dựng nhà mới. Công việc xây dựng phải được bắt đầu từ mái và kết thúc ở móng. Ông biện bạch với tôi là phương pháp này xuất phát từ việc học tập hai côn trùng thông minh, ong và nhện.

Ở đó có một người bị mù từ khi mới đẻ. Một số học sinh mù học cách trộn màu cho một nhà hội họa dưới sự hướng dẫn của ông. Giáo sư dạy họ nhận biết màu sắc bằng khứu giác và xúc giác. Tiếc thay những con người này không thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, còn chính giáo sư cũng thường xuyên nhầm lẫn. Nhà bác học ấy lại được các đồng nghiệp của mình hết sức kính trọng.

Trong căn phòng khác, tôi đã hết sức vui mừng khi gặp một nhà lập đề án lớn, khám phá ra phương pháp cày ruộng nhờ lợn. Phương pháp này hẳn đã giảm chi phí cho các nhà trồng trọt vào những công việc cày ruộng, nuôi gia súc kéo và thuê thợ cày. Phát minh đó như sau: trên cánh đồng, bạn hãy đào hố sâu xuống chừng tám inch và cách nhau chừng sáu inch, bỏ xuống đó hạt dẻ, chà là, hạt sồi và các loại rau quả khác mà lợn rất thích. Sau đó bạn hãy đuổi vào cánh đồng ấy một đàn chừng sáu trăm con lợn hoặc hơn nữa. Trong vài ngày, để tìm kiếm các thứ rau quả chôn vùi, chúng sẽ đào xới đất, làm cho đất tơi xốp có thể gieo trồng được. Đồng thời chúng sẽ bón phân cho đất. Sự thật, qua kinh nghiệm cho thấy cách sử lý đất như thế này gây ra khá nhiều phiền toái và các chi phí trong khi năng suất thu hoạch chẳng có gì hứa hẹn. Tuy nhiên, tất cả tin phát minh này nếu được hoàn thiện nữa chắc sẽ cho lợi nhuận lớn.

Tôi rẽ vào phòng tiếp theo, ở đó tường và trần nhà chăng đầy mạng nhện. Chỉ có một lối đi hẹp ở giữa cho nhà phát minh. Khi tôi vừa mới xuất hiện ở cửa, nhà bác học đã kêu lớn để tôi cẩn thận hơn và không làm hỏng mạng nhện của ông. Ông bắt đầu than thở về những nhầm lẫn mà ngày xửa ngày xưa loài người đã mắc phải. Từ trước đến nay, mọi người vẫn phải sử dụng tơ của tằm dâu. Trong khi đó, thuộc quyền sử dụng của chúng ta còn vô số côn trùng mà về khả năng của chúng thì ưu việt hơn tằm dâu rất nhiều, những con tằm thì chỉ nhả tơ, còn chúng thì nhả cả tơ và dệt nữa. Hơn nữa ông nói tiếp rằng, thay thế tơ tằm bằng tơ nhện chúng ta sẽ tránh mọi chi phí nhuộm màu cho vải. Tôi cũng tán thành với ông, khi ông chỉ tôi vô số con ruồi nhiều màu sắc dùng để nuôi nhện. Theo lời ông, màu sắc của các con ruồi ấy phải được truyền cho vải tơ nhện được làm ra. Bởi vậy, nhà bác học sắp xếp ruồi thành các loại màu khác nhau với hy vọng sẽ thỏa mãn sở thích của bất kỳ người tiêu dùng nào. Ông chỉ còn phải đi tìm loại thức ăn thích hợp cho ruồi dưới dạng keo gỗ và các chất khác có thể tạo cho tơ nhện độ dày và độ bền[1].

Ở đó có một nhà thiên văn có ý định đặt đồng hồ mặt trời lên mũi tên lớn chỉ hướng gió của tòa thị chính. Để làm việc đó, ông cần phải tính toán chính xác các trường hợp chuyển động hàng ngày và hàng năm của trái đất cùng các thông số ngẫu nhiên liên quan đến hướng gió.

Tôi còn đi thăm nhiều phòng khác nữa nhưng tôi không muốn làm phiền bạn đọc bởi việc mô tả các vật kỳ lạ mà tôi đã nhìn thấy. Tôi chỉ muốn dừng lại ở hoạt động của một nhà bác học nổi tiếng, được đặt biệt danh là "thiên tài vạn năng". Theo lời ông, ông đã dành ra ba mươi năm để cải thiện cuộc sống của con người.

Ông chiếm trọn hai căn phòng lớn, chứa đầy những vật hết sức kỳ lạ, năm mươi người thuộc hạ làm việc dưới sự điều khiển của ông. Một số thì cô không khí thành một chất đặc, rồi rút từ đấy ra diêm tiêu và chắt lọc các phần tử chứa nước[2], một số khác, nghiền tán đá hoa để làm nệm và đệm cài kim găm, số thứ ba cố gắng bổ sung cho pháo đài những hòn đá làm bằng móng ngựa sống để pháo đài thêm vững chắc. Còn bản phần nhà bác học lúc đó đang bận nghiên cứu hai phát minh vĩ đại. Thứ nhất, đó là gieo thóc lép, mà trong thóc lép theo ý kiến ông chứa đựng một năng suất chính. Ông chứng minh điều đúng đắn của ý kiến này bằng vô số thí nghiệm mà do sự dốt nát của tôi, cuối cùng tôi vẫn hoàn toàn chẳng hiểu gì. Vấn đề thứ hai mà ông nghiên cứu giải quyết, đó là chế tạo một loại mỡ bôi có các thành phần hết sức phức tạp. Nhờ thứ mỡ bôi này mà có thể làm cừu non ngừng mọc lông. Nhà bác học hi vọng một tương lai không xa sẽ nhân giống loại cừu trần trụi trên khắp vương quốc.

Trong những căn nhà ở mặt kia của đường phố đặt phân Viện của Viện Hàn Lâm, ở đó có các nhà lập dự án về nghiên cứu khoa học trừu tượng.

Vị giáo sư đầu tiên mà tôi gặp ở đây làm việc trong một căn phòng lớn với bốn mươi học sinh vây quanh. Chúng tôi chào nhau và tôi bắt đầu đi thăm quan căn phòng. Tôi rất kinh ngạc trước một khung rộng chiếm phần lớn căn phòng. Nhận thấy điều đó vị giáo sư giải thích cho tôi là ông nghiên cứu tạo ra một dụng cụ cơ khí đặc biệt dùng để khám phá các chân lý trừu tượng. Ông cho rằng các ý định loại này ngay từ lúc ban đầu có thể khiến tôi kinh ngạc. Nhưng ông hoàn toàn không nghi ngờ gì về việc ngay lập tức thế giới sẽ đánh giá đầy đủ dự án của ông. Chưa từng có một ý tưởng vĩ đại và cao quý nào hơn nảy sinh ra trong đầu của ai đó. Mỗi người, ai cũng đều biết là nghiên cứu khoa học và nghệ thuật theo phương pháp phổ biến khó như thế nào. Hơn nữa nhờ phát minh của ông, một người dốt nát và bất tài nhất chỉ hao tổn sức lực và tiền của không lớn cũng có thể viết sách về triết học, thơ ca, chính trị, luật, toán học và thần học. Sau đó ông dẫn tôi tới bên khung lớn có các học trò của ông đứng cạnh. Khung này có diện tích hai mươi foot vuông và được đặt ở chính giữa phòng. Mặt của khung cấu tạo từ vô số các bảng gỗ nhỏ, mỗi cái có kích thước bằng con xúc xắc - một số lớn hơn, một số khác nhỏ hơn. Tất cả được liên kết với nhau bởi một dây thép nhỏ. Các bảng có dán một mẩu giấy, trên các mẩu giấy ấy có ghi tất cả các từ bằng ngôn ngữ Balnibarbi dưới các dạng, thời và cách khác nhau, nhưng không theo một trật tự nào cả. Giáo sư yêu cầu thận trọng bởi vì ông định cho cỗ máy của mình chạy. Theo lệnh ông, các học sinh nắm lấy các tay nắm bằng sắt được lắp ở viền khung và quay nhanh chúng. Tất cả các bảng quay chuyển động và sự sắp xếp các từ hoàn toàn thay đổi. Khi đó giáo sư ra lệnh ba mươi sáu học sinh đọc chậm các dòng chữ được hình thành theo trật tự sắp đặt trong khung. Nếu như xảy ra việc ba hay bốn chữ tạo thành một phần của câu có ý nghĩa, thì người ta đọc nó cho bốn học sinh còn lại thực hiện vai trò người chép lại. Sự luyện tập này thực hiện lặp đi lặp lại ba hoặc bốn lần. Cỗ máy được thiết kế sao cho sau mỗi lần quay các bảng và xê dịch chúng thì các từ được sắp đặt lại theo một kiểu mới.

Các học sinh thực hiện các bài luyện tập sáu giờ một ngày và vị giáo sư chỉ cho tôi xem vô số cuốn sách to ghi lại các đoạn câu tương tự. Trên cơ sở các tài liệu phong phú này, giáo sư dự định biên soạn một bài tổng quát chung đầy đủ tất cả các khoa học và nghệ thuật. Hoàn toàn dễ hiểu là nhiệm vụ của ông sẽ nhẹ nhàng đi rất nhiều nếu như ông thu thập đủ số tiền để trang bị năm trăm cỗ máy như thế ở Lagado và bắt những người chỉ đạo thu thập các câu do máy đó thực hiện. Ông kể cho tôi biết rằng phát minh này ngay từ những năm còn trẻ đã thu hút mọi suy tưởng của ông. Hiện nay, trên các bảng con của cỗ máy đã ghi lại được một cuốn từ điển đầy đủ về ngôn ngữ Balnibarbi. Hơn thế nữa ông có thể tính chính xác tỷ lệ các danh từ, động từ và các thành phần khác của ngôn ngữ được sử dụng trong cuốn sách.

Tôi tỏ lòng biết ơn sâu sắc con người đáng kính trọng này vì nhã ý của ông đã cho tôi biết bí mật của phát minh vĩ đại, và tôi hứa rằng khi nào đó tôi được trở về Tổ quốc sẽ suy tôn ông là nhà phát minh duy nhất của chiếc máy kỳ diệu này. Tôi yêu cầu ông cho phép vẽ lại cỗ máy này. Tôi nói với ông rằng mặc dù ở châu Âu giữa các nhà bác học có thói quen ăn cắp phát minh của nhau, nhưng tôi hứa sẽ thi hành mọi biện pháp để danh tiếng của phát minh này sẽ lấn át tất cả đi không ai có thể bài bác nó được.

Sau đó chúng tôi đi sang trường ngôn ngữ. Ở đó có ba giáo sư đang thảo luận những dự án khác nhau để hoàn thiện ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ. Dự án đầu tiên đề nghị làm đơn giản hóa ngôn ngữ hội thoại, chuyển đổi tất cả các từ đa âm tiết thành các từ đơn âm tiết và vứt bỏ các động từ và hình động từ. Tác giả chỉ ra rằng chỉ có danh từ mới phù hợp với các đối tượng danh từ. Dự án thứ hai đòi hủy bỏ hoàn toàn tất cả các từ. Tác giả dự án này vin cớ chủ yếu do lợi ích của anh ta đối với sức khỏe và tiết kiệm thời gian. Hoàn toàn hiển nhiên là phát âm các từ làm mỏi cổ họng và phổi và do vậy làm rút ngắn tuổi thọ của chúng ta. Còn bởi thực chất từ chỉ là gọi tên các đồ vật, vậy tiện lợi hơn cả là mang trên người các đồ vật cần thiết để thể hiện tư duy và nguyện vọng của chúng ta.

Phát minh này rất có lợi cho sức khỏe và chắc chắn sẽ được phổ biến rộng rãi. Nhưng giới phụ nữ thông đồng với đám dân đen đe dọa nổi dậy khởi nghĩa. Họ kiên quyết yêu cầu sao cho ngôn ngữ được tự do hoàn toàn. Sự thật, đám dân đen là kẻ thù không đội trời chung của khoa học. Hơn nữa, nhiều nhà bác học và những con người thông thái sử dụng phương pháp giao tiếp mới nhờ các đồ vật. Tình trạng bất tiện duy nhất của nó là những người cùng nói chuyện gặp nhau ai cũng vác theo một cái tay nải lớn có các đồ vật khác nhau cần thiết cho việc hội thoại. Tôi cũng đã có dịp nhìn thấy hai con người thông thái như thế còng lưng xuống như những người bán hàng rong dưới sức nặng của bao tải lớn đồ vật. Khi gặp nhau trên đường phố, họ bỏ bao tải khỏi vai, mở chúng ra và lấy các đồ vật cần thiết để tiến hành cuộc nói chuyện như vậy. Sau đó họ sắp xếp lại bao tải đồ, vác lên vai, chào nhau và chia tay.

Hơn nữa đối với các cuộc nói chuyện ngắn gọn và không mấy phức tạp lắm có thể mang tất cả đồ vật cần thiết trong túi hoặc dưới nách, còn khi nói chuyện trong tình huống ở nhà thì tất cả những khó khăn tương tự sẽ dễ dàng bị loại bỏ. Chỉ cần xếp đầy phòng những đồ vật đa dạng nhất ở nơi mà những người theo thứ ngôn ngữ này tụ hội.

Điểm ưu việt nhất của ngôn ngữ này là tính quốc tế của nó. Ở tất cả các dân tộc văn minh đồ gỗ và các đồ đạc trong nhà cũng khá giống nhau. Nhờ đó các sứ thần có thể dễ dàng nói chuyện với quốc vương và các vị thượng thư nước ngoài nhờ có các đồ vật trong khi họ hoàn toàn không biết ngôn ngữ của nhau.

Tôi cũng đã đến thăm cả trường toán. Ở đây, việc giảng dạy cũng tiến hành theo phương pháp dường như cũng có ở châu Âu chúng ta. Mỗi một định lý cùng với phần chứng minh được chép lại một cách cẩn thận vào một viên thuốc nhỏ bằng thứ mực là thuốc nước chống đau đầu. Học sinh nuốt viên thuốc đó lúc đói và ba ngày sau đó không ăn gì ngoài bánh mỳ và nước lã. Khi viên thuốc được tiêu hóa, thuốc nước sẽ dâng lên não của học sinh và đưa theo cả định lý. Tuy nhiên đến nay kết quả của phương pháp này cũng không đáng kể. Một phần người ta giải thích là do có sai sót gì đó trong việc xác định liều lượng và thành phần của thuốc nước, một phần, do tính nghịch ngợm của các cậu bé rất thù địch với loại thuốc viên này, chúng thường đi ra một phía và ngay lập tức nhổ nó ra. Hơn nữa đối với chúng không thể nào tuân theo quy tắc ba ngày ăn chay bắt buộc để cho thuốc nước ngấm được.



Chú thích:

[1] Vào năm 1710 một người Pháp tháo vát tên là Bon đã xuất bản một cuốn sách mỏng trong đó đề ra phương pháp sản xuất tất và găng tay từ tơ nhện. Những thí nghiệm tương tự tuy không mang tới kết quả nhưng vẫn tiếp tục cho mãi sau này.

[2] Vào thời của Swift người ta chưa còn biết rõ thành phần của không khí.


Chương VI

Tiếp tục mô tả Viện hàn lâm. - Tác giả đưa ra một số cải tiến được mọi người tiếp thu với lòng biết ơn.

Trong trường của những nhà lập dự án chính trị tôi được đón tiếp không lịch sự lắm. Hơn nữa các giáo sư trong trường này theo cách nhìn nhận của tôi là những người hoàn toàn bị mất trí và cảnh tượng ấy luôn luôn đập vào mắt tôi. Những kẻ tìm tòi bất hạnh này có thể thuyết phục các quốc vương chọn lựa những người sủng ái trong số những con người thông minh, có năng lực và có đức hạnh; dạy các vị thượng thư quan tâm đến lợi ích chung, chỉ ban thưởng những người có cống hiến xuất sắc cho xã hội, những quyền lợi chân chính của họ phù hợp với quyền lợi của nhân dân và trao chức vụ chỉ cho những người xứng đáng. Vô số những mơ tưởng hầu như kỳ quặc và không thể thực hiện được hoàn toàn xa lạ với những con người có đầu óc bình thường lại được sinh ra trong đầu của những kẻ mất trí này[1]. Khi theo dõi họ, lại một lần nữa tôi tin vào tính đúng đắn của một câu châm ngôn cổ, là trên thế gian này không có những điều phi lí nào mà không có các trợ thủ của mình trong số các nhà triết học.

Tuy nhiên, tôi cũng cần phải đánh giá đúng đắn phần việc này và thừa nhận rằng ở đây không phải tất cả các nhà bác học là những kẻ mơ mộng như vậy. Tôi đã được làm quen với một tiến sĩ rất thông minh, người đã nghiên cứu tự nhiên và cơ chế điều hành quốc gia đến mức hoàn thiện. Đó là một người nổi tiếng nghiên cứu có kết quả việc tạo ra các thuốc mới chữa khỏi các bệnh cả về thể xác và đạo lý, làm đau đớn những đại diện của quyền lực. Xuất phát từ quan niệm cho rằng cơ thể của người và nhà nước có sự giống nhau hoàn toàn, ông khẳng định rằng những bệnh tật do chế độ nhà nước gây nên - những tật xấu của nhà cầm quyền và sự trụy lạc của những người điều hành - cần chữa trị nhờ những thuốc chữa bệnh gây nên bằng các nguyên nhân thực thể. Ai cũng biết là các nguyên lão nghị viện thường mắc bệnh văn chương dài dòng, tính dễ nổi nóng và những thói xấu khác nữa; những bệnh của não và đặc biệt của tim; chúng co giật mạnh cùng với sự co rút đau đớn các dây thần kinh và hệ cơ của cả hai tay và đặc biệt ở tay phải[2]; chứng tiết nhiều mật, chóng mặt, hoang tưởng; các u tràng nhạc, ăn khỏe, bội thực và hàng loạt các bệnh khác mà không thể nào liệt kê ra hết được. Bởi thế vị giáo sư tiến sĩ đề nghị: tất cả các lần triệu tập nghị viện, cử một số bác sĩ có kinh nghiệm làm công cán trong ba phiên họp đầu tiên. Khi kết thúc các buổi thảo luận những bác sĩ này nhất thiết phải bắt mạch ở tất cả các nguyên lão nghị viện và theo dõi họ. Xác định được ai trong số đó mắc bệnh gì sau khi khám cẩn thận, trong ngày thứ tư các bác sĩ phải xuất hiện sớm trong buổi họp, trước khi khai mạc phiên họp trao cho mỗi nghị viện: thuốc an thần, thuốc nhuận tràng, thuốc tẩy, thuốc đắng, thuốc chát, thuốc làm suy nhược, thuốc chống đau đầu, thuốc chống tiết mật, thuốc chống ráy tai, tùy theo loại bệnh. Sau khi kiểm tra tác dụng của các thuốc này, trong phiên họp sau bác sĩ phải cho uống tiếp hoặc thay thuốc hoặc ngừng uống thuốc.

Thực hiện dự án này vào cuộc sống không đòi hỏi các chi phí lớn, hơn nữa dự án ấy theo ý kiến khiêm tốn của tôi có thể đem lại nhiều lợi ích cho các nước; mà thượng nghị viện tham gia vào việc lập pháp: đem lại sự nhất trí, giảm bớt hội họp, mở miệng của một số người hiện nay đang ngậm, làm im mồm những kẻ xưa này vẫn nói nhiều hơn cả, làm giảm tính bồng bột của tuổi trẻ và làm mềm dịu tính cứng rắn của tuổi già, làm thức tỉnh những kẻ ngu đần, làm nguội bớt những người nóng nảy.

Dự án thứ hai của nhà bác học thâm thúy này như sau: mọi người phàn nàn rằng những cận thần của quốc vương đều mắc bệnh trí nhớ kém. Bởi thế giáo sư đề nghị mỗi người khi được đến triều kiến ở tể tướng, sau khi trình bày thật ngắn gọn và rõ ràng nhất thực chất của công việc, khi từ biệt hãy kéo mũi ông ấy hoặc đạp cho ông ấy một đạp vào bụng, hoặc đụng đến chỗ đau, hoặc béo tai, hoặc dùng kim găm chọc, hoặc véo tay đến bầm tím để khắc phục tính hay quên của bậc tể tướng. Nên lặp đi lặp lại thao tác đó trong mỗi lần bệ kiến khi điều thỉnh cầu còn chưa được thực hiện, hoặc khi chưa nhận được lời từ chối dứt khoát.

Ông còn đề nghi mỗi một vị nguyên lão nghị viện sau khi phát biểu xong ý kiến của mình thì bỏ phiếu cho ý kiến đối lập trực tiếp. Ông cam đoan rằng khi tuân theo nguyên tắc này kết quả bỏ phiếu sẽ luôn luôn có lợi cho xã hội.

Nếu sự chia bè phái có tính chất khá gay gắt, ông đề xuất một biện pháp quan trọng để lập lại trật tự. Cần phải lấy hàng trăm người của mỗi phái, phân chia thành từng cặp sao cho đầu của những người trong từng cặp có cùng một cỡ. Sau đó hai nhà phẫu thuật cưa đồng thời phần chẩm của cả hai người hai cặp và đổi chẩm của người này cho người kia. Sự phẫu thuật ấy đòi hỏi độ chính xác hết sức cao, nhưng giáo sư làm chúng tôi tin rằng nếu như phẫu thuật được tiến hành tốt thì bảo đảm cho việc bình phục: hai nửa não được lấy từ những người thuộc các phe phái đối địch và được gắn chặt trong phạm vi của một hộp sọ, sẽ nhanh chóng đi đến thống nhất tốt đẹp và kết hợp với nhau. Khi đó trong các đầu của những người chịu tác động của cuộc giải phẫu này sẽ có tính điều độ đúng mực, cần thiết đối với những người hình dung rằng mình có trách nhiệm điều khiển thế giới. Sự thật cũng có nỗi lo lắng nếu lắp não của một người ngu vào đầu của một người thông minh thì người kia cũng sẽ trở thành ngu đần. Nhưng tiến sĩ tin rằng trí thông minh lẫn khả năng của những thủ lĩnh các phe phái đối lập thường rất ít và do đó chẳng cần mảy may chú ý gì tới điều đó.

Tôi cũng có mặt khi có cuộc tranh cãi kịch liệt giữa hai giáo sư về việc làm thế nào để thu thuế một cách nhẹ nhàng và dễ dàng hơn, sao cho dân chúng không cảm thấy gánh nặng của thuế má. Một giáo sư khẳng định rằng hợp lý hơn cả là thu thuế các thói xấu và tệ nạn, còn vấn đề quyết định thu bao nhiêu của ai thì do một Ủy ban đặc bịêt của dân địa phương, tất nhiên những người này có thể đánh giá không thiên vị những thói xấu của láng giềng. Giáo sư thứ hai bảo vệ cho ý kiến đối lập; sự thu thuế cần phải đánh vào tính cách tâm hồn và thể xác mà người ấy đánh giá mình cao hơn cả: lượng thuế được xác định bởi chính người nộp phụ thuộc vào ý kiến của anh ta về bản thân. Thuế đánh cao vào tài hóm hỉnh, lòng dũng cảm và tính lễ độ.Tuy nhiên danh dự, tính công bằng, thông minh và trí thức không phải nộp thuế vì rằng việc đánh giá chúng khá chủ quan và không thể nào tìm thấy người nào thừa nhận chúng có ở những người xung quanh mình hoặc giả đánh giá chúng ở bản thân mình một cách đúng đắn.

Vị giáo sư khác đã chỉ cho tôi xem một tuyển tập lớn về các phương pháp khám phá bí mật các vụ âm mưu. Ông giới thiệu cho các bậc trí giả của quốc gia biết những kẻ bị tình nghi ăn uống như thế nào, thời gian nào họ ngồi vào bàn, ngủ nằm nghiêng bên nào và thu thập những tin tức đại loại như vậy về cuộc sống thường ngày của họ.

Tất cả những điều nghị luận được ghi lại với tính chất sâu sắc cao và chứa đựng trong đó nhiều quan sát có ích, đáng chú ý cho những chính khách, mặc dù những quan sát ấy đối với tôi dường như chưa thật đầy đủ. Tôi đánh bạo nói với tác giả về điều đó và đề nghị nếu ông muốn, tôi sẽ bổ sung một số điểm. Ông chấp nhận đề nghị của tôi với lòng biết ơn sâu sắc như điều thường xảy ra ở các nhà văn và đặc bịêt ở người thảo dự án, và tuyên bố rất vui lòng tiếp nhận những nhận xét của tôi vào tập tài liệu.

Khi đó tôi kể với ông ấy là ở vương quốc Tribnia mà thổ dân quen gọi là Langdon[3], nơi tôi ngẫu nhiên có mặt trong một chuyến du lịch, phần lớn dân chúng gồm toàn những chỉ điểm, nhân chứng, người cáo giác, nguyên cáo, người chứng kiến, các bồi thẩm cùng với vô số thuộc hạ và tay sau được các thượng thư và các trợ thủ của họ trả lương. Các vụ âm mưu trong vương quốc này thường là việc của những ai muốn đề xuất ra một chính sách tinh tế, củng cố thêm lực lượng mới trong các cơ quan chính quyền đã già cỗi, bóp nghẹt hoặc đánh lạc hướng sự bất mãn xã hội, nhét đầy hòm rương của mình những của cải tịch thu được, củng cố hay phá hoại lòng tin vào quốc gia tùy theo cái gì có lợi cho họ hơn. Trước hết, họ ước định với nhau ai trong số những người bị tình nghi dính líu vào vụ âm mưu; sau đó họ tung mọi phương tiện để thu thập tất cả các giấy tờ và thư từ của những người ấy và chính họ bắt những người ấy bỏ ngục Những giấy tờ và thư từ bị chiếm đoạt được giao vào tay các chuyên gia và những bậc thầy trong việc khám phá những ý nghĩa bí mật của các từ, các âm tiết và chữ cái. Chẳng hạn họ chẳng khó nhọc gì cũng xác minh được rằng đàn ngỗng ám chỉ nghị viện; chó đẻ là kẻ có tham vọng; cú vọ là tể tướng; bệnh thống phong là tổng giáo chủ; cái giá treo cổ là lục sự quốc gia; cái chổi là cách mạng; cái bẫy chuột là công vụ quốc gia; giếng không đáy là ngân khố; cái hố rác là triều đình, cái mũ của thằng ngốc là viên cận thần; cây sậy gãy là pháp Viện; thùng rỗng là vị tướng; vết thương đang mưng mủ là hệ thống quản lý.

Giáo sư nồng nhiệt cám ơn tôi vì những điều nêu ra này và hứa sẽ đưa tên tôi vào vị trí quan trọng trong bản luận văn của mình.

Chẳng còn gì khiến tôi quan tâm hơn nữa đến đất nước này và tôi bắt đầu nghĩ tới việc quay trở về Anh.

Chú thích:

[1] Ở đây dễ dàng thấy dưới hình thức chế nhạo ẩn náu những quan điểm đúng đắn của bản thân Swift.

[2] Swift ngụ ý chế giễu việc ăn hối lộ.

[3] Tribnia và Langdon – là cách hoán vị các chữ cái ám chỉ Britannia và London (Anh)




Chương VII

Tác giả rời Lagado. - Chuyến đi đến Maldonada. - Trên bến cảng không có một con tàu nào rời đi Luggnagg. - Tác giả thực hiện một chuyến đi ngắn đến Glubbdubdrib. Sự đón tiếp của nhà cầm quyền đảo này với tác giả.

Tôi có cơ sở để nghĩ rằng lục địa trên đó có vương quốc này nằm ở phía Đông của các vùng đã được nghiên cứu ở Châu Mỹ, kéo dài tới phía Tây California.; Thái Bình Dương nằm ở phía Bắc của lục địa. Nằm trên khoảng cách không quá một trăm năm mươi hải lý cách Lagado có một hải cảng tuyệt đẹp là Maldonada, nơi tiến hành các hoạt động buôn bán sôi động với hòn đảo lớn Luggnagg nằm ở phía Tây Bắc gần vĩ tuyến 29° Bắc và kinh tuyến 140° Tây. Đảo Luggnagg nằm ở Đông Nam Nhật Bản, cách chừng một trăm dặm Anh. Hoàng đế Nhật Bản và quốc vương Luggnagg đã ký kết liên minh và giữa những đảo này duy trì mối giao dịch thường xuyên. Bởi thế tôi quyết định đến Luggnagg với hy vọng qua Nhật Bản trở về châu Âu.

Để đến được Maldonada, từ đó tàu sẽ đưa tôi đến Luggnagg, tôi thuê một người dẫn đường với 2 con la. Sau đó tôi ghé thăm người bảo trợ tôi là Munodi, ông tặng tôi một món quà quý và tôi bắt đầu lên đường.

Chuyến đi này của tôi không có một chuyện phiêu lưu nào đáng kể cả. Trong chuyến đi đến Maldonada tôi không tìm được một con tàu nào rời đi Luggnagg. Ở cảng người ta nói với tôi rằng hành trình gần nhất đến hòn đảo đó sẽ có ít nhất là sau một tháng nữa. Cần phải chờ đợi. Tôi ghé vào khách sạn của thành phố. Ngay lập tức tôi đã bắt quen với một số người. Một nhà quý tộc nói với tôi rằng do chỗ tôi còn lưu lại đây ít nhất một tháng nữa, bởi vậy tôi nên tiến hành một cuộc hành trình đến hòn đảo nhỏ Glubbdubdrib, nằm cách đây năm dặm Anh về phía Tây Nam. Ông đề nghị sẽ đưa tôi đi cùng với bạn bè của ông và thực hiện chuyến đi đến đó trên một chiếc xuồng nhỏ tiện lợi.

Từ Glubbdubdrib khá dễ hiểu đối với tôi về mặt ngữ nghĩa của nó, có nghĩa là hòn đảo của các thầy phù thủy hoặc đồng cốt. Hòn đảo này nhỏ hơn đảo Wight[1] ba lần và rất giàu có, do một người đứng đầu bộ tộc chỉ gồm toàn các thầy phù thủy cai quản. Dân cư của đảo tiến hành hôn nhân chỉ trong nội bộ đảo và người cao tuổi nhất là nhà cầm quyền của đảo hay còn gọi là chúa đảo. Ông có một cung điện lộng lẫy với một khu vườn rộng chừng ba nghìn mẫu Anh, được bao bọc bởi một bức tường đá cao chừng hai mươi phút. Những khu vực đặc biệt, được rào giậu che kín dùng cho chăn nuôi, trồng lúa mì và làm vườn.

Những người hầu và người trong gia đình ông có hình dạng hơi không bình thường. Nhờ biết rõ thuật gọi hồn[2], chúa đảo có thể gọi những người chết theo ý muốn của mình và buộc họ phục vụ mình. Tuy nhiên quyền lực của ông trước người được gọi lên chỉ kéo dài không quá hai mươi bốn giờ; ngoài ra, không phải lúc nào cũng được gọi người đó mà chỉ ba tháng một lần.

Khi chúng tôi đến thăm đảo, lúc đó đã gần mười một giờ trưa. Một trong những người cùng đi với chúng tôi đến gặp chúa đảo để xin ông cho phép người nước ngoài đang hiện diện trên đảo niềm vinh hạnh được chúa đảo tiếp kiến. Chúa đảo ngay lập tức đồng ý.

Ở cả hai mặt của cổng cung điện có những người lính canh đang đứng, trang bị và ăn mặc theo kiểu rất cổ. Vẻ ngoài của họ có một cái gì đó gây cho tôi một nỗi sợ hãi không thể diễn tả nổi. Chúng tôi đi qua một số căn phòng, tại đó cũng có những người hầu như thế đứng thành hai hàng cuối cùng đến sảnh tiếp kiến. Tại đây chúng tôi tuân theo nghi lễ, ba lần khom người cúi chào. Người ta đặt cho chúng tôi một số câu hỏi không đáng kể và đề nghị ngồi xuống ba cái ghế đầu đặt ở bậc dưới cùng của ngai chúa đảo. Chúa đảo hiểu ngôn ngữ Balnibarbi và yêu cầu tôi kể chuyện những cuộc du lịch của tôi. Muốn cho tôi cảm thấy mình tự nhiên và thoải mái hơn, ông ra hiệu cho những người có mặt lui ra. Họ biến mất ngay lập tức giống như giấc mơ khi chúng ta bất chợt tỉnh giấc. Tôi gần như đờ người ra vì kinh ngạc và sợ hãi. Nhận thấy điều đó, chúa đảo bắt đầu làm cho tôi tin rằng tôi ở đây hoàn toàn an toàn. Sau khi thấy sự bình tĩnh hoàn toàn của hai người bạn đồng hành, tôi đã bình tĩnh lại một chút và bắt đầu mô tả một số chuyện phiêu lưu của tôi. Nhưng tôi không thể nào kìm được sự hồi hộp của mình, thường liếc nhìn vào chỗ mà những người hầu ma quỷ vừa biến mất.

Tôi được ban cho vinh dự cùng ăn trưa với chúa đảo. Một tốp người hầu mới đã phục vụ bàn và đưa món ăn cho chúng tôi. Tuy nhiên bây giờ tất cả điều đó không làm tôi sợ như là lúc sáng. Tôi lưu lại ở cung điện cho đến hoàng hôn. Chúa đảo mời tôi ở lại cung điện của ông. Nhưng tôi kính cẩn xin ông tha lỗi và nói rằng tôi đã có ý định ngủ đêm ở thành phố. Cùng với những người bạn của mình tôi đã ngủ đêm trong một căn nhà riêng ở thành phố nhỏ là thủ phủ của hòn đảo này. Sáng hôm sau chúng tôi lại đến chỗ chúa đảo kính thăm ông và đặt mình dưới quyền của ông.

Chúng tôi đã ở trên đảo mười ngày. Phần lớn thời gian chúng tôi ở tại cung điện của chúa đảo, còn ngủ đêm trong căn nhà ở thành phố. Tôi đã nhanh chóng làm quen với xã hội của những bóng ma và thần thánh; đến nỗi tới ngày thứ ba chúng không còn gây cho tôi một chút ngạc nhiên hay sợ hãi nào. Hơn nữa, cũng có thể tôi còn hơi sợ chúng một chút, nhưng sự tò mò đã lấn át mọi sợ hãi. Nhận thấy điều đó, chúa đảo đề nghị tôi nói xem tôi muốn nhìn thấy ai trong số những người chết cách đây không lâu và đã từ lâu. Ông hứa sẽ gọi họ và tạo cho tôi khả năng nói chuỵên với họ. Tất nhiên họ chỉ có thể nói về những gì lúc sinh thời của họ. Dù sao chúa đảo nói thêm, tôi có thể tin rằng tôi chỉ nghe thấy sự thật, bởi vì nghệ thuật nói dối hoàn toàn vô ích trong thế giới này.

Tôi kính cẩn tỏ lòng biết ơn của mình với chúa đảo về ân huệ to lớn này. Trong lúc đó, chúng tôi đang ở trong căn phòng nhìn ra một công viên tuyệt đẹp. Hoàn toàn dễ hiểu là tôi mong muốn thoạt tiên được thấy những cảnh tượng uy nghiêm và hùng vĩ. Tôi xin được thấy Alexander Đại đế[3] đứng đầu đạo quân của ông ta ngay sau trận đánh gần Arbela[4]. Và đây, theo hiệu lệnh bằng tay của chúa đảo, Alexander xuất hiện ngay trước mặt tôi trên bãi đất rộng trước cửa sổ mà chúng tôi đang đứng. Chúa đảo mời ông ta vào trong phòng. Tôi rất khó khăn mới hiểu ngôn ngữ Hy Lạp cổ của ông, còn ông hiểu rất kém tôi. Alexander thề với tôi rằng ông không bị đầu độc mà chết vì sốt do nghiện rượu gây nên.

Sau đó tôi được thấy Hannibal[5] trong thời gian hành quân của ông qua Alps[6], Hannibal giải thích cho tôi rằng trong trại quân của ông chẳng còn một giọt giấm nào.

Tôi cũng thấy Caesar và Pompeius [7] đang dẫn đầu quân lính của họ chuẩn bị bước vào chiến đấu. Tôi cũng nhìn thấy cả Caesar trong lễ khải hoàn cuối cùng của ông. Sau đó tôi yêu cầu dành cho một phòng của cung điện làm nơi nguyên lão Viện La Mã tụ họp, còn trong một phòng khác là nghị viện hiện nay. Tại phòng đầu dường như chỉ tụ họp các anh hùng và các vị bán thần, còn phòng thứ hai là nơi tụ tập của những kẻ buôn hàng rong, bọn móc túi, bọn kẻ cướp và du côn.

Theo yêu cầu của tôi, chúa đảo ra lệnh cho Caesar và Brutus lại chỗ chúng tôi. Tôi rất có thiện cảm với diện mạo của Brutus. Trong từng nét mặt của ông thoáng hiện một đạo đức cao cả, sự cực kỳ lãnh đạm và tính cứng rắn của tâm hồn, tình yêu cháy bỏng với Tổ quốc và lòng nhân đạo với con người. Tôi hết sức ngạc nhiên thấy rõ rằng cả hai con người này đối xử với nhau cực kỳ tốt đẹp. Caesar thừa nhận công khai với tôi rằng những chiến công vĩ đại mà ông đã thực hiện suốt cả cuộc đời mình không thể nào so sánh với niềm vinh quang của con người đã lấy mất cuộc sống của ông. Tôi có vinh dự được nói chuyện lâu với Brutus.

Hơn nữa, ông còn kể cho tôi biết rằng tổ tiên của ông là Marcus, Socrates, Epaminondas, Cato trẻ; ngài Thomas Moro[8] và bản thân ông không bao giờ xa rời nhau. Bộ sáu người này không thêm người thứ bảy trong toàn bộ lịch sử loài người.

Tôi đã làm độc giả mệt vì bảng liệt kê danh mục tất cả những người nổi tiếng được chúa đảo gọi lên để thỏa mãn nguyện vọng không bao giờ cạn là được thấy thế giới trong tất cả các thời đại của lịch sử cổ đại. Hơn nữa tôi đã được thỏa mãn bằng việc nhìn thấy tận mắt những người đã tiêu diệt các bạo chúa và những kẻ tiếm đoạt phục hồi tự do và quyền lợi chính đáng của các dân tộc bị áp bức. Nhưng tôi không thể truyền đạt được hết những tình cảm đã là tôi xao xuyến dưới hình thức khiến cho các độc giả thấy hấp dẫn.



Chú thích:

[1] Một hòn đảo nhỏ, cách bờ biển phía Nam đảo chính 5–8 km, trong eo biển Manche. (Wikipedia)

[2] Thuật gọi bóng ma của người đã chết để biết về tương lai của mình. Quan niệm mê tín này khá phổ biến thời cổ đại và trung đại.

[3] Alexandre Đại đế - hoàng đế Macedon (356-323 TCN), tướng lĩnh và là nhà lãnh đạo xuất sắc thời cổ đại.

[4] Trận đánh gần Arbela năm 331 (TCN), quyết định thắng lợi của quân lính Macedon trước quân Ba Tư.

[5] Gannibal - tướng lĩnh của Carphagen thể kỷ thứ III và II TCN, chiến đấu chống quân La Mã.

[6] Một trong những dãy núi lớn nhất châu Âu, trải dài từ nước Áo và phía Đông nước Slovenia; đi qua Ý, Thụy sỹ, Liechtenstein và Đức; đến phía Tây nước Pháp. (Wikipedia)

[7] Gaius Julius Caesar (thế kỷ I TCN) tướng lĩnh và nhà hoạt động chính trị của La Mã cổ đại đã thiết lập một chính thể độc tài cá nhân; Gnaeus Pompeius Magnus tướng lĩnh La Mã cạnh trang với Caesar; Gaius Julius Brutus – nguyên lão La Mã, kẻ đã giết Caesar.

[8] Marcus Junlus Brutus là cha của Caius Junlus Brutus. Socrates nhà triết học Hy Lạp vĩ đại (thế kỷ V TCN); Epaminondas là một vị tướng và là một chính khách người Thebes(Hy Lạp) ở thế kỷ thứ IV TCN, ông đã làm thay đổi bộ mặt thành phố Thebes, lãnh đạo nó chống lại sự nô dịch của người Sparta, và trở thành một nhà hoạt động chính trị xuất sắc của Hy Lạp cổ đại (Wikipedia); Cato trẻ - nhà hoạt động nhà nước La Mã, lãnh đạo phái quý tộc cộng hoà chống lại Caesar; Thomas Moro (1480 – 1535) nhà triết học và nhà hoạt động nhà nước nổi tiếng Anh, viết cuốn “Không tưởng” trình bày những suy nghĩ của mình về quốc gia lý tưởng tương lai.


Chương VIII

Tiếp tục mô tả Glubbdubdrib - Những sửa đổi đối với lịch sử cổ đại và cận đại.

Tôi đã để cả ngày nói chuyện với những bậc kỳ tài cổ đại: Homer và Aristotles[1]. Tôi đã nảy ra ý nghĩ mời những con người lừng danh ấy cùng những người giảng nghĩa của họ. Những người giảng nghĩa này tập hợp lại tới hàng mấy trăm người và họ buộc phải chờ ngoài sân và những phòng khác trong cung điện. Thoạt nhìn tôi đã nhận ra hai bậc thiên tài trong đám đông. Homer trông đẹp hơn và cao hơn Aristotles, trẻ hơn tuổi của mình với đôi mắt sống động và tinh anh lạ thường. Aristotles gù lưng và chống gậy. Ông có đôi má hóp, tóc thẳng, thưa và giọng oang oang. Ngay lập tức tôi nhận thấy là cả hai bậc kỳ tài ấy không nhận thấy và cũng không nghe nói gì về những người giảng nghĩa của họ. Một trong những bóng ma thầm thì vào tai tôi là trên đời này những kẻ giảng nghĩa còn kém rất xa những thiên tài ấy. Họ cũng nhận ra rằng họ đã xuyên tạc một cách kỳ quái những tác phẩm sâu sắc của các tác giả và họ thấy ngượng khi đến gần hai ông. Tôi giới thiệu Didymus và Eustathius[2] với Home và thuyết phục ông hãy đối đãi với họ tốt hơn cách cư xử mà đáng lẽ ra họ được hưởng, để ông sớm thấy được họ muốn có một thiên tài cảm nhận được cái thần của một bài thơ. Nhưng Aristole mất hết kiên nhẫn khi tôi đưa ông coi những quan điểm của Scotus và Ramus vì khi tôi giới thiệu họ với ông thì ông hỏi họ, "liệu trong số những người còn lại, có ai còn tối dạ như họ nữa hay không?"

Sau đó tôi đã xin chúa đảo cho mời Descartes và Gassendi[3], những người này đề nghị trình bày cho Aristotles những hệ thống của họ. Nhà triết học vĩ đại này đã công khai thừa nhận những sai sót của mình trong học thuyết về tự nhiên, bởi vì trong nhiều trường hợp những lập luận của ông đã dựa trên những điều phỏng đoán. Ông cũng nêu điều tiên đoán là Gassendi đã đề cao hết sức học thuyết của Epicurus[4] và Descartes với lý thuyết xoáy sẽ bị hậu thế phủ nhận một cách giống nhau. Ông cũng tiên đoán một phần của học thuyết trọng lực hiện được các nhà bác học đương thời bảo vệ một cách nhiệt thành cũng sẽ như vậy. Nhân đó ông nhận xét rằng những hệ thống mới của triết học tự nhiên cũng như giống như mốt mới, bị thay đổi theo từng thế hệ. Thậm chí các nhà triết học thử chứng minh và lập luận chứng cho các quan điểm của mình nhờ toán học, được tôn trọng chẳng bao lâu và không còn phù hợp với thời thượng nữa trong một thời hạn được định đoạt bởi số mệnh.

Trong năm ngày tiếp theo tôi đã tiến hành nói chuyện với nhiều nhà bác học thời kỳ cổ đại. Tôi đã trông thấy phần lớn các hoàng đế La Mã. Tôi xin chúa đảo gọi những người đầu bếp của Heliogabalus[5] lên để họ nấu bữa ăn trưa cho chúng tôi, nhưng vì thiếu các loại gia vị khác nhau nên họ không thể nào biểu diễn nghệ thuật nấu ăn của mình. Người nô lệ của Agesilaus[6] đã nấu cho chúng tôi món canh Spartan, nhưng sau khi nếm thử tôi không thể nào nuốt nổi thìa thứ hai.

Hai người bạn đã đưa tôi sang đảo, do có công chuyện nên ba ngày sau đã lên đường về nhà. Trong thời gian này tôi đã gặp gỡ những con người vĩ đại sống cách đây hai hoặc ba thế kỷ, là những người cùng Tổ quốc với tôi, hoặc của các nước châu Âu khác. Tôi bao giờ cũng kính trọng những người dòng dõi cổ và đã xin chúa đảo gọi một tá hoặc chỉ hai vị quốc vương cùng với tổ tiên của họ trong vài thế hệ. Nhưng tôi bị thất vọng không ngờ và đau đớn. Thay cho dòng dõi cao sang của những bậc mang vương miện tôi thấy có hai nhạc sĩ vĩ cầm, ba đình thần có tài xoay xở và một giáo chủ người Ý; còn của một quốc vương khác tôi thấy có thợ cạo, tu Viện trưởng và hai hồng y giáo chủ. Hơn nữa tôi đã quá kính trọng với bậc mang vương miện để có thể chú ý nhiều hơn vào đối tượng khó xử này. Dù sao đối với các bá tước, hầu tước, công tước và những người có chức tước tương tự, tôi chưa bao giờ ở trong tình trạng khó xử với họ. Xin thú thật là tôi cũng đã khá thỏa mãn khi thấy rõ nhiều đặc tính về bên ngoài và lối sống của những nhân vật quyền quý chúng ta được tiếp thu ở đâu. Tôi cũng chẳng khó gì để khám phá ra rằng, từ đâu mà trong một thế tộc lại có một cái cằm dài, tại sao trong một thế tộc khác trong hai thế hệ lại có nhiều kẻ bịp bợm, còn trong hai thế hệ tiếp theo lại là những kẻ ngốc nghếch; tại sao thế hệ thứ ba lại là những kẻ loạn óc, còn thế hệ thứ tư lại là những kẻ tráo trở. Như vậy tính tàn bạo, tính dối trá và tính hèn nhát đã trở thành những tính cách không kém phần đặc trưng của những đại diện của một số thế tộc, cũng giống như các gia huy mà họ dùng để trang điểm trên những bộ quần áo dấu của những kẻ hầu người hạ hoặc cánh cửa của những cỗ xe ngựa của họ.

Tôi đặc biệt cảm thấy ghê tởm đối với lịch sử cận đại. Tôi đã được quen biết thân cận với những người mà trong thế kỷ trước họ đã giành được vinh hiển trong cung đình. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy những kẻ bồi bút đã sa vào một thế giới đảo điên như thế nào khi gán những chiến công hiển hách cho những kẻ hèn nhát, những lời khuyên thông minh cho những thằng ngốc, tính trung thực cho những kẻ giả dối, lòng dũng cảm vô song cho những tên phản trắc, tính ngoan đạo cho những kẻ không tín ngưỡng, tính thành thực cho những kẻ cáo giác. Tôi cũng biết có nhiều người vô tội và ưu tú đã bị buộc tội chết hoặc đi đày chỉ vì các quỷ kế của các thượng thư hùng mạnh. Bao nhiêu tên bất lương được đặt vào các cương vị cao, được bọc kín bằng sự tin cẩn, quyền lực, danh dự và được hưởng các quyền lợi vật chất. Tôi có sự đánh giá thấp biết bao về trí thông minh và lòng trung thực của con người khi tôi có được những hiểu biết về các động cơ và nguyên cớ của các sự kiện và biến cố vĩ đại và cả về những cái ngẫu nhiên nhỏ bé nhưng lại được họ quy kết là những thành công của mình. Một vị tướng cho tôi biết là ông đã giành thắng lợi duy nhất chỉ do sự nhát gan và sự chỉ huy tồi, một đô đốc đứng trước mặt tôi tuyên bố là ông chiến thắng kẻ địch chỉ nhờ sự hiểu biết kém kẻ địch. Còn bản thân ông cũng đã chuẩn bị cho hạm đội của mình đầu hàng. Ba quốc vương đã tuyên bố với tôi là trong suốt thời gian giữ ngôi báu, họ chưa lần nào bổ nhiệm một người trung thực vào cương vị lãnh đạo nhà nước. Còn nếu những bổ nhiệm như thế xảy ra thì điều đó được giải thích là do sai sót hoặc sự phản bội của một thượng thư nào đó. Hơn nữa, họ còn thề thốt rằng sai lầm tương tự sẽ không lặp lại nếu một lần nữa họ lại lên ngai vàng. Họ chứng minh cho tôi một cách hết sức chắc chắn là chỉ có con người bị tha hóa tệ hại mới có khả năng giữ ngai vàng vì tính cách tốt, dũng cảm, kiên định chỉ gây rắc rối cho việc cai trị.

Tôi rất muốn biết người ta giành được các tước hiệu quý tộc và sự giàu có to lớn như thế nào. Trong những nghiên cứu của mình tôi không đụng chạm tới hiện tại vì sợ làm xúc phạm dù là người nước ngoài. (Tôi hy vọng rằng tôi không nói điều gì tương tự với độc giả, tất cả những gì mà tôi đã nói về việc này cũng chẳng liên quan chút nào tới Tổ quốc của tôi). Theo lời yêu cầu của tôi, người ta đã gọi nhiều người mà tôi quan tâm. Nhưng chính ngay sau những vấn đề tưởng chừng nông cạn nhất là một cảnh tượng đáng xấu hổ đến mức tôi không thể nào bình thản khi nhớ về điều đó. Sự phản phúc, sự áp bức, sự hối lộ, sự lừa dối và những cái tương tự là những phương thức dễ chấp nhận nhất được áp dụng ở đây. Nhưng khi một người trong số họ thừa nhận rằng đã đánh đổi Tổ quốc để lấy sự vênh vang và giàu có, còn người khác - nhờ sự đầu độc, còn phần lớn - là sự vi phạm pháp luật nhằm làm người vô tội khốn khổ, thì những khám phá này ( hy vọng độc giả sẽ tha thứ cho tôi điều này) đã làm giảm bớt phần nào tình cảm tôn kính thiêng liêng mà tôi, một con người nhỏ mọn thường có đối với các nhân vật có cương vị cao sang.

Tôi thường được đọc về những con người có công lớn đối với đức vua và Tổ quốc, và tôi muốn được gặp gỡ họ. Nhưng người ta trả lời tôi rằng tên tuổi của họ không thể nào tìm thấy trong các tài liệu lưu trữ dưới âm phủ. Sự thật, trong danh sách cũng có liệt kê một số người là những người chân chính giúp nước, nhưng lịch sử lại mô tả họ như những tên đại bịp và phản bội. Tôi xin được gặp họ. Tất cả họ xuất hiện trước mặt tôi trong dáng vẻ chán chường và áo quần rách rưới. Phần lớn họ nói cho tôi biết rằng họ qua đời trong tình trạng nghèo khổ và bị bạc đãi, đôi khi còn bị đưa lên đoạn đầu đài.

Tất cả những người được gọi lên từ thế giới này vẫn còn giữ được những dáng vẻ bên ngoài đến từng chi tiết nhỏ nhất. Khi so sánh dáng vẻ bên ngoài của họ với bề ngoài của những người đương thời, tôi đã đi đến kết luận hết sức đen tối về sự đồi bại của nhân loại trong thế kỷ gần đây.

Để kết thúc, tôi yêu cầu mời những cư dân Anh của thế hệ cũ. Những con người chưa bao giờ nổi danh vì sự giản dị trong phong cách, sự công bằng, lòng yêu tự do chân chính, lòng dũng cảm và tình yêu Tổ quốc. Khi so sánh những người đương thời với những người quá cố tôi không thể nào thờ ơ trước việc những đạo cao đức trọng của các bậc tiền bối lại bị con cháu họ làm nhơ bẩn. Trong khi vung những khoản tiền nhỏ mọn để giành lấy phiếu bầu cho mình ở nghị viện, những con người tham lam này thu thập tất cả những thói hư tật xấu mà người ta chỉ có thể học được ở cung đình[7].



Chú thích:

[1] Homer - nhà thơ cổ Hy Lạp, theo truyền thuyết, người đã viết các thiên anh hùng ca Hiad và Odisse (Thế kỷ IV và VIII trước công nguyên).

Aristoteles (384 - 322 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Ông được xem là người tạo ra môn luận lí học. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng.

[2] Didymus Chalcenterus (63 TCN - 10 SCN) học giả và nhà ngôn ngữ học (nhà ngữ pháp học) thời Hy Lạp cổ đại; Eustathius (1110 - 1198), sinh ra ở Constantinople, sau này trở thành Tổng giám mục Thessalonica. (Wikipedia)

[3] Rene Decartes và Pierre Gassendi - các nhà triết học Pháp nổi tiếng của thế kỷ XVII.

[4] Epicurus - nhà triết học Hy Lạp (thế kỷ IV- III trước Công nguyên)

[5] Heliogabalus - hoàng đế La Mã (thế kỉ III).

[6] Agesilaus - vua Hy Lạp ( của những người Spartaous)(thế kỷ IV trước Công nguyên).

[7] Việc mua chuộc cử chi và đút lót thực tế phổ biến rộng rãi vào thời kỳ đó, do đó đây là một trong những nguyên cớ mà Swift nhiều lần chế nhạo.


Chương IX

Tác giả quay lại Maldonada và bơi đến vương quốc Luggnagg - Tác giả bị bắt - Người ta mời tác giả vào cung đình - Thái độ khoan dung của quốc vương với các thuộc hạ của mình.

Cuối cùng cũng đã đến ngày trở về của chúng tôi. Tôi từ biệt vị chúa đảo Glubbdubdrib quay về Maldonada với hai người bạn đồng hành của mình9[1]. Ở đó đã có một con tàu sẵn sàng khởi hành đi Luggnagg. Những người bạn của tôi đã ân cần đưa tiễn tôi ra tàu sau khi cung cấp đầy đủ lương thực cho tôi. Tôi mất một tháng đi trên đường. Chúng tôi bị một cơn bão mạnh giữ chân và buộc phải thay đổi hành trình lên hướng Tây để đến được vùng có gió mậu dịch thổi suốt khoảng gần sáu mươi hải lý. Ngày 21 tháng Tư năm 1708 chúng tôi đã đi vào sông Clumegnig ở đầu mút Đông Nam Luggnagg. Ở cửa sông có một hải cảng lớn. Chúng tôi thả neo cách thành phố chừng một hải lý và xin hoa tiêu. Sau chừng nửa giờ có hai người hoa tiêu bước lên boong và dẫn tàu chúng tôi đi qua các rạn và đá ngầm theo một lối đi rất nguy hiểm vào một vịnh lớn kín đáo. Tại đây tàu có thể thả neo an toàn cách các bức tường của thành phố chừng một tầm10[2].

Có một kẻ nào đó trong số các thủy thủ của chúng tôi, chừng như có ý đồ xấu đã nói với các hoa tiêu là trong tàu có một người khách du lịch nước ngoài. Những hoa tiêu đã báo cáo điều này cho một nhân viên hải quan và anh ta theo dõi tôi cẩn thận khi tôi lên bờ. Nhân viên kiểm soát nói với tôi bằng tiếng Balnibarbi. Nhờ việc buôn bán sầm uất mà ngôn ngữ này được người ta biết khá tốt ở đây, đặc biệt giữa các thủy thủ và các nhân viên phục vụ trong hải quan. Tôi kể vắn tắt cho anh ta về một số chuyện phiêu lưu của tôi, cố gắng diễn đạt câu chuyện sao cho thật chân thực và mạch lạc. Nhưng tôi đã dự tính cần thiết phải che dấu quốc tịch của mình và xưng là người Hà Lan. Tôi đã có ý định đi đến Nhật Bản, mà như ai cũng biết, chỉ có người Hà Lan trong số người châu Âu là mới đến đây11[3]. Bởi thế tôi kể cho viên chức hải quan là tôi bị đắm tàu ở ven bờ Balnibarbi, tôi đã được đưa lên Laputa hay hòn đảo bay (về nó viên hải quan thường được nghe kể), và bây giờ tôi cố đi đến Nhật Bản với hy vọng từ đó quay trở về tổ quốc mình. Viên chức hải quan trả lời tôi rằng anh ta phải giữ tôi cho đến khi có lệnh từ cung đình. Anh ta hứa sẽ báo cáo lên đó và tin là sẽ có trả lời không muộn hơn hai tuần lễ nữa. Người ta dẫn tôi đến một nơi ở có đủ tiện nghi nhưng có lính canh ở cổng ra vào. Tuy nhiên tôi có thể tự do đi lại trong một cái sân rộng. Tôi chỉ được thả khi có lệnh của quốc vương do đó người ta đối xử với tôi khá tốt. Hàng ngày có rất nhiều người đến thăm bởi vì tiếng đồn về một người khách du lịch từ một đất nước khá xa xôi đến đây đã nhanh chóng loang đi cả thành phố.

Để có thể giải thích với các khách đến thăm, tôi mời một người trẻ tuổi cùng đi với tôi trên tàu đến đây làm phiên dịch. Anh ta là người sinh ở Luggnagg nhưng đã sống một số năm ở Maldonada và hoàn toàn nắm vững cả hai thứ tiếng. Nhưng những cuộc nói chuyện với những khách đến thăm chẳng có gì thú vị. Tôi chỉ trả lời các câu hỏi của họ.

Lệnh trả lời bản báo cáo đã đến vào đúng thời gian mong đợi. Trong đó có lệnh dẫn tôi cùng với đoàn tùy tùng với đoàn áp tải gồm mười người đến Traldragdubh hoặc Trildrogdrib (theo tôi nhớ thì từ này được đọc theo hai cách). Toàn thể đoàn tùy tùng của tôi chỉ có người thanh niên phiên dịch mà tôi đã thỏa thuận giúp tôi. Theo yêu cầu kính cẩn của tôi người ta cấp cho mỗi người chúng tôi một con la.

Một người chạy tin hỏa tốc được phái đi trước chúng tôi đem theo báo cáo về việc đến gấp của tôi và lời xin quốc vương ấn định ngày giờ, một khi người đoái lòng thương hại cho phép tôi được liếm bụi dưới chân ngai vàng của người. Phong cách ấy của cung đình ngày nay, mà dựa vào kinh nghiệm, tôi tin rằng đó không phải là những lời nói rỗng tuếch. Thực chất, hai ngày sau khi tôi đến đây, tôi được nhà vua cho vào tiếp kiến, người ta ra lệnh cho tôi bò sát bụng xuống sàn nhà và liếm sàn12[4]. Hơn nữa vì tôi là người nước ngoài nên đã được đặc ân: sàn nhà đã được lau bụi sao cho chỉ còn lại một ít. Điều đó được xem là một ân huệ lớn. Ân huệ này chỉ áp dụng cho các quan lại chức sắc cao. Nhưng nếu người được phép tiếp kiến long trọng này mà có nhiều kẻ thù hùng mạnh trong cung đình thì đôi khi người ta còn rắc bụi thêm lên sàn. Một lần tôi đã nhìn thấy một vị đại quan mà miệng ông ta dường như bị bụi lấp kín khi ông ta cuối cùng cũng bò được đến chân ngai vàng nhưng ông ta chẳng thể cầu xin được một lời nào. Những bụi này chỉ được phép nuốt đi bởi vì nhổ và lau miệng khi có mặt đức vua bị coi là tội rất nặng.

Ở đây còn có một tập tục mà tôi không thể nào tán đồng được. Khi đức vua quyết định cho kẻ nào đó trong số quan lại phải tội tử hình nhẹ và được đặc ân, y phải liếm một loại bụi độc màu nâu đặc biệt được rải lên sàn nhà. Sau khi liếm xong nó, kẻ bị kết tội chết sau hai mươi bốn giờ.

Nhưng có lẽ cũng nên đánh giá đúng ơn huệ to lớn của đức vua này là sự quan tâm của ngài tới các thuộc hạ của mình (về điều này các quốc vương ở châu Âu phải chăng nên bắt chước): sau mỗi lần xử tội như thế một mệnh lệnh nghiêm khắc ban ra, bắt rửa sạch sàn nhà của gian thiết triều. Trong trường hợp do thực hiện cẩu thả mệnh lệnh này những người hầu có nguy cơ bị đức vua trừng phạt. Bản thân tôi đã nghe thấy đức vua ra lệnh cởi trói cho một viên thị đồng trong phiên trực của mình đã cố ý không chăm chút làm sạch sàn nhà sau khi xử tội. Do sự không cẩn thận ấy mà một người trẻ tuổi giành được niềm tin cậy lớn của quan đại thần được vào triều kiến đã bị đầu độc. Hơn nữa, lúc đó đức vua hoàn toàn không có ý định giết người ấy. Nhưng đức vua giàu từ tâm ấy đã rủ lòng thương tha không đánh roi viên thị đồng và làm thỏa mãn người thanh niên ấy bằng lời hứa đơn giản là anh ta sẽ không được vào triều nếu không có lệnh đặc biệt của đức vua.

Tuy nhiên, chúng ta hãy quay về với câu chuyện của chúng ta. Khi tôi đã bò chừng bốn yard đến ngai vàng, tôi cẩn thận quỳ gối và đập trán xuống sàn nhà bảy lần và nói những lời sau đây đã học thuộc lòng từ hôm trước: "Inckpling gloffthrobb squut serummblhiop mlashnalt zwin tnodbalkuffh slhiophad gurdlubh asht". Lời chào này được luật định cho tất cả những ai được vua cho vào triều kiến. Có thể dịch nó như sau: "Muôn tâu bệ hạ, vầng mặt trời của bệ hạ sẽ sống lâu hơn vầng trăng mười một lần rưỡi". Sau khi nghe xong lời chào, đức vua ra cho tôi một câu hỏi mà tôi không hiểu. Nhưng tôi đã trả lời ngài như người ta đã dạy tôi: "Fluft drin yalerick dwuldom prastrad mirpush", có nghĩa là "Lưỡi của tôi ở trong khoang miệng người bạn của tôi". Bằng những lời này tôi làm người ta hiểu là tôi xin người ta lưu ý tới sự giúp đỡ của người phiên dịch của tôi. Khi đó người ta dẫn con người trẻ tuổi mà tôi vừa nhắc tới vào. Nhờ có anh ta tôi đã trả lời tất cả các câu hỏi mà đức vua của anh ta muốn đặt ra cho tôi. Tôi nói bằng tiếng Balnibarbi, còn người phiên dịch dịch lại tất cả những điều tôi nói bằng tiếng Luggnagg.

Đức vua rất thích tôi và ngài ra lệnh cho bliffmarklub của mình, nghĩa là cho viên trưởng thị vệ dọn một nhà trong cung cho tôi và người phiên dịch của tôi ở và lưu ý đến vấn đề ăn uống của chúng tôi. Hơn nữa đức vua còn ban riêng cho tôi một túi tiền vàng để tiêu pha lặt vặt.

Tôi sống ở đất nước này ba tháng trời. Đức vua ban cho tôi nhiều ân huệ. Ngài cho phép tôi ở lại đây mãi mãi và đưa ra đề nghị rất dễ nghe. Nhưng tôi thì lại cho rằng thông minh và công bằng hơn cả là quay về sống với vợ con.



Chú thích:

13[1] Hình như đây là một nhầm lẫn của Swift, vì trước đó hai người bạn chỉ ở lại có ba ngày rồi về trước (N.D).

14[2] Tầm ở đây bằng 1/10 hải lý, chừng 183 mét.

15[3] Sau cuộc đàn áp khởi nghĩa của những người Cơ đốc giáo năm 1637 người ta cấm cửa tất cả những người châu Âu vào Nhật Bản, chỉ trừ người Hà Lan.

16[4] Đoạn này Swift chế nhạo thói bợ đỡ, nịnh hót và khúm núm trước vua và các hoàng hậu, khá phổ biến ở cung đình George I và các nhà vua châu Âu khác.


Chương X

Lời khen đối với người Luggnagg - Mô tả chi tiết struldbrug - Cuộc trò chuyện của tác giả về struldbrug với một số người nổi tiếng.

Những người Luggnagg là một dân tộc lịch sự và dễ mến. Mặc dù họ có một chút kiêu ngạo như điều thường thấy đặc trưng cho các dân tộc phương Đông, nhưng dù sao họ cũng rất niềm nở với người nước ngoài, đặc biệt nếu người đó được phép của cung đình. Tôi đã có nhiều người quen trong số những người của xã hôi thượng lưu và nhờ có người phiên dịch mà tôi có thể nói chuyện với họ mà không kém phần dễ chịu.

Một lần tôi đang ở trong một nhóm những người thượng lưu. Trong câu chuyện, có một ai đó hỏi tôi là đã có gặp struldbrug hay là những người bất tử chưa? Tôi trả lời là chưa và yêu cầu giải thích cho tôi nghe cái từ nghe khó hiểu ấy là gì.

Người cùng nói chuyện với tôi rất ngạc nhiên khi biết là cho đến nay tôi chưa biết tí gì về các sinh linh kỳ lạ ấy và vội vã kể cho tôi nghe về chúng. Ngày xửa ngày xưa, thật ra là rất hiếm có một người Luggnagg nào đó đã sinh ra một đứa trẻ có một vết đỏ tròn trên trán ngay trên chỗ lông mày bên trái. Thoạt đầu vết đó có kích thước của đồng bạc ba xu, nhưng cùng với thời gian nó lớn lên và thay đổi cả màu sắc của nó. Khi đứa trẻ mười hai tuổi, nó có màu lục và vẫn như thế cho đến năm hai mươi lăm tuổi; sau đó màu sắc của vết chuyển sang màu xanh sẫm; vào năm bốn mươi lăm tuổi, vết ấy trở nên đen như than và kích thước lớn bằng đồng shilling[1] và nó cứ như thế mãi mãi. Những đứa trẻ sinh ra với cái vết như thế rất hiếm và trong cả vương quốc cũng không thể nào tìm được hơn một nghìn một trăm người trong cả hai giới. Có chừng năm mươi người sống ở thủ đô trong đó có cả bé gái mới sinh ra ba năm trước đây. Struldbrug có thể sinh ra ở bất cứ gia đình nào. Sự sinh ra ấy là việc ngẫu nhiên. Những đứa trẻ con của các struldbrug cũng chết như mọi người.

Thú thật là câu chuyện này khiến tôi phục ghê lắm. Một dân tộc hạnh phúc xiết bao! Ở đây mỗi đứa trẻ sinh ra đều có khả năng trở thành bất tử! Hạnh phúc biết bao đối với một dân tộc luôn có trước mặt mình những tấm gương sống của những phẩm hạnh của tổ tiên! Phúc đức làm sao đối với họ - những thầy giáo có thể học được trí thông minh, những kinh nghiệm giành được của một loạt thế hệ vô tận! Nhưng chính những struldbrug thanh cao mới hạnh phúc hơn trăm lần. Thiên nhiên loại khỏi họ cái phần đáng sợ đang chờ đợi mỗi con người, Họ không biết nỗi sợ hãi đau khổ của cái chết; sự suy nghĩ thường trực về cái chết không đè nặng lên đầu óc họ và nó phát triển tự nhiên và chẳng bị vướng bận cái gì.

Tôi biểu lộ sự ngạc nhiên là chẳng gặp bất cứ một con người vinh quang bất tử nào ấy ở cung đình. Vết đen trên trán hẳn là đập ngay vào mắt chẳng lẽ tôi chẳng hoàn toàn chú ý đến hay sao. Đồng thời không thế nào giúp đức vua, người khôn ngoan nhất trong số các quốc vương, lại không vây quanh mình những cố vấn có kinh nghiệm và thông minh như thế hay sao. Hơn nữa cũng có thể phẩm hạnh của những nhà hiền triết ấy lại quá khô khan và hoàn toàn không thể nào phù hợp với lối sống buông tuồng đang thống trị ở cung đình. Chính như chúng ta bằng kinh nghiệm cũng thấy thanh niên ngoan cố và khinh suất như thế nào, khi không muốn nghe những lời khuyên sáng suốt của những người lớn tuổi. Nhưng đức vua đã rủ lòng thương cho phép tôi tự do đến gặp ngài và tôi sẽ lợi dụng trường hợp thuận lợi đầu tiên để trình bày với ngài về vấn đề này.

Dù sao đi nữa bây giờ tôi biết ơn sâu sắc những ân sủng của đức vua cho phép tội cư trú mãi mãi trên vương quốc của ngài và tôi sẽ suốt đời tiến hành nói chuyện với những struldbrug nếu những sinh linh cao cấp ấy muốn cho phép tôi thâm nhập vào xã hội của họ.

Trong khi tôi hăng hái nói lên những lời này (cuộc nói chuyện diễn ra bằng tiếng Balnibarbi mà tôi biết khá tốt), người bạn tiếp chuyện tôi nhìn tôi với nụ cười biểu lộ sự thương hại đối với một kẻ ngây ngô chẳng biết gì. Khi tôi ngừng lại, ông nhận xét một cách lịch sự là có một số duyên cớ giữ tôi lại trong nước và xin dịch những lời nói của tôi cho những người đang có mặt. Tôi trả lời là tôi biết ơn ông vì điều đó. Câu chuyện của ông lôi cuốn sự chú ý chung, sau đó tất cả thảo luận sôi nổi. Tiếc thay tôi lại không biết tiếng địa phương và không thể theo những biểu hiện nét mặt để đoán xem những lập luận của tôi gây nên ấn tượng như thế nào. Cuối cùng người bạn tiếp chuyện quay sang tôi. Ông nói rằng ông và các bạn bè của ông rất khâm phục những nhận xét tinh tế của tôi về hạnh phúc lớn lao và các ưu thế của sự bất tử. Tuy nhiên họ rất muốn biết bản thân tôi sẽ xử sự thế nào nếu như quyền lực của số mệnh tôi sinh ra đã là struldbrug.

Tôi trả lời rằng tôi rất dễ thỏa mãn sự tò mò của họ. Thỉnh thoảng tôi mơ về sự bất tử và suy tưởng khá lâu xem tôi sẽ làm gì nếu như tôi biết chắc chắn là tôi sẽ bất tử.

Chẳng hạn, nếu tôi biết chắc chắn rằng tôi sẽ bất tử, trước hết tôi sẽ cố làm giàu. Nhờ có tính tằn tiện ở chừng mực nào đó và tính điều độ tôi có cơ sở hoàn toàn để có thể tính sau chừng hai trăm năm tôi sẽ trở thành người giàu có nhất vương quốc. Đồng thời ngay từ đầu tuổi trẻ tôi sẽ lao vào nghiên cứu khoa học và nghệ thuật và cuối cùng sẽ vượt xa hết thảy bởi sự uyên bác của chính mình. Cuối cùng tôi sẽ làm bộ thiên niên sử đầy đủ các sự kiện xã hôi nỗi bật nhất. Tôi sẽ bổ sung chính xác vào trong ghi chép của mình tất cả những thay đổi trong tập tục, trong ngôn ngữ, trong quần áo ngoài, trong ăn uống và trong vui chơi giải trí. Nhờ có những quan sát và kiến thức của mình dần dần tôi sẽ trở thành nhà hiền triết chân chính, cội nguồn của mọi trí thức dân tộc mình.

Sau sáu mươi tuổi tôi sẽ bắt đầu nghĩ tới lấy vợ. Trong khi vẫn tiết kiệm, tôi sẽ sống cởi mở và mến khách. Tôi sẽ tụ tập quanh mình những thanh niên có triển vọng nhất và thuyết phục họ dẫn dắt từ kinh nghiệm của bản thân, những quan sát và hồi tưởng để cho họ thấy những phẩm hạnh có lợi như thế nào trong đời sống riêng và xã hội.

Nhưng những người bạn bất tử của tôi sẽ là những bạn bè và những người bạn tiếp chuyện thường xuyên và tốt nhất của tôi. Trong số đó tôi sẽ lựa chọn cho mình mười hai người bạn bắt đầu từ các cụ già cao tuổi nhất và kết thúc là người cùng tuổi với tôi. Nếu như giữa họ cảm thấy cần thiết tôi sẽ ra lệnh xây cho họ những căn nhà tiện nghi chung quanh chỗ tôi ở. Xung quanh bàn của tôi thường xuyên tụ tập các bạn bè struldbrug và những người bạn bình thường có chọn lọc. Cùng với thời gian, tôi sẽ quen với cái chết của bạn bè và phải không có thú vị gì khi thấy con cháu của họ. Thế là chúng tôi lại ngắm nghía những bông hoa đinh hương và uất kim hương nở trong vườn của chúng tôi, chẳng bao giờ phiền muộn về những gì đã héo tàn từ mùa thu trước.

Những cuộc nói chuyện giữa chúng tôi mói có nội dung và thú vị làm sao! Chúng tôi những struldbrug - những người bất tử sẽ trao đổi những hồi tưởng và những quan sát được tích lũy sau nhiều thế kỷ. Chúng tôi sẽ nghĩ ra những biện pháp đấu tranh với những tật xấu của con người. Bằng tấm gương của chính mình chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục sự suy thoái không ngừng của nhân loại.

Cần thêm là thích thú biết bao khi nếu là người chứng kiến những biến chuyển vĩ đại trong các cường quốc và đế quốc, những chuyển đổi sâu sắc trong các tầng lớp xã hội từ cao nhất đến thấp nhất. Dưới mắt của các bạn những thành phố cổ sẽ biến thành bình địa, còn những xóm làng vô danh sẽ trở thành các thành đô đông đúc. Hãy nhìn xem những con sông đầy nước sẽ biến thành các con suối nhỏ, cả đại dương sẽ rút khỏi bờ này như thế nào còn bờ kia thì bị tràn ngập ra sao. Các bạn sẽ thấy những nước khác nhau mà ngày hôm qua còn chưa từng biết nay được đưa vào bản đồ như thế nào. Các bạn hãy quan sát xem các dân tộc có văn hóa cao chìm đắm trong tàn bạo như thế nào còn các dân tộc man rợ sẽ dần dần lên tới đỉnh cao của văn minh ra sao. Còn những phát kiến vĩ đại nào mà các bạn mong đợi sẽ đến: sự phát minh ra động cơ vĩnh cửu[2], phát minh ra thuốc vạn năng chữa các loại bệnh hay là các phương pháp xác định kinh độ!

Tôi đã ba hoa trong khi mô tả tất cả niềm sung sướng và khoái cảm mà sự bất tử đem lại cho loài người. Khi tôi kết thúc và nội dung những lời tôi nói đã được dịch ra cho những người có mặt, thì những người Luggnagg bắt đầu chuyện trò sôi nổi với nhau thỉnh thoảng lại nhìn tôi một cách nhạo báng.

Cuối cùng người bạn đóng vai trò phiên dịch cho tôi nói rằng tất cả yêu cầu ông giải thích cho tôi rõ chỗ sai lầm hoàn toàn trong các quan điểm của tôi.

Sai lầm mà tôi rơi vào được giải thích bởi một phần sự ngu ngốc đặc trưng cho loài người nói chung, còn một phần vì giống struldbrug tạo thành một đặc điểm đặc thù của đất nước họ. Những sinh linh tương tự không thể nào gặp ở Balnibarbi cũng như ở Nhật Bản. Người phiên dịch biết rất rõ điều đó bởi vì ông có vinh dự làm phái viên của đức vua ở hoàng cung Nhật Bản. Câu chuyện của ông về những struldbrug gây nên sự không tin rất lớn. Và cũng chính sự kinh ngạc như thế khi lần đầu tiên tôi nghe nhắc tới những người bất tử, bởi vì tôi thật khó tin là có tồn tại những con người tương tự.

Trong thời gian lưu lại ở các nước kể trên, ông đã nói chuyện lâu với những người dân địa phương và nhận thấy rằng sống lâu là nguyện vọng chung, ước mơ tha thiết của mọi người. Mọi người khi đã đặt một chân trong mộ thường cố gắng giữ được chân kia trên mặt đất vững hơn nữa. Những cụ già lụ khụ run lên hằng ngày và xem cái chết là điều tai hại nhất. Chỉ có cây trên hòn đảo Luggnagg chẳng có sự khao khát sống nào vì ở tất cả mọi người trước mắt đã có tấm gương của tuổi thọ - những struldbrug.

Cách sống bất tử như tôi vẽ ra hoàn toàn không thể có được. Nó đòi hỏi tuổi trẻ, sức khỏe và sức mạnh mãi mãi. Còn hy vọng vào điều đó thì chẳng có một con người nào có quyền như vậy, cũng như còn lâu lắm mới đạt được nguyện vọng của nó. Thật vậy, vấn đề ở đây không phải đề cập tới sự tận hưởng vĩnh hằng bằng tuổi trẻ và những lợi ích của nó mà đề cập tới việc làm cho cuộc sống kéo dài vô tận, thường chịu các đớn đau do tuổi già mang lại. Tất nhiên, không có nhiều người mong muốn thành bất tử trong những điều kiện như thế. Nhưng người tiếp chuyện với tôi nhận xét rằng ở Balnibarbi và ở Nhật Bản có cả những cụ già mặc dù bị khổ sở bởi tất cả các bệnh tật của tuổi già vẫn muốn tránh xa cái chết của mình. Và ông hỏi tôi là tôi cũng thấy chính hiện tượng ấy ở đất nước của mình hay không, còn ở các nước mà tôi đã đến thăm trong thời gian các chuyến du lịch của tôi cũng như vậy chăng.

Sau lời giới thiệu này ông mô tả chi tiết cho tôi những struldbrug đang sống giữa họ. Ông nói rằng cho đến năm ba trăm tuổi họ tuyệt nhiên vẫn không khác biệt với những người còn lại. Sau đó trở nên rầu rĩ và cau có.

Khi tới tám mươi tuổi mà ở đây coi là giới hạn của cuộc sống của con người, thường họ cũng như những người bình thường, biến thành các cụ già lụ khụ. Nhưng ngoài các loại bệnh tật và sự yếu đuối nói chung do tuổi già đem lại, ý thức về việc họ phải trả giá vĩnh viễn cho sự tồn tại đáng thương đè nặng lên đầu họ.

Những người bất tử không chỉ bướng bỉnh, hay gây gổ, tham lam, cau có, hám danh và hay đánh nhau, họ thậm chí không có khả năng cả trong tình bạn và tình yêu. Tình cảm tự nhiên gắn bó với những người thân ở họ không kéo dài quá các cháu. Sự ghen tỵ và các mong muốn không được thỏa mãn giày vò họ không ngừng. Trước hết họ ghen tỵ với các thói xấu của các thanh niên và cái chết của các cụ già. Khi nhìn vào sự vui tươi của tuổi trẻ họ cay đắng nhận ra rằng đối với họ mọi khả năng để có các khoái cảm đó đã bị tước mất. Người ta khóc lóc và than thở khi có tang lễ thì đối với họ chẳng có hy vọng gì cả để đạt được chốn nương thân yên tĩnh mà những người bình thường khác được yên nghỉ ở đó. Người nào bị mất trí và quay về với thời thơ ấu thì lại là người hạnh phúc nhất trong số những con người bất hạnh ấy. Họ gợi nên sự thương hại và thiện cảm nhiều hơn vì họ đã mắc nhiều tật xấu và khiếm khuyết vốn đặc trưng cho những người bất tử còn lại.

Nếu xảy ra chuyện struldbrug lấy một người phụ nữ làm vợ, cũng bất tử tương tự, thì cuộc hôn nhân này sẽ phải hủy bỏ khi người vợ lên tám mươi tuổi.

Khi những người bất tử tròn tám mươi tuổi, thì đối với họ cũng là sự kết thúc của quyền công dân. Những người thừa kế ngay lập tức nhận được tài sản của họ, Họ chỉ được giữ lại một khoản của cải không lớn cho mình: những người nghèo sống dựa vào giúp đỡ của xã hội. Khi tới tuổi này, các struldbrug bị xem là không còn khả năng để đảm nhận các chức vụ. Họ không được mua bán, cũng không được lĩnh canh đất đai, người ta cũng không để cho họ được làm chứng ở tòa án.

Đến tuổi chín mươi, những struldbrug bắt đầu rụng răng và tóc. Ở tuổi này họ không thể phân biệt mùi vị thức ăn và ăn uống tất cả những gì rơi vào tầm tay, bất chấp khoái cảm và mức độ ngon miệng. Những bệnh tật tuổi già tiếp tục giày vò họ không nặng lên và cũng không nhẹ đi. Dần dần họ bị mất trí nhớ. Trong lúc nói chuyện họ quên tên gọi của các đồ vật thông thường nhất, tên tuổi của bạn bè gần gũi và những người thân. Họ không còn hứng thú để đọc sách: họ quên đoạn câu đầu trước khi đọc hết cả câu. Như thế là họ mất cả sở thích duy nhất mà họ còn làm được.

Ngôn ngữ của đất nước này dần dần biến đổi. Những struldbrug sinh ra ở thế kỷ trước khó mà hiểu được ngôn ngữ của những người sinh ra ở thế kỷ sau. Sống đến năm hai trăm tuổi họ rất khó khăn mới có thể phát âm một vài câu đơn giản nhất. Cùng với thời gian họ tự cảm thấy mình là người nước ngoài ngay trên Tổ quốc mình.

Tôi đã nghe sự mô tả các struldbrug như thế ở người bạn tôi. Sau này tôi được tận mắt thấy năm hoặc sáu struldbrug có tuổi khác nhau. Người trẻ nhất trong số đó gần hai trăm tuổi. Những người bạn đã dẫn họ đến chỗ tôi đã cố công giải thích cho họ là tôi - một người du lịch vĩ đại và đã nhìn thấy cả thế giới. Tuy nhiên, đối với các struldbrug thì điều đó chẳng mảy may gây ấn tượng gì cho họ cả. Họ chẳng đặt cho tôi một câu hỏi nào như là tôi đã nhìn thấy gì hoặc đã trải qua cái gì. Họ chỉ quan tâm có mỗi một điều: tôi có tặng họ slomecuđask, nghĩa là quà tặng để kỷ niệm hay không. Đó là phương pháp tốt nhất để xin của bố thí. Bởi vì những struldbrug chịu sự cai quản của xã hội, họ bị cấm đi ăn xin. Những khẩu phần ăn của họ thật ít ỏi và vì thế họ cố mọi cách để tránh vi phạm pháp luật.

Mọi người đều ghét và khinh rẻ các struldbrug. Sự ra đời của mỗi một struldbrug được xem là một điềm xấu và được ghi chép cẩn thận vào một cuốn sách đặc biệt, bởi thế tuổi của mỗi struldbrug có thể biết rõ nếu tra cứu trong các tài liệu lưu trữ quốc gia. Trong khi đó các ghi chép lưu trữ không được lưu giữ quá một nghìn năm. Do đó nhiều sách vở đã bị vứt bỏ hoặc bị mất trong thời kỳ có các phong trào nổi dậy của quần chúng.

Phương pháp tốt nhất để biết tuổi của struldbrug - đó là hỏi người đó xem còn nhớ đến đức vua và các nhân vật nổi tiếng nào.

Trí nhớ của struldbrug chỉ còn nhớ tên tuổi của đức vua đã lên ngôi khi người đó chưa tròn tám mươi tuổi. Sau đó tra cứu trên biên niên sử thì có thể xác định không khó khăn gì tuổi gần đúng các struldbrug.

Tôi chưa bao giờ thấy cái gì gớm ghiếc hơn những con người này. Đàn bà trông còn kinh tởm hơn đàn ông. Thông qua vẻ kỳ quái bình thường đặc trưng cho sự quá già yếu, họ càng ngày càng có vẻ ma quái thế nào đó. Nỗi kinh khủng do họ gây ra thật không gì mô tả được.

Độc giả chắc dễ dàng thấy là sau khi tôi đã được làm quen với các struldbrug gần gũi hơn, khát vọng bất tử của tôi đã suy giảm rất nhiều.

Bây giờ tôi xấu hổ với những hình ảnh cám dỗ mà cách đây không lâu tôi đã tưởng tượng nên. Tôi nghĩ rằng có thể xem số mệnh của struldbrug là hình phạt đáng sợ nhất.

Đức vua bật cười một cách vui vẻ khi được biết về cuộc trò chuyện giữa tôi và các bạn bè. Ngài đề nghị tôi hãy đưa chừng chục struldbrug theo mình về nước để làm cho những người trong nước không còn sợ chết nữa. Tôi rất lấy làm vui lòng tiếp nhân sự quan tâm ấy với mình và các chi phí cho việc đưa họ đi nếu như các đạo luật cơ bản của vương quốc không cấm việc những struldbrug rời Tổ quốc.

Cần phải thừa nhận là các đạo luật ở đây về các struldbrug thật hết sức thông minh. Nếu không có các đạo luật ấy thì các struldbrug bị thức tỉnh bởi lòng tham lam lúc tuổi già sẽ chiếm lĩnh tất cả của cải của đất nước và thâu tóm mọi quyền lực vào tay mình. Mà chính vì việc không có khả năng đầy đủ để cai trị mà tất yếu họ sẽ đưa đất nước đến chỗ chết.

Chú thích:

[1] Đồng tiền Anh.

[2] Động cơ vĩnh cửu( Latin - perpetaum moblle), trong một thời gian dài đã có những ý đồ vô ích nhằm tạo ra một động cơ vĩnh cửu. Một cỗ máy có thể làm việc mãi không ngừng, không nhận bất cứ nguồn năng lượng nào từ bên ngoài. Ý đồ tạo ra thuốc vạn năng chữa khỏi bách bệnh cũng là ước mơ và thực nghiệm vô ích như tạo ra động cơ vĩnh cửu.


Chương XI

Tác giả rời Luggnagg và đi đến Nhật bản - Từ đây tác giả quay về Amsterdam trên một con tàu Hà Lan và từ Amsterdam về nước Anh.

Tôi hy vọng là chuyện kể của tôi về các struldbrug là một chuyện mới của mình sẽ giải trí phần nào cho đọc giả. Ít nhất là tôi không nhớ đã đọc được cái gì đó tương tự trong các sách về du lịch mà tôi có trong tay.

Giữa vương quốc Luggnagg và hoàng đế Nhật Bản vĩ đại tồn tại mối quan hệ giao dịch buôn bán thường xuyên. Các nhà văn Nhật Bản chắc hẳn có đề cập tới những struldbrug. Nhưng chuyến viếng thăm của tôi ở Nhật Bản quá ư ngắn ngủi. Tôi hoàn toàn không biết tiếng Nhật Bản và cũng không có một khả năng nào để tìm hiểu cho vấn đề này. Nhưng tôi hy vọng rằng những người Hà Lan sau khi đọc xong câu chuyện của tôi mà có quan tâm tới vấn đề bất tử xin hãy bổ sung cho câu chuyện của tôi.

Đức vua cố gắng thuyết phục tôi nhận một chức vụ nào đó trong cung đình của ngài. Nhưng khi biết rõ quyết định không lay chuyển được của tôi để quay về Tổ quốc, ngài đồng ý cho tôi trở về và rủ lòng thương viết một bức thư giới thiệu cho hoàng đế Nhật Bản. Ngài tặng tôi bốn trăm bốn mươi đồng tiền vàng lớn và một viên kim cương đỏ mà tôi đã bán ở Anh lấy một nghìn một trăm pound.

Ngày 6 tháng Năm năm 1709 tôi long trọng từ giã đức vua và các bạn bè của mình. Đức vua đã tỏ ra hết sức lịch thiệp, ra lệnh đội cận vệ của mình hộ tống tôi cho đến tận Glanguenstald, hải cảng của vương quốc nằm ở phía Tây Nam của hòn đảo.

Sau sáu ngày lênh đênh, con tàu bắt đầu đưa tôi đến Nhật Bản và hành trình kéo dài mười lăm ngày.

Chúng tôi bỏ neo ở cảng Xamoschi không lớn lắm, nằm ở vùng Đông Nam Nhật Bản. Thành phố được xây dựng trên một mũi đất dài từ đó có một vịnh hẹp hướng lên phía Bắc theo một nhánh dài hẹp, ở phía Tây Bắc của vịnh là thủ đô của hoàng đế, Yedo. Sau khi lên bờ, tôi đưa trình viên chức hải quan bức thư của quốc vương Luggnagg gửi hoàng đế của ông ta. Ở hải quan người ta biết rất rõ quốc ấn có kích thước bằng lòng bàn tay của tôi. Trên đó có hình quốc vương đang giúp một người nghèo bị thọt chân đứng dậy. Thị trưởng sau khi nghe nói về bức thư này đã tiếp đón tôi như một đặc sứ của một cường quốc láng giềng. Ông cung cấp xe ngựa và người hầu cận cho tôi và gánh mọi chi phí cho chuyến đi của tôi lên Yedo.

Khi đến đấy, tôi được phép vào triều kiến và trình thư. Bức thư đã được bóc theo một nghi lễ rất trọng thể và được người phiên dịch đọc cho hoàng đế. Theo mệnh lệnh hoàng đế, tôi được phép nêu nguyện vọng của mình. Nguyện vọng đó sẽ được hoàng đế thực hiện ngay vì sự kính trọng với người anh em hoàng tộc, quốc vương Luggnagg. Vì nhiệm vụ của người phiên dịch là tiến hành giao dịch với người Hà Lan, bởi thế qua vẻ ngoài của tôi anh ta đã nhanh chóng đoán ra tôi là một người châu Âu, anh ta nhắc lại lời của hoàng đế bằng tiếng Hà Lan, thứ tiếng mà anh ta nắm rất vững. Theo sự dự định từ trước, tôi trả lời rằng tôi là một thương gia Hà Lan bị đắm tàu ở ven bờ biển của một đất nước xa xôi. Từ đó tôi đến được Luggnagg và từ Luggnagg tôi lên tàu đến Nhật Bản, mà ở đây tôi biết những người đồng hương của tôi tiến hành công việc thương mại. Tôi hy vọng rằng người ta sẽ tạo cho tôi cơ hội trở về Tổ quốc với một người nào đó trong số ấy. Tôi kính cẩn xin hoàng đế che chở cho tôi và cho tôi đến Nagasaki, hải cảng duy nhất ở đó cho phép các tàu châu Âu ghé vào. Ở đó tôi sẽ đợi một cơ hội thuận tiện để trở về châu Âu. Trong lời kết luận, tôi xin hoàng đế do lòng kính mến người bảo hộ của tôi, quốc vương Luggnagg, rủ lòng nhân từ miễn cho tôi không phải thi hành lễ nghi bắt buộc với những người đồng hương của tôi là giày xéo lên cây thánh giá17[1]. Hơn nữa tôi đã bị nỗi bất hạnh ném lên mảnh đất này và tôi không có ý định thương mại ở đây.

Khi người phiên dịch dịch cho hoàng đế lời cầu xin này, ngài hơi ngạc nhiên. Ngài nói rằng tôi là người đầu tiên trong số những người đồng hương của mình bộc lộ ra điều tế nhị ấy. Ở ngài bất giác xuất hiện sự nghi ngờ rằng tôi không phải là người Hà Lan, từ những lời tôi nói rõ ràng tôi là một người Cơ Đốc giáo thật sự. Hơn nữa, do mong muốn biểu lộ sự kính mến quốc vương Luggnagg, ngài chấp nhận lời đề nghị kỳ quặc ấy của tôi. Tuy nhiên, ngài thấy rằng cần phải báo trước cho tôi biết ở đây cần phải hành động cực kỳ thận trọng. Ngài truyền cho các quan lại của mình mệnh lệnh, giả tảng như họ do đãng trí, đã quên không bắt tôi phải làm nghi lễ ấy. Bởi vì, nếu những người đồng hương Hà Lan của tôi mà biết rằng tôi không bị buộc tuân theo nghi lễ ấy thì hoàng đế đoán chắc là dọc đường họ sẽ cứa cổ tôi. Tôi nhờ người phiên dịch biểu lộ hộ tôi lòng biết ơn sâu sắc do đặc ân này. Cũng đúng dịp đó người ta phải phái một đội lính đến Nagasaki. Người ta đề nghị tôi đi với đội lính này và người đội trưởng được lệnh bảo vệ tôi dọc đường và được giao một chỉ lệnh đặc biệt về tôi.

Sau một cuộc hành trình dài và mệt mỏi tôi đến Nagasaki vào ngày 9 tháng Sáu năm 1709. Ở đây, tôi được làm quen với một đội thủy thủ Hà Lan, phục vụ trên con tàu "Amboyna" của Amsterdam với trọng tải bốn trăm năm mươi tấn. Tôi đã từng sống lâu ở Hà Lan đã học tập ở Leyden và nói tiếng Hà Lan rất tốt. Các thủy thủ nhận ra rằng tôi đã từ đâu đến và bắt đầu tò mò hỏi về các chuyến du lịch và về cuộc đời tôi. Tôi bịa một câu chuyện thật ngắn gọn nhưng giống như thật, lược bỏ phần lớn các sự kiện. Tôi có khá nhiều người quen biết ở Hà Lan và tôi cũng chẳng khó gì mà không nghĩ ra họ của bố mẹ tôi, mà theo lời tôi họ sống ở một xóm làng nhỏ bé ở tỉnh Gelderland. Tôi đề nghị thuyền trưởng con tàu (không phải là anh chàng Theodorus Vangrult) lấy bao nhiêu tiền cũng được cho chuyến về Hà Lan. Nhưng sau khi biết tôi là nhà phẫu thuật, thuyền trưởng bằng lòng chỉ lấy một nửa số chi phí với điều kiện tôi làm nghĩa vụ của bác sĩ trên tàu. Trước khi lên đường, các thủy thủ nhiều lần hỏi tôi xem đã thực hiện lễ nghi với cây thánh giá như trên đã kể chưa, nhưng tôi đã trả lời hết sức mập mờ. Tuy nhiên, viên thuyền trưởng, một con người ác độc, đã chỉ tôi cho viên sĩ quan Nhật Bản và nói rằng tôi vẫn chưa bước qua thánh giá. Nhưng viên sĩ quan đã nhận được một chỉ lệnh đặc biệt với tôi nên đã cho tên đê tiện hai mươi gậy tre vào vai. Sau chuyện đó người ta không còn đặt các vấn đề đại loại như vậy với tôi nữa.

Trong suốt cuộc hành trình không xảy ra chuyện gì đáng nhắc lại nữa. Đến mũi Hảo Vọng thì được gió thuận, chúng tôi dừng lại đó mấy ngày để lấy nước ngọt dự trữ. Ngày 10 tháng Tư năm 1710 chúng tôi thuận đường tới Amsterdam, bị mất bốn người trên đường: ba chết vì bệnh tật và người thứ tư bị ngã từ cột buồm xuống biển ven bờ Guinea. Từ Amsterdam tôi đi Anh trên một con tàu nhỏ đậu ở thành phố này.

Ngày 16 tháng Tư chúng tôi bỏ neo ở Downs.

Sáng ngày hôm sau tôi lên bờ và tôi lại trở về Tổ quốc mình sau năm năm rưỡi vắng mặt. Tôi đi thẳng đến Redriff và lúc hai giờ trưa cùng ngày tôi được gặp lại vợ và con vẫn khỏe mạnh.



Chú thích:

18[1] Như các nhà du lịch kể lại, những người bị nghi là theo Cơ đốc giáo ở Nhật Bản thế kỷ XVII và XVIII bị bắt phải giày xéo lên cây thánh giá. Những người từ chối làm điều đó sẽ bị nhục hình và xử tử. Việc hành hạ người Cơ Đốc giáo vẫn tiếp tục ở Nhật Bản cho đến năm 1873.


PHẦN IV - Chương 1

CUỘC DU LỊCH ĐẾN ĐẤT NƯỚC NGỰA-NGƯỜI



Tác giả lại lên đường đi du lịch với cương vị thuyền trưởng. - Thủy thủ đoàn âm mưu chống lại thuyền trưởng. - Tác giả bị nhốt lâu trong cabin tàu, sau đó được thả lên bờ của đất nước xa lạ. Tác giả đi sâu vào đất liền. - Mô tả đặc điểm của giống động vật kỳ quặc Yahoo19[1]. - Tác giả gặp hai Ngựa-người.

Tôi ở nhà với vợ và con cái gần năm tháng trời và có thể tự coi mình là hết sức hạnh phúc nếu như cuối cùng tôi biết được giá trị của cuộc sống thanh bình. Nhưng niềm say mê du lịch không để tôi yên. Người ta lại đề nghị với tôi những điều kiện hết sức có lợi với cương vị thuyền trưởng trên con tàu “Adventurer”, một con tàu buôn tốt với trọng tải ba trăm năm mươi tấn, còn tôi sau khi đắn đo không lâu đã tiếp nhận đề nghị. Công việc hàng hải rất quen thuộc với tôi còn việc mổ xẻ đối với tôi đã quá chán ngấy. Bởi vậy, trong khi tôi từ chối đảm nhiệm công việc này tôi đã mời Robert Purefoy một người trẻ tuổi nhưng là một bác sỹ thạo việc làm bác sỹ trên tàu. Chúng tôi khởi hành từ Portsmouth ngày 7 tháng Chín năm 1710, ngày 14 chúng tôi gặp thuyền trưởng Pocock đi từ Bristol ở Teneriffe, ông đi Campechy để lấy gỗ đàn hương. Nhưng cơn bão nổi lên vào ngày 16 đã chia rẽ chúng tôi. Khi quay trở về Anh tôi được biết rằng con tàu của ông ta đã bị đắm, toàn thể thủy thủ đoàn chỉ có một thủy thủ tập sự sống sót. Đây là một thuyền trưởng giỏi và dũng cảm nhưng rất bướng bỉnh. Tôi không hề nghi ngờ gì khi cho rằng thiếu sót ấy đã làm ông ta bị tai nạn.

Trong thời gian hành trình, cơn sốt nhiệt đới đã giết chết một số thủy thủ trên con tàu chúng tôi. Để bổ sung thủy thủ đoàn tôi đã tuyển mộ những người ở Barbados và ở những đảo khác thuộc quần đảo Anti, nơi tôi đã ghé vào theo sự sắp xếp của chủ tàu. Nhưng ngay sau đó tôi thấy hối hận cay đắng vì điều này. Phần lớn những thủy thủ mà tôi chọn là những kẻ đáng ngờ và như sau này mới rõ, chúng là những tên cướp biển. Trên boong tàu của tôi có năm mươi người. Tôi được giao trách nhiệm tiến hành trao đổi buôn bán với những người da đỏ ở Nam Thái Bình Dương và tiến hành nghiên cứu các khu vực còn ít được biết đến trên các vĩ độ này.

Những tên vô lại mà tôi lấy lên tàu, đã nhanh chóng lôi kéo số thủy thủ còn lại theo chúng. Chúng quyết định bắt giam tôi và chiếm tàu. Âm mưu này cần phải thực hiện ngay lập tức. Một buổi sáng bọn chúng xông vào cabin, trói chân và tay tôi lại và dọa sẽ ném xuống biển nếu tôi có ý định chống cự. Tôi đành phải phục tùng và chịu làm tù binh của chúng. Bọn kẻ cướp bắt tôi phải thề rằng tôi sẽ không chống cự nữa. Khi tôi đã thực hiện yêu cầu của chúng, chúng cởi trói cho tôi nhưng lại xích tôi vào giường và đặt người gác có vũ khí sẵn sàng ở ngay cửa cabin, tên này được lệnh bắn khi tôi có bất kỳ ý đồ bỏ trốn nhỏ nhất nào. Chúng đưa thức ăn và nước uống đến cabin cho tôi còn chúng tự nắm quyền điều khiển con tàu.

Bọn cướp biển quyết định tìm kiếm và cướp bóc các con tàu Bồ Đào Nha. Nhưng để thực hiện các ý đồ đó thì lực lượng của chúng quá ít. Bởi thế chúng quyết định bán hết hàng hóa có trên tàu và hướng đến đảo Madagascar để bổ sung thủy thủ đoàn. Trong suốt mấy tuần lễ bọn cướp đã đi quanh vùng, tiến hành trao đổi buôn bán với những người da đỏ. Nhưng tôi không biết được hành trình của chúng bởi vì trong suốt thời gian bị nhốt và canh giữ trong cabin, tôi chờ đợi từng phút một hình phạt tàn bạo mà chúng thường đe dọa tôi.

Ngày 9 tháng Ba năm 1711 một tên James Welch nào đó xuống khoang và tuyên bố thuyền trưởng ra lệnh cho hắn đưa tôi lên bờ. Tôi thử làm cho hắn nghĩ lại nhưng tất cả đều vô ích. Thậm chí hắn còn từ chối không nói cho tôi biết thuyền trưởng mới của chúng là ai nữa. Bọn kẻ cướp cho phép tôi mặc bộ quần áo tốt nhất và hầu như còn mới của tôi và cầm theo một tay nải quần áo nhỏ; trong số vũ khí chúng chỉ để lại cho tôi con dao găm. Sự tử tế của chúng đã đi xa tới mức chúng quên không khám các túi của tôi, trong đó còn tiền và một số thứ lặt vặt. Sau đó chúng đưa tôi xuống xuồng và hướng vào bờ nhìn thấy rõ cách con tàu chừng một hải lý. Khi đến bãi cạn bọn cướp thả tôi xuống và quay trở lại tàu. Tôi yêu cầu hãy nói xem đây là nơi nào. Nhưng những người này thề rằng chúng biết về nơi đây cũng không hơn gì tôi. Chúng kể lại rằng thuyền trưởng, như chúng gọi hắn như vậy, từ lâu đã quyết định tách tôi ra, còn khi tàu đã bán hết hàng hóa thì chúng sẽ bắt đầu đi tới Madagascar. Sau đó con xuồng rời bãi cạn. Lúc từ biệt, chúng chúc tôi mọi điều may mắn và khuyên tôi hãy nhanh chóng lội vào bờ khi nước triều chưa lên.

Lời khuyên thật đúng đắn và tôi lội qua bãi cạn lên bờ. Sau khi lên bờ tôi ngồi nghỉ trên một mô đất và bắt đầu suy nghĩ sắp tới sẽ làm gì. Tôi chẳng có một chút thức ăn dự trữ nào và cũng chẳng có phương tiện để kiếm thức ăn nữa. Tôi chỉ có một mình và không có một công cụ nào. Tôi chỉ có mỗi một cách là trao vào tay những thổ dân man rợ nào đó mà tôi gặp đầu tiên những vòng đeo tay, hạt thủy tinh nhiều màu và các thứ lặt vặt khác để dành cảm tình của họ. Các thủy thủ bao giờ cũng dự trữ các thứ này khi lên đường đi tới các đất nước xa xôi. Một số thứ lặt vặt ấy tôi đã kịp vơ cho vào túi trước khi rời khỏi cabin của tôi. Sau khi quyết định như vậy, tôi đứng dậy và đi sâu vào đất liền.

Trước mắt tôi một thung lũng rộng trải dài. Những hàng cây dài cắt ngang thung lũng. Nhưng những cây cối ấy không phải do bàn tay con người trồng lên. Giữa những cây ấy nổi bật lên những đồng cỏ xanh và những cánh đồng gieo yến mạch. Tôi tiến lên phía trước một cách cẩn thận vừa đi vừa nhìn tứ phía. Tôi luôn luôn sợ có ai đó bất thình lình tiến công tôi hoặc có những mũi tên từ phía sau hoặc bên sườn nhắm vào tôi.

Một lúc sau tôi bước ra con đường cái. Trên đường thấy có nhiều vết chân người, một số vết chân bò nhưng nhiều hơn cả là vết chân ngựa. Cuối cùng tôi cũng trông thấy trên đồng có những động vật nào đó. Dáng vẻ kỳ quái và đáng sợ của chúng khiến tôi e ngại. Tôi núp vào một bụi cây để có thể quan sát chúng tốt hơn. Một số con trong số đó tiến gần lại chỗ mà tôi đang núp khiến tôi có thể thấy rõ chúng. Đầu và ngực của chúng phủ lông rất dày - ở một số là lông xoăn, còn số khác thì là lông thẳng. Phần nhiều chúng có râu giống như râu dê. Dọc lưng và phần chân trước có các giải lông hẹp chạy dài. Nhưng thân thể của chúng trần trụi khiến tôi có thể thấy màu da nâu đen. Chúng không có đuôi. Các động vật cái nhỏ hơn các con đực một chút: trên đầu của chúng cũng có các lông dài nhưng mặt thì lại nhẵn nhụi còn toàn thân thì chỉ phủ một lớp lông thưa. Lông của các con đực và cái cũng có những màu sắc khác nhau: nâu, đen và hung hung. Chúng ít khi đứng yên tại chỗ, lúc nào cũng chạy, nhảy và phi với sự nhanh nhẹn lạ thường. Những móng dài ở chân trước và chân sau cho phép chúng nhanh như sóc khi leo lên các cây cao. Nói chung, trong các chuyến du lịch của tôi chưa bao giờ tôi gặp những động vật kỳ quái hơn và xấu xa ghê tởm hơn. Bởi thế tôi không dám nhìn chúng lâu. Sau khi thấy hết sự kinh tởm và gớm guốc, tôi vội vàng ra khỏi chỗ núp và tiếp tục đi theo con đường với hy vọng nó sẽ đưa tôi đến một túp lều của người da đỏ nào đấy.

Nhưng tôi chỉ mới đi được vài bước thì đã gặp một trong số các động vật gớm guốc ấy. Nó chạy thẳng đến chỗ tôi. Nhận thấy tôi, con vật ấy dừng lại và với bộ mặt nhăn nhó ghê sợ trố mắt ra nhìn tôi. Sau đó trong khi tiến gần tôi nó giờ chân trước lên - có thể vì tò mò hoặc có thể vì có ý định độc ác mà tôi không thể nào xác định được. Tôi nắm chặt con dao găm và giáng một đòn mạnh vào chân của con vật. Tôi không muốn sử dụng mũi nhọn con dao vì ngại rằng cư dân của hòn đảo sẽ nổi giận nếu như tôi giết hoặc làm què quặt con vật nuôi của họ. Cảm thấy đau, con vật bỏ chạy thục mạng và kêu ré lên to tới mức cả đàn, đông chừng gần bốn chục con như vậy từ cánh đồng bên cạnh lao đến cùng với tiếng rú và dáng vẻ gớm ghiếc vây lấy tôi. Tôi lao đến một cái cây, dựa lưng vào thân cây và vung dao găm lên để chúng không đến gần tôi được. Tuy nhiên tình thế của tôi hết sức tồi tệ. Một số con đã lao lên cây và sẵn sàng tấn công tôi từ trên cao. Số còn lại đứng sít lại với nhau và vây lấy tôi.

Tôi đã không có hy vọng được cứu thoát và sẵn sàng trả giá đắt cho sinh mệnh của mình, thì tôi bỗng nhiên nhận ra thấy có một nỗi kinh hoàng nào đó xuất hiện giữa các kẻ thù của tôi. Trong nháy mắt chúng bỏ chạy tán loạn. Vừa hoàn hồn một chút, tôi đánh bạo rời cái cây và tiếp tục lên đường. Khi nhìn sang bên trái tôi trông thấy một con ngựa đang thong thả đi trên đồng. Rõ ràng con ngựa này là nguyên nhân bỏ chạy của những kẻ đã bao vây tôi khi nhận ra nó trước tôi. Khi tiến lại gần tôi, con ngựa thở nhẹ ra nhưng nhanh chóng tự chủ và bắt đầu nhìn thẳng vào mặt tôi với vẻ hết sức ngạc nhiên. Nó nhìn vào tay và chân tôi và đi vòng quanh mấy lần. Tôi muốn tiếp tục lên đường nhưng con ngựa ngăn tôi lại, tiếp tục liếc nhìn tôi nhưng không biểu hiện ý định xúc phạm tôi một chút nào. Và thế là chúng tôi đứng một lúc nhìn vào mặt nhau.

Cuối cùng tôi đánh bạo giơ tay lên cổ ngựa định vuốt ve nó. Nhưng con vật tránh cử chỉ dịu dàng ấy của tôi với vẻ khinh bỉ, lắc đầu, cau mày và khéo léo đưa chân phải trước lên gạt tay tôi ra. Sau đó con ngựa hý lên một cách gợi cảm khiến cho tôi có ý nghĩ: phải chăng nó nói chuyện bằng ngôn ngữ của mình.

Ngay lập tức một con ngựa nữa đến chỗ chúng tôi. Cả hai con ngựa trao đổi với nhau những lời chào đúng nghi lễ nhất. Chúng khẽ động các móng chân phải trước vào nhau và bắt đầu lần lượt hý lên, thay đổi các âm theo các kiểu khác nhau bởi thế các âm dường như gần tách bạch rõ ràng. Sau đó chúng tách ra khỏi tôi một vài bước và đi dạo song song bên nhau giống như là những người cần phải quyết định một vấn đề quan trọng. Trong khi đó chúng vẫn quan sát tôi tựa hồ như không cho tôi chạy mất. Khi theo dõi tính cách của các động vật phi lý này bất giác tôi nghĩ rằng nếu những động vật bốn chân bình thường ở đất nước này còn như thế nữa thì những cư dân hai chân của nó còn đến thế nào nữa. Họ hẳn là một dân tộc thông minh nhất trên trái đất. Ý tưởng ấy đã động viên tôi rất nhiều và tôi quyết định lên đường cho đến khi nào còn chưa gặp được nơi có người ở hoặc chưa gặp được một thổ dân nào đấy. Nhưng con ngựa đầu tiên có đôi mắt xám nhận ra rằng tôi ra đi thì bắt đầu hý lên một cách tình cảm sau lưng tôi khiến tôi có cảm giác là tôi hiểu được nó muốn gì. Tôi quay lại ngay lập tức và tiến lại gần nó để xem sắp tới sẽ còn gì nữa. Cũng cần phải thừa nhận là tôi bắt đầu hơi e ngại một chút về kết cục của chuyện phiêu lưu này mặc dù tôi cố gắng giấu nỗi sợ hại của chính mình. Độc giả chắc cũng chẳng khó khăn gì để tự hình dung hoàn cảnh của tôi lúc đó thật chẳng dễ chịu chút nào.

Cả hai con ngựa đi lại gần tôi và hết sức chăm chú bắt đầu quan sát mặt và tay tôi. Con ngựa xám khẽ chạm móng chân phải trước vào mọi phía của cái mũ của tôi, dường như nó ngập ngừng muốn tôi bỏ mũ. Sau khi nhấc ra tôi lại đội nó vào. Cử động của tôi rõ ràng là làm con ngựa xám và bạn của nó (có màu lông đen tuyền) hết sức ngạc nhiên. Con ngựa ô đụng vào vạt áo khoác của tôi, rõ ràng tình huống mà cả hai con đang sa vào đã gây cho cả hai sự bỡ ngỡ rất nhiều. Con ngựa ô vuốt ve bàn tay phải của tôi và rõ ràng là ngạc nhiên trước màu sắc và độ mịn màng của nó. Nó giữ chặt tay tôi giữa móng và cổ chân mạnh đến mức tôi phải kêu lên vì đau. Con ngựa lập tức buông tay tôi ra và sau đó cả hai bắt đầu đụng vào tôi hết sức thận trọng. Đôi giày và tất của tôi làm chúng ngơ ngác hoàn toàn. Chúng xem xét và sờ mó mãi các thứ ấy và thể hiện sự ngạc nhiên bằng tiếng hý và các cử chỉ. Nói chung mọi tính cách của các động vật này khác biệt bởi tính hợp lý và tính khôn ngoan cuối cùng đã khiến tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng đó là các sinh linh kỳ diệu mà do một nguyên nhân nào đó dần dần bị biến thành ngựa. Khi gặp trên đường một vật lạ, chúng quyết định đùa giỡn và dọa nó. Ngoài ra, cũng có thể chúng thật sự kinh ngạc trước hình dạng con người, quần áo ngoài, khuôn mặt và cơ thể hẳn là không giống với những người đang sống trên đất nước xa xôi này. Khi rút ra kết luận như vậy, tôi đánh bạo hướng vào chúng và nói các lời sau đây: “Thưa các ngài, nếu các ngài là những thầy phù thủy thật sự thì tôi có cơ sở để cho rằng các ngài hiểu mọi ngôn ngữ. Bởi vậy tôi xin mạo muội thưa với các ngài rằng, tôi là một người Anh bất hạnh. Số mệnh ác độc đã ném tôi lên bờ của đất nước các ngài. Tôi xin phép được cưỡi lên lưng của một trong số các ngài như là cưỡi lên lưng của một con ngựa thực sự và đi đến một căn lều hay một xóm làng nào đấy nơi tôi có thể được nghỉ ngơi và có chốn nương thân. Với tấm lòng biết ơn sự giúp đỡ này tôi xin biếu tặng các ngài con dao nhỏ hoặc chuỗi vòng này”. Lúc đó tôi rút cả hai vật ấy từ trong túi ra.

Trong khi tôi nói, cả hai con ngựa đứng im lặng với cái vẻ giống như là chúng nghe các lời của tôi hết sức chăm chú. Khi tôi kết thúc, chúng hý lên mấy lần và hướng vào nhau dường như tiến hành một cuộc trao đổi hết sức nghiêm túc. Khi đó tôi hoàn toàn thấy rõ là ngôn ngữ của chúng thể hiện tình cảm rất rõ ràng, và nó còn dễ hơn cả tiếng Trung Quốc khi phân tách thành từng từ và từng âm thanh.

Tôi nghe thấy rõ ràng từ Yahoo mà cả hai con ngựa nhắc lại mấy lần. Mặc dù tôi không thể hiểu ý nghĩa của nó nhưng trong khi chúng mải bận nói chuyện, tôi cũng cố gắng ghi nhớ từ này. Khi hai con ngựa vừa mới im lặng tôi liền kêu thật to từ “Yahoo”, “Yahoo” cố gắng mô phỏng tiếng hý của ngựa. Điều đó rõ ràng làm chúng rất lạ lùng và con ngựa xám hai lần nhắc lại từ này giống như muốn dạy tôi biết cách phát âm cho đúng. Tôi bắt đầu nhắc lại theo nó gắng sao cho chính xác hơn và cứ sau mỗi lần tôi lại thấy mình đạt được tiến bộ trông thấy mặc dù còn lâu mới có thể gọi là hoàn thiện. Sau đấy con ngựa ô thử dạy tôi một từ còn khó hơn nữa: Houyhnhnm. Phát âm từ này dường như khó không thể tả được nếu so với từ đầu tiên, nhưng sau hai ba lần thử, cuối cùng tôi đã nói được khá là rõ ràng. Cả hai con ngựa rõ ràng khâm phục khả năng hiểu biết của tôi.

Sau khi nói chuyện thêm chút nữa, hai con ngựa chia tay nhau, chúng gõ móng vào nhau như là khi mới gặp. Sau đó con ngựa xám ra dấu cho tôi đi lên trước. Tôi cũng đủ thông minh để thực hiện theo ý của nó trong khi chưa tìm được một người hướng dẫn tốt hơn. Thấy tôi đi chậm lại, con ngựa bắt đầu hý lên “hhuun hhuun”. Sau khi đoán ra tiếng hý ấy có nghĩa là gì tôi cố gắng giải thích cho nó biết là tôi đã quá mệt nên không thể đi nhanh hơn. Khi đó con ngựa dừng lại để tôi có thể nghỉ ngơi một chút.




tải về 1.07 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương